Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Du”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 34: Dòng 34:
}}
}}
{{Đang viết}}
{{Đang viết}}
'''Nguyễn Du''' ([[Chữ Trung Quốc|chữ Hán]]: 阮攸; [[1765]]–[[1820]]) [[tên tự]] '''Tố Như''' (素如), hiệu '''Thanh Hiên''' (清軒), biệt hiệu '''Hồng Sơn lạp hộ''' (鴻山獵戶), là một nho sĩ, nhà thơ nổi tiếng, và quan hai trải triều [[Triều Lê|Lê]] và [[Triều Nguyễn|Nguyễn]] của [[Việt Nam]]. Nguyễn Du là con tể tướng triều Lê [[Nguyễn Nghiễm]] và vợ thứ ba Trần Thị Tần. Mồ côi cha mẹ từ sớm, ở với anh cùng cha khác mẹ là [[Nguyễn Khản]]. Nguyễn Du học giỏi và thi đỗ Tam trường năm 1783 nhưng không cao, sau đó ông được thay cha nuôi họ Hà mới mất giữ chức quan võ ở [[Thái Nguyên]]. Khi [[Tây Sơn]] ra Bắc Hà năm [[1786]], Nguyễn Du từ chối phục vụ tân triều mà về quê vợ ở Thái Bình ẩn cư hơn 10 năm ([[1786]]-[[1795]]), sau về lại quê [[Hà Tĩnh]] ([[1796]]-[[1802]]). Trong thời gian này ông sống một cuộc sống ung dung, đọc kinh Phật, tu học thiền đạo. Năm [[1802]], Nguyễn Ánh nên ngôi vua lấy hiệu là [[Gia Long]], thành lập nhà Nguyễn. Vua mới cho vời Nguyễn Du ra làm quan và ông nhận lời cho tới năm [[1805]] khi ông cáo bệnh về quê với chức Du Đức Hầu. Năm [[1806]], triều đình Huế vời ông một lần nữa và ông lại ra làm quan với nhiều chức khác nhau. Năm [[1814]], Nguyễn Du Chính Sứ tuế cống đi Trung Quốc và sau khi về ông đựoc phong đến chức tham tri Bộ Lễ. Năm [[1820]], dưới triều Minh Mạng, khi đang chuẩn bị đi sứ lần 2 thì Nguyễn Du bệnh mất. Các tập thơ nổi tiếng để lại: [[Thanh Hiên tiền hậu tập]], [[Nam trung tạp ngâm]], [[Bắc hành tạp lục]], [[Truyện Kiều]], [[Văn tế thập loại chúng sinh]], [[Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu]], và bài [[Thác lời trai phường nón]].
'''Nguyễn Du''' ([[Chữ Trung Quốc|chữ Hán]]: 阮攸; [[1765]]–[[1820]]) [[tên tự]] '''Tố Như''' (素如), hiệu '''Thanh Hiên''' (清軒), biệt hiệu '''Hồng Sơn lạp hộ''' (鴻山獵戶), là một nho sĩ, nhà thơ nổi tiếng, và quan hai trải triều [[Triều Lê|Lê]] và [[Triều Nguyễn|Nguyễn]] của [[Việt Nam]]. Nguyễn Du là con tể tướng triều Lê [[Nguyễn Nghiễm]] và vợ thứ ba Trần Thị Tần. Mồ côi cha mẹ từ sớm, ở với anh cùng cha khác mẹ là [[Nguyễn Khản]]. Nguyễn Du học giỏi và thi đỗ Tam trường năm 1783 nhưng không cao, sau đó ông được thay cha nuôi họ Hà mới mất giữ chức quan võ ở [[Thái Nguyên]]. Khi [[Tây Sơn]] ra Bắc Hà năm [[1786]], Nguyễn Du từ chối phục vụ tân triều mà về quê vợ ở Thái Bình ẩn cư hơn 10 năm ([[1786]]-[[1795]]), sau về lại quê [[Hà Tĩnh]] ([[1796]]-[[1802]]). Trong thời gian này ông sống một cuộc sống ung dung, đọc kinh Phật, tu học thiền đạo. Năm [[1802]], Nguyễn Ánh nên ngôi vua lấy hiệu là [[Gia Long]], thành lập nhà Nguyễn. Vua mới cho vời Nguyễn Du ra làm quan và ông nhận lời cho tới năm [[1805]] khi ông cáo bệnh về quê với chức Du Đức Hầu. Năm [[1806]], triều đình Huế vời ông một lần nữa và ông lại ra làm quan với nhiều chức khác nhau. Năm [[1814]], Nguyễn Du Chính được giao vai trò Sứ tuế cống đi sứ sang Trung Quốc và sau khi về ông được phong chức tham tri Bộ Lễ. Năm [[1820]], dưới triều Minh Mạng, khi đang chuẩn bị đi sứ lần 2 thì Nguyễn Du bệnh mất. Các tập thơ nổi tiếng để lại: [[Thanh Hiên tiền hậu tập]], [[Nam trung tạp ngâm]], [[Bắc hành tạp lục]], [[Truyện Kiều]], [[Văn tế thập loại chúng sinh]], [[Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu]], và bài [[Thác lời trai phường nón]].


