Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Maathorneferure”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Trang mới: “{{Thông tin nhân vật hoàng gia | tên = Maathorneferure | tên gốc = | tước vị = | hình = Maathorneferure.jpg | cỡ hình = 230px | ghi chú hình…”
 
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 3: Dòng 3:
| tên gốc =
| tên gốc =
| tước vị =
| tước vị =
| hình = Maathorneferure.jpg
| hình = Tanis 027.JPG
| cỡ hình = 230px
| cỡ hình = 230px
| ghi chú hình = Tượng của Maathorneferure tại [[Tanis]]
| ghi chú hình = Tượng của Maathorneferure tại [[Tanis]]
Dòng 28: Dòng 28:


== Cuộc sống ==
== Cuộc sống ==
[[Tập tin:Hittite-marriage.gif|trái|nhỏ|Tấm bia ghi lại cuộc hôn nhân giữa [[Ramesses II]] và Maathorneferure]]
Sự bất hòa giữa Ai Cập và đế chế [[Người Hittite|Hittite]] ngày càng tăng vào thời kỳ suy thoái của vương quốc [[Mitanni]], và cuộc hôn nhân giữa công chúa Maathorneferure với Ramesses là kết quả của hiệp ước hòa bình giữa 2 vương triều được ký vào 13 năm trước đây. Một tấm bia đá ghi lại cuộc hôn nhân này như sau: ''"Con gái của vị lãnh tụ vĩ đại, Khate, đã được trao cho quân thù ..."''<ref>[https://archive.org/stream/BreastedJ.H.AncientRecordsEgyptAll5Vols1906/Breasted%2C%20J.H._Ancient%20Records%20Egypt%20all%205%20vols%20%281906%29#page/n1031/mode/2up Marriage Stela], J. H. Breasted, ''Ancient Records of Egypt'', phần 3, §415ff</ref>.
Sự bất hòa giữa Ai Cập và đế chế [[Người Hittite|Hittite]] ngày càng tăng vào thời kỳ suy thoái của vương quốc [[Mitanni]], và cuộc hôn nhân giữa công chúa Maathorneferure với Ramesses là kết quả của hiệp ước hòa bình giữa 2 vương triều được ký vào 13 năm trước đây. Một tấm bia đá ghi lại cuộc hôn nhân này như sau: ''"Con gái của vị lãnh tụ vĩ đại, Khate, đã được trao cho quân thù ..."''<ref>[https://archive.org/stream/BreastedJ.H.AncientRecordsEgyptAll5Vols1906/Breasted%2C%20J.H._Ancient%20Records%20Egypt%20all%205%20vols%20%281906%29#page/n1031/mode/2up Marriage Stela], J. H. Breasted, ''Ancient Records of Egypt'', phần 3, §415ff</ref>.


Nàng công chúa [[Người Hittite|Hittite]] đã phải rời [[Hattusa]], kinh đô của họ, được hộ tống bởi một đoàn tùy tùng cùng với những trang sức quý giá, gia súc làm của hồi môn. Một lời nhắn được gửi tới pharaon sau khi đoàn người vừa bước vào địa phận Ai Cập: ''"Họ đã vượt qua những ngọn núi cao đầy hiểm trở để đến được biên giới của Ngài"''. Ramesses đã cho thết đãi [[yến tiệc]] để tiếp đón công chúa và đoàn hộ tống<ref>Wilkinson, Toby (2011), ''The Rise and Fall of Ancient Egypt'', Bloomsbury, tr.340 - 341 ISBN 978-1-4088-1002-6</ref>.
Nàng công chúa [[Người Hittite|Hittite]] đã phải rời [[Hattusa]], kinh đô của họ, được hộ tống bởi một đoàn tùy tùng cùng với những trang sức quý giá, gia súc làm của hồi môn. Một lời nhắn được gửi tới pharaon sau khi đoàn người vừa bước vào địa phận Ai Cập: ''"Họ đã vượt qua những ngọn núi cao đầy hiểm trở để đến được biên giới của Ngài"''. Ramesses đã cho thết đãi [[yến tiệc]] để tiếp đón công chúa và đoàn hộ tống<ref>Wilkinson, Toby (2011), ''The Rise and Fall of Ancient Egypt'', Bloomsbury, tr.340 - 341 ISBN 978-1-4088-1002-6</ref>.
[[Tập tin:Piece of papyrus bearing the name of Maathorneferura, the Hittite princesess daughter of the great ruler of Khatti who married Ramesses II. From Gurob, Fayum, Egypt. The Petrie Museum of Egyptian Archaeology, London.jpg|nhỏ|Một phần của cuộn giấy cói tại Gurob có nhắc đến Maathorneferura]]

Theo những gì được biết, Ramesses coi trọng những kho báu quý giá trong đống của hồi môn hơn cả người vợ mới của mình<ref>{{Chú thích web|url=http://www.ucl.ac.uk/museums-static/digitalegypt//gurob/papyri/maathorneferu.html|title=Gurob papyrus}}</ref>. Hoàng hậu Maathorneferure ngự tại Mer-wer (Gurob ngày nay). Bà đã hạ sinh cho ông một người con nhưng đứa bé đã chết ngay sau đó<ref>Tyldesley, Joyce (2001), ''Egypt's Golden Empire: The Age of the New Kingdom'', Headline Book Publishing, ISBN 978-0-7472-51606</ref>.
Theo những gì được biết, Ramesses coi trọng những kho báu quý giá trong đống của hồi môn hơn cả người vợ mới của mình<ref>{{Chú thích web|url=http://www.ucl.ac.uk/museums-static/digitalegypt//gurob/papyri/maathorneferu.html|title=Gurob papyrus}}</ref>. Hoàng hậu Maathorneferure ngự tại Mer-wer (Gurob, [[Faiyum]] ngày nay). Bà đã hạ sinh cho ông một người con nhưng đứa bé đã chết ngay sau đó<ref>Tyldesley, Joyce (2001), ''Egypt's Golden Empire: The Age of the New Kingdom'', Headline Book Publishing, ISBN 978-0-7472-51606</ref>.


