Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trận Bắc Lệ”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 37: Dòng 37:
{{cquote|
{{cquote|
''Tiền đồn của Pháp khi ấy là [[Phủ Lạng Thương]], nằm trên con đường đi Lạng Sơn. Từ [[Hà Nội]], quân của Trung tá Dugenne đã mất 2 ngày mới đến được nơi này. Dưới ánh nắng gay gắt của mặt trời mùa hạ xứ Bắc, thấy quân lính mỏi mệt quá, Dugenne phải cho nghỉ 4 ngày rồi mới tiến lên. Họ lên đường vào ngày 12 tháng 6 mang theo 4, 5 ngày lương. Ngày đầu, họ đi được không quá 8 cây số qua những khúc đường mà chỗ nào cũng ngập nước và bùn lên tới đầu gối, cây cỏ che kín đầu người... Ngày 19 [[tháng 6]], quân Pháp đi từ 3 giờ rưỡi sáng. Đến 8 giờ, trời nóng quá không thể lê bước được phải ghé vào làng Bắc Lệ. Mưa lại đổ xuống luôn mấy ngày khi họ tới Cao Sơn. Liền trong 3 ngày, quân Pháp ngừng bước trước một khúc của con sông Thương''<ref>Phạm Văn Sơn, ''Việt sử tân biên'', quyển 5, tập thượng, [[Sài Gòn]], 1962 (tr. 438-440).</ref>.|}}
''Tiền đồn của Pháp khi ấy là [[Phủ Lạng Thương]], nằm trên con đường đi Lạng Sơn. Từ [[Hà Nội]], quân của Trung tá Dugenne đã mất 2 ngày mới đến được nơi này. Dưới ánh nắng gay gắt của mặt trời mùa hạ xứ Bắc, thấy quân lính mỏi mệt quá, Dugenne phải cho nghỉ 4 ngày rồi mới tiến lên. Họ lên đường vào ngày 12 tháng 6 mang theo 4, 5 ngày lương. Ngày đầu, họ đi được không quá 8 cây số qua những khúc đường mà chỗ nào cũng ngập nước và bùn lên tới đầu gối, cây cỏ che kín đầu người... Ngày 19 [[tháng 6]], quân Pháp đi từ 3 giờ rưỡi sáng. Đến 8 giờ, trời nóng quá không thể lê bước được phải ghé vào làng Bắc Lệ. Mưa lại đổ xuống luôn mấy ngày khi họ tới Cao Sơn. Liền trong 3 ngày, quân Pháp ngừng bước trước một khúc của con sông Thương''<ref>Phạm Văn Sơn, ''Việt sử tân biên'', quyển 5, tập thượng, [[Sài Gòn]], 1962 (tr. 438-440).</ref>.|}}

Ngày 22 tháng 6, đoàn quân Pháp đi đến đồn Bắc Lệ<ref>Nay ở xã Tân Thành, huyện [[Hữu Lũng]] tỉnh Lạng Sơn còn có thông Bắc Lệ và ga Bắc Lệ.</ref>. Nhưng khi quân Pháp đến bờ sông Hóa (một nhánh của [[sông Thương]]), cách cầu Quan Âm khoảng 8 dặm thì bị chặn lại. Ở phía bên kia cầu, quân Thanh và quân khởi nghĩa người Việt do [[Nguyễn Thiện Thuật]], [[Tạ Hiện]], [[Phạm Huy Quang]] cùng chỉ huy, vẫn còn đang đóng giữ.
[[Tập tin:Quân Pháo bên sông.jpg|nhỏ|trái|250px|Quân Pháp dừng chân bên bờ sông ở gần Lạng Sơn.]]
[[Tập tin:Quân Pháo bên sông.jpg|nhỏ|trái|250px|Quân Pháp dừng chân bên bờ sông ở gần Lạng Sơn.]]
Ngày 22 tháng 6, đoàn quân Pháp đi đến đồn Bắc Lệ<ref>Nay ở xã Tân Thành, huyện [[Hữu Lũng]] tỉnh Lạng Sơn còn có thông Bắc Lệ và ga Bắc Lệ.</ref>. Nhưng khi quân Pháp đến bờ sông Hóa (một nhánh của [[sông Thương]]), cách cầu Quan Âm khoảng 8 dặm thì bị chặn lại. Ở phía bên kia cầu, quân Thanh và quân khởi nghĩa người Việt do [[Nguyễn Thiện Thuật]], [[Tạ Hiện]], [[Phạm Huy Quang]] cùng chỉ huy, vẫn còn đang đóng giữ.