==Cuộc đời==
==Cuộc đời==

Phiên bản lúc 05:56, ngày 2 tháng 3 năm 2011

Nguyễn Du
Bút danhThanh Hiên, Hồng Sơn lạp hộ
Quốc tịchViệt Nam
Tư cách công dânViệt Nam
Thể loạithơ chữ Hán, chữ Nôm
Tác phẩm nổi bậtThanh Hiên tiền hậu tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục, Truyện Kiều, Văn tế thập loại chúng sinh, Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu, và bài Thác lời trai phường nón
Phối ngẫuĐoàn Thị Tộ

Nguyễn Du (chữ Hán: 阮攸; 17651820) tên tự Tố Như (素如), hiệu Thanh Hiên (清軒), biệt hiệu Hồng Sơn lạp hộ (鴻山獵戶), là một nho sĩ, nhà thơ nổi tiếng, và quan hai trải triều Nguyễn của Việt Nam. Nguyễn Du là con tể tướng triều Lê Nguyễn Nghiễm và vợ thứ ba Trần Thị Tần. Mồ côi cha mẹ từ sớm, ở với anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản. Nguyễn Du học giỏi và thi đỗ Tam trường năm 1783 nhưng không cao, sau đó ông được thay cha nuôi họ Hà mới mất giữ chức quan võ ở Thái Nguyên. Khi Tây Sơn ra Bắc Hà năm 1786, Nguyễn Du từ chối phục vụ tân triều mà về quê vợ ở Thái Bình ẩn cư hơn 10 năm (1786-1795), sau về lại quê Hà Tĩnh (1796-1802). Trong thời gian này ông sống một cuộc sống ung dung, đọc kinh Phật, tu học thiền đạo. Năm 1802, Nguyễn Ánh nên ngôi vua lấy hiệu là Gia Long, thành lập nhà Nguyễn. Vua mới cho vời Nguyễn Du ra làm quan và ông nhận lời cho tới năm 1805 khi ông cáo bệnh về quê với chức Du Đức Hầu. Năm 1806, triều đình Huế vời ông một lần nữa và ông lại ra làm quan với nhiều chức khác nhau. Năm 1814, Nguyễn Du Chính được giao vai trò Sứ tuế cống đi sứ sang Trung Quốc và sau khi về ông được phong chức tham tri Bộ Lễ. Năm 1820, dưới triều Minh Mạng, khi đang chuẩn bị đi sứ lần 2 thì Nguyễn Du bệnh mất. Các tập thơ nổi tiếng để lại: Thanh Hiên tiền hậu tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục, Truyện Kiều, Văn tế thập loại chúng sinh, Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu, và bài Thác lời trai phường nón.

