Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trần Văn Lắm”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dinhtuydzao (thảo luận | đóng góp)
Dòng 4: Dòng 4:


== Hoạt động chính trị ==
== Hoạt động chính trị ==
Ông bước chân vào chính trường khi đắc cử Hội đồng Thị xã Sài Gòn năm [[1952]]. Khi người Pháp rút khỏi Việt Nam và [[Ngô Đình Diệm]] lập nền [[Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam|cộng hòa]] năm [[1955]] thì ông đắc cử vào Quốc hội Lập hiến Việt Nam Cộng hòa và làm chủ tịch Quốc hội 1956-7. Vào năm 1961, ông được bổ làm đại sứ Việt Nam đầu tiên sang [[Úc]] và [[New Zealand]] đến năm 1964 thì bỏ chính trường về nước làm chủ tịch Hội đồng quản lý [[Ngân hàng Công thương]] (1964-?).
Ông bước chân vào chính trường khi đắc cử Hội đồng Thị xã Sài Gòn năm [[1952]]. Khi người Pháp rút khỏi Việt Nam và [[Ngô Đình Diệm]] lập nền [[Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam|cộng hòa]] năm [[1955]] thì ông đắc cử vào Quốc hội Lập hiến Việt Nam Cộng hòa và làm chủ tịch Quốc hội 1956-7. Vào năm 1961, ông được bổ làm đại sứ Việt Nam đầu tiên sang [[Úc]] và [[New Zealand]] đến năm 1964 thì bỏ chính trường về nước làm chủ tịch Hội đồng quản lý [[Ngân hàng Công thương]] (1964-7).


Thời [[Đệ nhị Cộng hòa Việt Nam|Đệ nhị Cộng hòa]] ông lại tham chính và được bổ làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao kể từ năm 1969 đến năm 1973 sau khi ký kết [[Hiệp định Paris 1973]]. Ông là trưởng phái đoàn Việt Nam Cộng hòa ở hòa đàm Paris. Sau khi rời khỏi Nội các ông ra tranh cử Thượng viện thuộc liên danh "Đoàn kết để tiến bộ" rồi làm chủ tịch Thượng Viện Việt Nam Cộng hòa cho đến năm 1975.
Thời [[Đệ nhị Cộng hòa Việt Nam|Đệ nhị Cộng hòa]] ông lại tham chính và được bổ làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao kể từ năm 1969 đến năm 1973 sau khi ký kết [[Hiệp định Paris 1973]]. Ông là trưởng phái đoàn Việt Nam Cộng hòa ở hòa đàm Paris. Sau khi rời khỏi Nội các ông ra tranh cử Thượng viện thuộc liên danh "Đoàn kết để tiến bộ" rồi làm chủ tịch Thượng Viện Việt Nam Cộng hòa cho đến năm 1975.

Phiên bản lúc 15:34, ngày 28 tháng 10 năm 2010

Trần Văn Lắm (30 tháng 7, 1913 - 6 tháng 2, 2001) là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa, tại nhiệm từ năm 1969 đến năm 1973.

Ông sinh ra ở Chợ Lớn nhưng ra Bắc và tốt nghiệp Dược khoa Viện Đại học Đông DươngHà Nội năm 1939.

Hoạt động chính trị

Ông bước chân vào chính trường khi đắc cử Hội đồng Thị xã Sài Gòn năm 1952. Khi người Pháp rút khỏi Việt Nam và Ngô Đình Diệm lập nền cộng hòa năm 1955 thì ông đắc cử vào Quốc hội Lập hiến Việt Nam Cộng hòa và làm chủ tịch Quốc hội 1956-7. Vào năm 1961, ông được bổ làm đại sứ Việt Nam đầu tiên sang ÚcNew Zealand đến năm 1964 thì bỏ chính trường về nước làm chủ tịch Hội đồng quản lý Ngân hàng Công thương (1964-7).

Thời Đệ nhị Cộng hòa ông lại tham chính và được bổ làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao kể từ năm 1969 đến năm 1973 sau khi ký kết Hiệp định Paris 1973. Ông là trưởng phái đoàn Việt Nam Cộng hòa ở hòa đàm Paris. Sau khi rời khỏi Nội các ông ra tranh cử Thượng viện thuộc liên danh "Đoàn kết để tiến bộ" rồi làm chủ tịch Thượng Viện Việt Nam Cộng hòa cho đến năm 1975.

Vào đầu năm 1975 khi tình hình quân sự miền Nam dần dần suy sụp ông sang Washington, DC cố vận động chính phủ Mỹ ra tay viện trợ nhưng không thành.[1] Khi thấy không còn cách nào cứu vãn, ông tìm cách vận động giao quyền lại cho Dương Văn Minh để điều đình với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.[2]

Sau năm 1975 ông tỵ nạnÚc. Tại Úc cuộc đời thăng trầm của ông được đài truyền hình ABC của Úc ghi lại trong một phim tài liệu dưới tên All Points of the Compass (Mọi hướng trên địa bàn).[3]

Ông mất ngày 6 tháng 2 năm 2001Canberra. [4]

Tài liệu tham khảo

Who's Who in Vietnam. Saigon: Vietnam Press Club, 1974.

Chú thích