Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Futsal”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 71: Dòng 71:
[[Thể loại:Trò chơi với bóng]]
[[Thể loại:Trò chơi với bóng]]
[[Thể loại:Môn thể thao đồng đội]]
[[Thể loại:Môn thể thao đồng đội]]
[[Thể loại:Môn thể thao thể chất]]

Phiên bản lúc 20:22, ngày 27 tháng 7 năm 2017

Bóng đá trong nhà (Futsal) là một loại hình bóng đá thi đấu bên trong nhà thi đấu, có thể được xem như là một dạng của bóng đá sân nhỏ.[1] Tên của nó có nguồn gốc từ tiếng Bồ Đào Nha "futebol de salão" và tiếng Tây Ban Nha "fútbol sala/de salón", đều dịch là bóng đá trong nhà. Nhiều cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp đã lựa chọn chơi bóng đá trong nhà để luyện tập các kĩ năng cơ bản.

Bóng đá trong nhà được thi đấu giữa hai đội, đội hình chính thức ra sân mỗi bên gồm 5 cầu thủ và một số cầu thủ dự bị. Canh giữ cầu môn mỗi bên vẫn là vị trí thủ môn như thông thường. Bóng thi đấu nặng và nhỏ hơn quả bóng đá thông thường.

Một trận thi đấu trong nhà

Lịch sử

Hình thành

Sự phát triển của bóng đá trong nhà bắt đầu từ năm 1930 tại Montevideo, Uruguay, cùng năm tổ chức lễ khai mạc World Cup ở nước này. Người góp công đầu phát triển môn bóng đá này là Juan Carlos Ceriani đã sáng tạo ra trò chơi dành cho 5 người mỗi đội và có thể chơi trong nhà hoặc ngoài trời. Cũng khoảng năm đó, một loại bóng đá tương tự chơi trên sân bóng rổ được phát triển ở São Paulo, Brazil.[2] Những loại bóng đá mới này nhanh chóng được chấp nhận khắp Nam Mỹ. Liên đoàn thể thao Brazil đặt ra luật lệ chính thức đầu tiên cho futebol de salão vào năm 1958.

Phát triển

Liên đoàn bóng đá trong nhà thế giới (Federación Internacional de Fútbol de Salón, International Futsal Federation = FIFUSA) được thành lập năm 1971 để quản lý môn này, và tổ chức giải vô địch bóng đá trong nhà thế giới đầu tiên ở São Paulo năm 1982. Do một cuộc tranh cãi với FIFA về việc quản lý fútbol, FIFUSA đã thành lập ra futsal năm 1985.

FIFA bắt đầu quản lý môn bóng đá trong nhà của riêng họ với những luật lệ riêng và tổ chức giải vô địch bóng đá trong nhà FIFA lần đầu tiên năm 1989 tại Rotterdam, Hà Lan. Một trong những thay đổi đáng kể nhất của FIFA với bóng đá trong nhà đó là tăng trọng lượng và giảm kích cỡ của quả bóng (kích cỡ số 4 so với bóng tiêu chuẩn) nhằm giảm độ nảy của bóng bớt đi 30%, điều đó cho phép chơi nhanh hơn và lần đầu tiên có thể ghi bàn bằng đầu (dù nó vẫn còn khó khắn và không phổ biến).

Năm 2002, các thành viên của Liên đoàn bóng đá trong nhà Liên Mỹ PANAFUTSAL (La Confederación Panamericana de Futsal, The Pan-American Futsal Confederation) thành lập Hiệp hội bóng đá trong nhà thế giới (Asociación Mundial de Fútbol de Salón, World Futsal Association = AMF), một tổ chức bóng đá trong nhà quốc tế độc lập với FIFA và là tổ chức kế tục của FIFUSA. Cả FIFA và AMF tiếp tục cùng quản lý bóng đá trong nhà.

Luật chơi

Luật chơi do FIFA hoặc AMF ban hành và duy trì, nó cũng có thể được lựa chọn trong khuôn khổ cho phép để thích hợp với mỗi giải đấu và mỗi địa phương.

Cầu thủ

Mỗi đội gồm 5 cầu thủ, bao gồm cả thủ môn. Số lượng các cầu thủ mỗi đội được thay thế tối đa là bảy, với số lần thay không giới hạn. Nếu một trong hai đội bóng có ít hơn 3 cầu thủ trong đội hình thì trận đấu sẽ bị hủy bỏ.

Trang phục thi đấu của cầu thủ gồm áo, quần, tất và giày cao su. Thủ môn được phép mặc quần dài và bộ đồ có màu khác để phân biệt với các cầu thủ khác trong đội và trọng tài. Khi ra sân không được phép đeo trang sức hoặc các đồ vật khác có thể gây nguy hiểm khi thi đấu.