Một cuộn giấy được tìm thấy tại Gurob, trong đó có đoạn nhắc đến Maathorneferure: ''"..., người vợ của vua, Maathorneferure, con gái của người cai trị vĩ đại Khatii, ..."''. Tại [[Tanis]], hình ảnh của Maathorneferure được khắc dưới chân một bức tượng của Ramesses cùng với khung tên của bà, đã bị vỡ gần như hoàn toàn.
Một cuộn giấy được tìm thấy tại Gurob, trong đó có đoạn nhắc đến Maathorneferure: ''"..., người vợ của vua, Maathorneferure, con gái của người cai trị vĩ đại Khatii, ..."''. Tại [[Tanis]], hình ảnh của Maathorneferure được khắc dưới chân một bức tượng của Ramesses cùng với khung tên của bà, đã bị vỡ gần như hoàn toàn.

Phiên bản lúc 01:49, ngày 17 tháng 4 năm 2018

Maathorneferure
Tượng của Maathorneferure tại Tanis
Thông tin chung
Hôn phốiRamesses II
Tên đầy đủ
raD4U2tG5nfrnfrnfr
Thân phụHattusili III
Thân mẫuPuduhepa

Maathorneferure là một vương hậu Ai Cập. Bà là một trong 7 hoàng hậu được sắc phong của pharaon Ramesses II[1].

Thân thế

Maathorneferure có xuất thân cao quý. Bà là con gái của Hattusili III, vua người Hittite và hoàng hậu Puduhepa. Bà thành hôn với Ramesses II vào năm trị vì thứ 34 của ông (lúc này Ramesses đã khoảng 60 tuổi) và được tấn phong làm Chánh cung hoàng hậu. Tên thật của bà không được sử sách ghi lại, và tên Ai Cập của bà có nghĩa là "Người nhìn thấy Horus, sự huy hoàng vô hình của Ra".

Cuộc sống

Tấm bia ghi lại cuộc hôn nhân giữa Ramesses II và Maathorneferure

Sự bất hòa giữa Ai Cập và đế chế Hittite ngày càng tăng vào thời kỳ suy thoái của vương quốc Mitanni, và cuộc hôn nhân giữa công chúa Maathorneferure với Ramesses là kết quả của hiệp ước hòa bình giữa 2 vương triều được ký vào 13 năm trước đây. Một tấm bia đá ghi lại cuộc hôn nhân này như sau: "Con gái của vị lãnh tụ vĩ đại, Khate, đã được trao cho quân thù ..."[2].

Nàng công chúa Hittite đã phải rời Hattusa, kinh đô của họ, được hộ tống bởi một đoàn tùy tùng cùng với những trang sức quý giá, gia súc làm của hồi môn. Một lời nhắn được gửi tới pharaon sau khi đoàn người vừa bước vào địa phận Ai Cập: "Họ đã vượt qua những ngọn núi cao đầy hiểm trở để đến được biên giới của Ngài". Ramesses đã cho thết đãi yến tiệc để tiếp đón công chúa và đoàn hộ tống[3].

Một phần của cuộn giấy cói tại Gurob có nhắc đến Maathorneferura

Theo những gì được biết, Ramesses coi trọng những kho báu quý giá trong đống của hồi môn hơn cả người vợ mới của mình[4]. Hoàng hậu Maathorneferure ngự tại Mer-wer (Gurob, Faiyum ngày nay). Bà đã hạ sinh cho ông một người con nhưng đứa bé đã chết ngay sau đó[5].

Một cuộn giấy được tìm thấy tại Gurob, trong đó có đoạn nhắc đến Maathorneferure: "..., người vợ của vua, Maathorneferure, con gái của người cai trị vĩ đại Khatii, ...". Tại Tanis, hình ảnh của Maathorneferure được khắc dưới chân một bức tượng của Ramesses cùng với khung tên của bà, đã bị vỡ gần như hoàn toàn.

Tham khảo

Chú thích

  1. ^ Dodson, Aidan; Hilton, Dyan (2004), The Complete Royal Families of Ancient Egypt, Thames & Hudson, tr.140 ISBN 978-0-5000-51283
  2. ^ Marriage Stela, J. H. Breasted, Ancient Records of Egypt, phần 3, §415ff
  3. ^ Wilkinson, Toby (2011), The Rise and Fall of Ancient Egypt, Bloomsbury, tr.340 - 341 ISBN 978-1-4088-1002-6
  4. ^ “Gurob papyrus”.
  5. ^ Tyldesley, Joyce (2001), Egypt's Golden Empire: The Age of the New Kingdom, Headline Book Publishing, ISBN 978-0-7472-51606