Ngày 23 tháng 6, sau khi thăm dò được một quãng sông không sâu lắm, quân Pháp lội qua sông, nước lên tới ngang thắt lưng. Nhưng vừa đặt chân lên bờ bên kia thì cách 250 [[thước]], trên một ngọn đồi quân Việt và quân Thanh bắn vào họ. Tuy nhiên, quân Pháp vẫn cố vượt sông. Trước tình thế căng thẳng, lúc 9 giờ, thì một sứ giả của quân Thanh, mặc áo xanh, không đem vũ khí, nhưng mang một bức thư buộc trên đầu một cành tre, đến xin gặp Dugenne, đưa thư, đại ý nói rằng đã biết có hòa ước, nhưng vì chưa được lệnh rút quân về, vậy xin hoãn lại mấy ngày nữa để đợi chỉ dụ của [[Bắc Kinh]]...và vụ việc thương thảo (bên đòi tiến, bên đòi hẹn) cứ nhùng nhằng.
Ngày 23 tháng 6, sau khi thăm dò được một quãng sông không sâu lắm, quân Pháp lội qua sông, nước lên tới ngang thắt lưng. Nhưng vừa đặt chân lên bờ bên kia thì cách 250 [[thước]], trên một ngọn đồi quân Việt và quân Thanh bắn vào họ. Tuy nhiên, quân Pháp vẫn cố vượt sông. Trước tình thế căng thẳng, lúc 9 giờ, thì một sứ giả của quân Thanh, mặc áo xanh, không đem vũ khí, nhưng mang một bức thư buộc trên đầu một cành tre, đến xin gặp Dugenne, đưa thư, đại ý nói rằng đã biết có hòa ước, nhưng vì chưa được lệnh rút quân về, vậy xin hoãn lại mấy ngày nữa để đợi chỉ dụ của [[Bắc Kinh]]...và vụ việc thương thảo (bên đòi tiến, bên đòi hẹn) cứ nhùng nhằng.



Phiên bản lúc 02:50, ngày 24 tháng 9 năm 2010

Trận Bắc Lệ
Một phần của Pháp xâm lược Đại Nam
Tập tin:Trận đồn Kép.jpg
Pháp - Thanh giao chiến.
Thời gian23 tháng 6 năm 1884 – 3 tháng 7 năm 1884
Địa điểm
Bắc Lệ, Bắc Giang, Việt Nam
Kết quả Quân Pháp đại bại
Tham chiến
Tập tin:Flag of Vietnam (1802-78).gif Đại Nam
Nhà Thanh Đại Thanh
Pháp Pháp
Chỉ huy và lãnh đạo
Tập tin:Flag of Vietnam (1802-78).gif Tuần phủ Lã Xuân Oai
Tập tin:Flag of Vietnam (1802-78).gif Tán tướng Nguyễn Thiện Thuật
Tập tin:Flag of Vietnam (1802-78).gif Đề đốc Tạ Hiện
Tập tin:Flag of Vietnam (1802-78).gif Ngự sử Phạm Huy Quang
Nhà Thanh Tuần phủ Phan Đình Tân
Nhà Thanh Tổng đốc Sầm Dục Anh
Nhà Thanh Bố chánh Vương Đức Bảng
Pháp Thiếu tướng Charles-Théodore Millot
Pháp Thiếu tướng François Oscar de Négrier
Pháp Trung tá Alphonse Dugenne
Lực lượng
8.000 quân Thanh[cần dẫn nguồn]
Số quân Việt: không rõ
450 lính Pháp, 350 dân phu Bắc Kỳ[cần dẫn nguồn].
Số đại bác: không rõ.
Thương vong và tổn thất
Không rõ Tử trận: 28, bị thương: 46, còn dân phu chết rất nhiều (theo Việt Nam sử lược). Thiệt hại vật chất: nhiều, nhưng không thống kê được.

Trận Bắc Lệ hay còn gọi trận cầu Quan Âm, diễn ra từ ngày 23 tháng 6 năm 1884 và kết thúc vào ngày 3 tháng 7 cùng năm, là một trận giao tranh lớn giữa quân Pháp và quân liên minh ViệtThanh.

Kết thúc trận, quân đội Pháp ở Bắc Kỳ (Việt Nam) phải chịu nhiều thiệt hại về người và của, khiến trận này trở thành một sự kiện gây hoang mang cho thực dân Pháp và gây nhiều căng thẳng cho mối quan hệ Pháp - Thanh lúc bấy giờ.

