Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đền Bà Kiệu”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎top: sửa chính tả 3, replaced: tên chữtên chữ using AWB
n →‎Tham khảo: clean up, replaced: {{sơ khai}} → {{sơ khai kiến trúc Việt Nam}} using AWB
Dòng 15: Dòng 15:
*Nguyễn Thế Long. ''Đình và đền Hà Nội''. Hà Nội: Văn Hóa, 1998.
*Nguyễn Thế Long. ''Đình và đền Hà Nội''. Hà Nội: Văn Hóa, 1998.


{{sơ khai}}
{{sơ khai kiến trúc Việt Nam}}


[[Thể loại:Kiến trúc cổ Việt Nam]]
[[Thể loại:Kiến trúc cổ Việt Nam]]

Phiên bản lúc 10:41, ngày 30 tháng 8 năm 2017

Bái đường Đền Bà Kiệu trông ra đường Đinh Tiên Hoàng, Hà Nội

Đền Bà Kiệu, tên chữThiên Tiên điện, là một ngôi đền ở ven phía đông hồ Gươm, Hà Nội, xế cửa đền Ngọc Sơn. Đền thờ ba vị nữ thần: Liễu Hạnh Công chúa, Quỳnh HoaQuế Nương.

Lịch sử

Theo Thăng Long cổ tích khảo thì đền xây vào thời nhà Lê triều Vĩnh Tộ (1619-28), đến triều Cảnh Hưng thì mở rộng thêm. Vào thời Tây Sơn triều Cảnh Thịnh đền đúc quả chuông lớn. Triều vua Tự Đức ngôi đền được tu sửa lần nữa.

Khi người Pháp chiếm lấy Hà Nội và mở rộng phố xá chung quanh hồ Gươm thì vị trí đền Bà Kiệu bị trưng dụng. Năm 1891 niên hiệu Thành Thái thứ hai, một phần đất của ngôi đền phải giao cho chính phủ để đắp "Boulevard Francis Garnier" (sau năm 1954 là đường Đinh Tiên Hoàng). Con đường cắt ngang khu đền ra làm đôi: cổng tam quan phía tây nằm ở phía bờ hồ còn nhà đại bái, phương đình và hậu cung thì nằm bên phía đông đường.

Kiến trúc

Kiến trúc đền Bà Kiệu mang phong cách thời nhà Nguyễn. Cổ vật còn lưu lại đền là hương án, cửa võng, khám thờ cùng các sắc phong tiền triều.

Tham khảo

  • Nguyễn Thế Long. Đình và đền Hà Nội. Hà Nội: Văn Hóa, 1998.