Trọng tài

Trận đấu được điều khiển bởi một trọng tài chính, đây là người duy nhất có quyền dừng trận đấu nếu xét thấy có các can thiệp tác động ngoài sân đấu. Hỗ trợ cho trọng tài chính điều khiển trận đấu là một trọng tài phụ bên ngoài biên và trọng tài bàn ghi chép quản lý tổng hợp số liệu thông tin trận đấu. Trọng tài bàn có thể thay thế cho trọng tài phụ, và trọng tài phụ có thể thay thế cho trọng tài chính nếu có các sự cố thương tích xảy ra đối với trọng tài.

Sân thi đấu

Một sân thi đấu bóng đá trong nhà

Sân được làm bằng gỗ hoặc vật liệu nhân tạo, gỗ hoặc bề mặt tương tự, hoặc bất kỳ vật liệu bằng phẳng, mịn màng và không bị mài mòn cũng có thể được sử dụng. Sân thi đấu tiêu chuẩn tổ chức các trận đấu quốc tế có kích thước chiều dài từ 38–42 m, và chiều rộng từ 20–25 m. Đối với việc tổ chức các trận đấu mang cấp độ thấp hơn sân có thể có kích thước dài từ 25–42 m, rộng từ 16–25 m, phải đảm bảo sân bóng thi đấu có hình chữ nhật với đường biên cầu môn là biên ngang và ngắn hơn đường biên dọc. Trần nhà thi đấu phải cao từ 4 m trở lên. Trên đường biên ngang (đường biên ngắn hơn) đặt cầu môn ở chính giữa chiều dài. Cầu môn cao 2 m và rộng 3 m (rộng theo chiều biên ngang). Lưới làm bằng sợi đay, cây gai dầu hoặc nylon được gắn vào mặt sau của trụ khung thành và xà ngang. Phần dưới của lưới được gắn vào ống cong hoặc một phương tiện hỗ trợ thích hợp. Độ sâu của khung thành là 80 cm ở phía trên và 1 m ở phía dưới.[3]

Trước mặt của từng khung thành (cầu môn) là khu cấm địa. Khu vực này được tạo ra bằng cách vẽ phần tư vòng tròn với bán kính 6 m từ đường biên ngang với hai tâm là hai cột dọc khung thành. Phần trên của mỗi phần tư vòng tròn sau đó nối với một đường kẻ 3,16m chạy song song với đường khung thành giữa hai trụ khung thành. Đường kẻ đánh dấu rìa của khu vực cấm địa được biết đến như đường cấm địa. Khu vực cấm địa là nơi thủ môn được phép chạm bóng bằng tay của mình. Một cú đá phạt từ chấm phạt đền được trao cho đối phươngg nếu một cầu thủ phạm lỗi ngay trong khu vực cấm địa của đội nhà.

Các giải thi đấu quốc tế chính

Từ 1971 - 2002
Giải vô địch bóng đá trong nhà thế giới - FIFUSA
  • 1982 São Paulo, Brazil. Vô địch: Brazil. Á quân: Paraguay.
  • 1985 Madrid, Tây Ban Nha. Vô địch: Brazil. Á quân: Tây Ban Nha.
  • 1988 Australia. Vô địch: Paraguay. Á quân: Brazil.
  • 1991 Italy. Vô địch: Bồ Đào Nha. Á quân: Paraguay.
  • 1994 Argentina. Vô địch: Argentina. Á quân: Colombia.
  • 1997 Mexico. Vô địch: Venezuela. Á quân: Uruguay.
  • 2000 Bolivia. Vô địch: Colombia. Á quân: Bolivia.
Từ 2002
Giải vô địch bóng đá trong nhà thế giới - AMF
  • 2003 Asunción, Paraguay. Vô địch: Paraguay. Á quân: Colombia.
  • 2007 Mendoza, Argentina.
Từ 1989
FIFA Futsal World Cups (Giải vô địch bóng đá trong nhà thế giới - FIFA)
  • 1989 (Rotterdam, Hà Lan). Vô địch: Brazil. Á quân: Hà Lan. Giải ba: Hoa Kỳ. Giải bốn: Bỉ.
  • 1992 (Hồng Kông). Vô địch: Brazil. Á quân: Hoa Kỳ. Giải ba: Tây Ban Nha. Giải bốn: Iran.
  • 1996 (Barcelona, Tây Ban Nha). Vô địch: Brazil. Á quân: Tây Ban Nha. Giải ba: Nga. Giải bốn: Ukraine.
  • 2000 (Guatemala). Vô địch: Tây Ban Nha. Á quân: Brazil. Giải ba: Bồ Đào Nha. Giải bốn: Nga.
  • 2004 (Đài Loan). Vô địch: Tây Ban Nha. Á quân: Italy. Giải ba: Brazil. Giải bốn: Argentina.

Chú thích

  1. ^ “Futsal - the game that made football beautiful”. BBC Sport. Truy cập 23 tháng 9 năm 2015.
  2. ^ “History of Futsal”. Truy cập 23 tháng 9 năm 2015.
  3. ^ Luật thi đấu bóng đá trong nhà của FIFA

Liên kết ngoài