Nguyên nhân

Năm 1882, quân Pháp đánh hạ thành Hà Nội lần thứ 2, sau đó mở rộng xâm chiếm ra toàn cõi Bắc Kỳ. Triều đình nhà Nguyễn cầu viện với nhà Thanh. Tuy nhiên, cũng như quân Nguyễn, quân Thanh cũng không đủ sức cản đổi trước vũ khí hiện đại của quân Pháp. Sau mấy trận thất bại ở Bắc Kỳ, Thanh đình đã trị tội các tướng tá của mình, rồi sai Phan Đình Tân (Tuần phủ Quảng Tây) chỉ huy cuộc chiến đấu. Tháng 4 năm Giáp Thân (1884), Phan Đình Tân kéo quân qua cửa quan họp binh với Sầm Dục Anh (Tổng đốc Vân Quí), rồi phái Vương Đức Bảng (Bố Chánh), Phương Hữu Thăng, Huỳnh Nguyện Xuân đem 17 doanh quân đóng ở Nam Quan, Lạng Sơn và Quan Âm.

Ở Lạng Sơn, các tướng Thanh đã liên lạc với các quan Việt là Lã Xuân Oai (Tuần phủ Lạng Sơn) Nguyễn Thiện Thuật (Tán tướng) Tạ Hiện (Đề đốc), Phạm Huy Quang (Ngự sử) để cùng kháng Pháp. Tuy nhiên, để tránh xung đột với Thanh triều, Pháp đã ký kết với Thanh triều bản quy ước ngày 11 tháng 6 năm 1884 tại Thiên Tân (Trung Quốc), gồm 5 khoản, mà trong đó có khoản Thanh triều sẽ lần lượt rút hết quân ra khỏi Bắc Kỳ.

Biết triều đình Đại Nam sau quy ước này, sẽ mất chỗ dựa duy nhất là nhà Thanh, và biết nhà Nguyễn cũng đã mệt nhoài vì mấy năm chiến tranh, nên nội các Tules Ferry (Pháp) đã cử Jules Patenôtre sang Huế để ký kết một bản hiệp ước mới, đó là hòa ước Patenôtre (hay còn gọi là hòa ước Giáp Thân) vào ngày 6 tháng 6 năm 1884.

Hòa ước này gồm 19 khoản, ngoài mục đích phân chia Đại Nam ra thành ba kỳ, xoa dịu sự công phẫn của nhân dân Việt Nam, nó còn nhằm cắt đứt hoàn toàn mọi mối quan hệ giữa nhà Nguyễn với nhà Thanh (Trung Quốc).

Giao tranh và thiệt hại

Hay tin hai hiệp ước trên vừa được ký kết, quân Pháp ở Bắc Kỳ rất vui và nhẹ nhõm vì cho rằng chiến tranh, vậy là đã kết thúc. Vì theo tờ quy ước của Trung tá Fournier ký với Tổng đốc Trực Lệ Lý Hồng ChươngThiên Tân, thì quân Thanh ở Lạng Sơn, Thất KhêCao Bằng sẽ phải rút hết về nước.

Tin vậy, nên ngày 13 tháng 6 năm 1884, Thiếu tướng Millot, chỉ huy trưởng Quân đoàn Viễn chinh Bắc Kỳ, phái Trung tá Dugenne dẫn hơn ngàn binh lính và khoảng ngần ấy phu khuân vác, từ Phủ Lạng Thương kéo lên tiếp quản các tỉnh thành trên.

Theo sách Việt sử tân biên, thì:

Tập tin:Quân Pháo bên sông.jpg
Quân Pháp dừng chân bên bờ sông ở gần Lạng Sơn.

Ngày 22 tháng 6, đoàn quân Pháp đi đến đồn Bắc Lệ[2]. Nhưng khi quân Pháp đến bờ sông Hóa (một nhánh của sông Thương), cách cầu Quan Âm khoảng 8 dặm thì bị chặn lại. Ở phía bên kia cầu, quân Thanh và quân khởi nghĩa người Việt do Nguyễn Thiện Thuật, Tạ Hiện, Phạm Huy Quang cùng chỉ huy, vẫn còn đang đóng giữ.

Ngày 23 tháng 6, sau khi thăm dò được một quãng sông không sâu lắm, quân Pháp lội qua sông, nước lên tới ngang thắt lưng. Nhưng vừa đặt chân lên bờ bên kia thì cách 250 thước, trên một ngọn đồi quân Việt và quân Thanh bắn vào họ. Tuy nhiên, quân Pháp vẫn cố vượt sông. Trước tình thế căng thẳng, lúc 9 giờ, thì một sứ giả của quân Thanh, mặc áo xanh, không đem vũ khí, nhưng mang một bức thư buộc trên đầu một cành tre, đến xin gặp Dugenne, đưa thư, đại ý nói rằng đã biết có hòa ước, nhưng vì chưa được lệnh rút quân về, vậy xin hoãn lại mấy ngày nữa để đợi chỉ dụ của Bắc Kinh...và vụ việc thương thảo (bên đòi tiến, bên đòi hẹn) cứ nhùng nhằng.

