Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Núi Bân”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 3: Dòng 3:


==Vị trí, tên gọi==
==Vị trí, tên gọi==
'''Núi Bân''' ở xứ Cồn Mồ, thuộc xóm Hành, thôn Tứ Tây, xã Thủy An (nay là phường An Tây, thành phố Huế). Thời [[nhà Nguyễn]], núi Bân thuộc địa phận xã An Cựu, [[huyện Hương Trà]].
'''Núi Bân''' ở xứ Cồn Mồ, thuộc xóm Hành, thôn Tứ Tây, xã Thủy An (nay là phường An Tây, thành phố Huế). Thời [[nhà Nguyễn]], núi Bân thuộc địa phận xã An Cựu, huyện [[Hương Trà]].
Khi xưa, không rõ núi tên gì, nhưng từ khi Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ cho ban xẻ núi Bân thành ba tầng, để lập đàn tế cáo trời thì nhân nhân gọi núi là ''Động Tầng, Ba Tầng, Tam Tầng, Ba Vành, Hòn Thiên''.
Khi xưa, không rõ núi tên gì, nhưng từ khi Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ cho ban xẻ núi Bân thành ba tầng, để lập đàn tế cáo trời thì nhân nhân gọi núi là ''Động Tầng, Ba Tầng, Tam Tầng, Ba Vành, Hòn Thiên''.

Phiên bản lúc 11:57, ngày 27 tháng 5 năm 2010

Tái hiện Lễ đăng quang của Hoàng đế Quang Trung tại Núi Bân

Núi Bân (Huế, Việt Nam) là nơi Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ cho lập đàn (Đàn Nam Giao Tây Sơn) để làm lễ tế cáo trời, lên ngôi Hoàng đế và xuất quân ra Bắc Hà đánh quân Thanh xâm lược vào ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (22 tháng 12 năm 1788).

Vị trí, tên gọi

Núi Bân ở xứ Cồn Mồ, thuộc xóm Hành, thôn Tứ Tây, xã Thủy An (nay là phường An Tây, thành phố Huế). Thời nhà Nguyễn, núi Bân thuộc địa phận xã An Cựu, huyện Hương Trà.

Khi xưa, không rõ núi tên gì, nhưng từ khi Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ cho ban xẻ núi Bân thành ba tầng, để lập đàn tế cáo trời thì nhân nhân gọi núi là Động Tầng, Ba Tầng, Tam Tầng, Ba Vành, Hòn Thiên.

Theo PGS, TS. Đỗ Bang, thì rất có thể Nguyễn Huệ là người đã đặt tên Bân cho núi (nơi mà ông chọn để đắp đàn), với nghĩa: trong và ngoài đều hoàn mỹ.

Sách Hoàng Lê nhất thống chí (bản của Ngô Thời Chí) chép nhầm chữ Bân (chữ Hán) thành chữ Sam. Và khi phiên âm, các tác giả Trần Trọng Kim, Hoa Bằng, Phan Trần Chúc đều đã ghi nhầm chữ Bân thành chữ Bàn.

Đàn Nam Giao Tây Sơn

Núi Bân cao 43,92m, diện tích 80.956m2; khi ban xẻ thành ba khối hình nón cụt chồng lên nhau tăng dần theo chiều cao.

Từ chân núi lên đỉnh ở độ cao 39m, là tầng thứ nhất có chu vi 220m. Bề rộng của tầng này không đều nhau: phía Bắc rộng 19m, phía Nam rộng 16,80m. Phía Tây và phía Đông chỉ rộng chừng 12m. Ngay ở chính giữa mặt tầng thứ nhất về phía Tây-Nam, hiện còn dấu vết một tầng phụ cao 1m.

Tầng thứ hai ở độ cao 42m, có chu vi 122,5m, bề rộng của tầng này là: Phía bắc: 8,4m; phía Nam:10,3m; Phía Tây và phía Đông chừng 11,5m.

Tầng thứ ba ở ngay đỉnh đồi, bề mặt khá phẳng, có chu vi 52,7m.

Có bốn con đường đi lên đỉnh, bề rộng các con đường này càng lên cao càng thu hẹp dần, bề ngang ở tầng thứ nhất là 5,2m, ở tầng thứ hai chỉ còn 4 m…

Và để tạo nên thế vững chắc cho đàn nhằm sử dụng lâu dài, người ta đã dùng gạch và đá xếp bó vỉa quanh ba tầng đàn. Do vậy, sau khi Nguyễn Huệ làm lễ lên ngôi và xuất quân ra Bắc năm 1788, thì đàn vẫn được tiếp tục sử dụng để làm lễ cáo trời trong những năm tiếp theo dưới triều Quang Trung (Nguyễn Huệ) và Cảnh Thịnh (Nguyễn Quang Toản).

Câu đối liên quan

Tại đền thờ Quang Trung ở chân núi Liên Phong, gần cửa biển Lạch Bạng, thuộc xã Hải Thượng, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa, còn lưu hai câu đối trên hai trụ gạch trước cổng đền, như sau:

Anh hùng thanh sất Bân Sơn cổ,
Miếu mạo quang lưu Bạng hải kim.

Tạm dịch:

Tiếng thét của người anh hùng vang dậy từ núi Bân xưa
Ánh sáng của tòa miếu mạo còn tỏa chiếu nơi cửa Bạng ngày nay.

Khu tưởng niệm

Khu tưởng niệm anh hùng dân tộc Hoàng đế Quang Trung tại di tích lịch sử núi Bân, có diện tích 9,5ha được khởi công xây dựng từ năm 2008 với nhiều hạng mục, trong đó tượng đài đặc tả chân dung vua Quang Trung cao 21m, thân tượng cao 12m được làm bằng đá hoa cương.

Năm 1988, Núi Bân (Bân Sơn) đã được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia.

Tài liệu tham khảo

  • PGS, TS. Đỗ Bang, Bân Sơn và ý nghĩa của sự kiện 22 tháng 12 năm 1788. Bài viết in trong sách Tây Sơn- Thuận Hóa và anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ- Qaung Trung. Nxb Chính Trị Quốc Gia, 2009.
  • GS. Nguyễn Khắc Thuần, Danh tướng Việt Nam (tập 3). Nxb Giáo Dục, 2005.

Liên kết ngoài