Cuộc đời

Nguyễn Du sinh năm Ất Dậu (1765)[1] tại Thăng Long. Tổ tiên ông vốn từ làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (thuộc Hà Tây và nay thuộc Hà Nội) sau di cư vào xã Nghi Xuân, huyện Tiên Điền (nay là làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh).

Nguyễn Du thuộc về một gia đình khoa hoạn nổi danh ở làng Tiên Điền về thời Lê mạt. Trước ông, sáu bảy thế hệ viễn tổ đã từng đỗ đạt làm quan. Đến thân phụ ông là Nguyễn Nghiễm (1708-1775), đậu Nhị giáp tiến sĩ, làm quan đến chức Đại tư đồ (Tể tướng), tước Xuân Quận Công dưới triều Lê...Ngoài là một đại thần, ông Nghiễm còn là một nhà thơ, một nhà nghiên cứu sử học. Ông Nghiễm có cả thảy tám vợ và 21 người con trai[2]. Người con trưởng là Nguyễn Khản (1734-1786) đỗ Tam giáp tiến sĩ, làm quan tới chức Tham Tụng, tước Toản Quận Công (con bà chính, rất mê hát xướng, nổi tiếng phong lưu một thời, thân với chúa Trịnh Sâm), người con thứ hai là Nguyễn Điều đỗ Hương cống, từng làm trấn thủ Sơn Tây. Nếu kể theo thứ tự này, thì Nguyễn Du đứng hàng thứ bảy, nên còn được gọi là Chiêu Bảy.

Mẹ Nguyễn Du là bà Trần Thị Tần (1740-1778), con gái một người thuộc hạ làm chức câu kế [3], người xã Hoa Thiều, huyện Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Bà Tần là vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, trẻ hơn chồng 32 tuổi. Bà sinh được năm con, bốn trai và một gái.[4].

Thuở nhỏ Nguyễn Du sống trong nhung lụa, nhưng cuộc sống này kéo dài không quá mười năm. Vì 10 tuổi đã mồ côi cha, năm 13 tuổi, mồ côi mẹ, ông và các anh em ruột phải đến sống với người anh cả khác mẹ là Nguyễn Khản (khi ấy ông Khản đã hơn Nguyễn Du 31 tuổi)).

Năm 1780, khi ấy Nguyễn Du mới 15 tuổi thì xảy ra “Vụ mật án Canh Tý”: Chúa Trịnh Sâm lập con thứ là Trịnh Cán làm thế tử, thay cho con trưởng là Trịnh Tông. Ông Khản giúp Trịnh Tông, việc bại lộ, bị giam. Đến khi Trịnh Tông lên ngôi, ông Khản được cử lên làm Thượng thư Bộ Lại và Tham tụng. Quân lính khác phe (sử gọi là “kiêu binh”) không phục, kéo đến phá nhà, khiến ông Khản phải cải trang trốn lên Sơn Tây sống với em là Nguyễn Điều rồi về quê ở Hà Tĩnh. Vậy là anh em Nguyễn Du từ bấy lâu đã đến nương nhờ ông Khản, mỗi người phải mỗi ngã.

Năm 1783, Nguyễn Du thi Hương đỗ tam trường (tú tài), sau đó không rõ vì lẽ gì không đi thi nữa. Trước đây, một võ quan họ Hà (không rõ tên) ở Thái Nguyên, không có con nên đã nhận ông làm con nuôi. Vì thế, khi người cha này mất, Nguyễn Du được tập ấm[5] một chức quan võ nhỏ ở Thái Nguyên.

Năm 1786, Tây Sơn bắt đầu đưa quân ra Bắc Hà.

Năm 1789, Nguyễn Huệ, một trong ba thủ lĩnh của nhà Tây Sơn đã kéo quân ra Bắc đánh tan hai mươi mấy vạn quân Thanh sang tiến chiếm Đại Việt. Nguyễn Du cũng chạy theo vua Lê Chiêu Thống (1766-1793) nhưng không kịp, đành trở về quê vợ[6], quê ở Quỳnh Côi ở Thái Bình, sống nhờ nhà người anh vợ là danh sĩ Đoàn Nguyễn Tuấn (1750-?).