Sách Việt Nam sử lược kể:

Phần cuối trận, sách Việt sử tân biên cho biết:

Nói đến sự kiện Bắc Lệ, sách Tổng tập (tập I) có đoạn:

Theo sách Đại Nam thực lục thì trận Bắc Lệ, đã liên tục diễn ra từ ngày 2 đến ngày 11 tháng 5 nhuận năm Giáp Thân (24 tháng 6 - 3 tháng 7 năm 1884), và con số thiệt hại của Pháp như sau:

  • Bên bờ sông Hóa: Liên quân Thanh - Việt bắt được 1 quan tư, 2 quan hai, 20 người lính, hơn 100 mã tà và thu được áo, mũ, lừa, ngựa rất nhiều. Còn số người chết đuối ở sông Hóa, không biết đâu mà kể.
  • Nơi đồn Bắc Lệ: Nghĩa quân bắt được 1 quan hai, 1 quan một và 6, 7 người lính.
  • Nơi núi Thiên Cầu, không biết chính xác, vì chính sử viết như thế này: Ngày 11, lại phái nghĩa dũng chặn núi Thiên Cầu đánh chém quân ấy, hơn 50 người, giải nộp dinh nhà Thanh lãnh thưởng.[6].
Bản đồ Lạng Sơn năm 1885.

Hậu quả

Trận cầu Quan Âm mà Pháp gọi là sự kiện Bắc Lệ, có tiếng vang rất lớn ở Pháp và Việt Nam, khiến thực dân Pháp rất hoang mang, lo ngại. Đây thật sự là một thất bại nặng nề của quân Pháp, một thắng lợi to lớn của liên quân Việt – Thanh. Cho nên khi nhận được tin, thủ tướng Jules Ferry liền đánh điện khẩn cho Lý Hồng Chương, để phản đối kịch liệt sự việc này. Và sau đó, đã hai lần (12 tháng 7 & 19 tháng 8) Jules Ferry gửi tối hậu thư đòi quân Thanh phải rút ngay khỏi Bắc Kỳ và phải đòi thường thiệt hại cho Pháp 250 triệu francs (khoản tiền này sau cứ giảm dần đi). Nhưng mặc dù tình hình giao thiệp giữa Pháp và Thanh rất căng thẳng, nhưng cả đôi bên đều muốn dùng con đường thương thuyết để tránh một cuộc chiến tranh lớn.

Nhưng trước những yêu sách quá đáng của Pháp, triều đình Bắc Kinh không thể nào nhượng bộ được nữa, cuối cùng, cuộc chiến tranh Pháp - Thanh cũng đã nổ ra (tháng 8 năm 1884). Sau trận Bắc Lệ, Thiếu tướng Millot bị triệu hồi, Thiếu tướng Brière de l'Isle lên thay thế, để tiếp tục công việc đánh dẹp và bình định Bắc Kỳ...[7]

Chú thích

  1. ^ Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên, quyển 5, tập thượng, Sài Gòn, 1962 (tr. 438-440).
  2. ^ Nay ở xã Tân Thành, huyện Hữu Lũng tỉnh Lạng Sơn còn có thông Bắc Lệ và ga Bắc Lệ.
  3. ^ Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Nxb Tân Việt, Sài Gòn, 1968 (tr. 543-544).
  4. ^ Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên, quyển 5, tập thượng, Sài Gòn, 1962, tr. 438-440.
  5. ^ Lược theo Tổng tập (tập I), tr. 391
  6. ^ Đại Nam thực lục, tập 36, Nxb KHXH, Hà Nội, 1975, tr. 129
  7. ^ Tổng hợp từ các sách ghi ở mục tham khảo.

Tham khảo

  • Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Nxb Tân Việt, Sài Gòn, 1968 (tr. 543-544).
  • Trần Văn Giàu, Tổng tập (phần I), Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 2006 (tr.400)
  • Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên, quyển 5, tập thượng, Sài Gòn, 1962 (tr. 438-440).
  • Hoàng Văn Lân & Ngô Thị Chính, Lịch sử Việt Nam (1858-cuối XIX), Nxb Giáo dục, 1979 (tr. 66-67).
  • Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Đình Lễ, Đại cương lịch sử Việt Nam, tập II, Nxb Giáo dục, 2006 (tr.59-60)
  • Nhiều tác giả, Hỏi đáp lịch sử Việt nam, Nxb Trẻ, 2007 (tr. 221).

Xem thêm

Liên kết ngoài