Được vài năm, Nguyễn Du về Nghệ An. Năm 1796, nghe tin ở Gia Định, chúa Nguyễn Ánh (1762-1819) đang hoạt động mạnh, ông định vào theo, nhưng chưa đi khỏi địa phận Nghệ An thì đã bị quân Tây Sơn do tướng Nguyễn Thuận chỉ huy, bắt giữ ba tháng. Trở về Tiên Điền (Hà Tĩnh), ông sống chật vật một thời gian dài cho đến mùa thu năm 1802, khi chúa Nguyễn Ánh lên ngôi lấy niên hiệu Gia Long, thì ông được gọi ra làm quan cho nhà Nguyễn.

Năm 1802, ông nhậm chức Tri huyện tại huyện Phù Dung (nay thuộc Khoái Châu, Hưng Yên). Tháng 11 cùng năm, đổi làm Tri phủ Thường Tín (Hà Tây, nay thuộc Hà Nội).

Kể từ đó, Nguyễn Du lần lượt đảm đương các chức việc sau: Năm 1803: đến cửa Nam Quan tiếp sứ thần nhà Thanh, Trung Quốc.

Năm 1805: thăng hàm Đông Các điện học sĩ.

Năm 1807: làm Giám khảo trường thi Hương ở Hải Dương.

Năm 1809: làm Cai bạ dinh Quảng Bình.

Năm 1813: thăng Cần Chánh điện học sĩ và giữ chức Chánh sứ đi Trung Quốc.

Sau khi đi sứ về vào năm 1814, ông được thăng Hữu tham tri Bộ Lễ.

Năm 1820, Gia Long mất, Minh Mạng (1791-1840) lên ngôi, Nguyễn Du lại được cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc, nhưng chưa kịp lên đường thì mất đột ngột (trong một trận dịch khủng khiếp làm chết hàng vạn người lúc bấy giờ) ở kinh đô Huế vào ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn tức 18 tháng 9 năm 1820[7]

Lúc đầu (1820), Nguyễn Du được táng ở xã An Ninh, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Bốn năm sau mới cải táng về Tiên Điền (Hà Tĩnh)[8].

Tác phẩm

Tác phẩm bằng chữ Hán

Tính đến tháng 5 năm 2008, giới chuyên môn đã sưu tập được 249 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du, được chia ra như sau:

  • Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên) gồm 78 bài, viết chủ yếu trong những năm tháng trước khi làm quan nhà Nguyễn.
  • Nam trung tạp ngâm (Ngâm nga lặt vặt lúc ở miền Nam) gồm 40 bài, viết khi làm quan ở Huế, Quảng Bình và những địa phương ở phía nam Hà Tĩnh.
  • Bắc hành tạp lục (Ghi chép linh tinh trong chuyến đi sang phương Bắc) gồm 131 bài thơ, viết trong chuyến đi sứ sang Trung Quốc.

Nhận xét về mảng thơ này, Ngữ văn 10 (Tập 2) viết:

Thơ chữ Hán của Nguyễn Du thể hiện tư tưởng, nhân cách của ông. Các bài thơ trong "Thanh Hiên thi tập" và "Nam trung tạp ngâm" tuy biểu hiện một tâm trạng buồn đau, day dứt nhưng đã cho thấy rõ khuynh hướng quan sát, suy ngẫm về cuộc đời, về xã hội của tác giả. Trong Bắc hành tạp lục, những điểm đặc sắc tư tưởng, tình cảm của Nguyễn Du được thể hiện rõ ràng hơn. Có ba nhóm đáng chú ý: Một là ca ngợi, đồng cảm với các nhân cách cao thượng và phê phán những nhân vật phản diện. Hai là phê phán xã hội phong kiến chà đạp quyền sống con người. Ba là cảm thông với những thân phận nhỏ bé dưới đáy xã hội, bị đọa đày hắt hủi...[9]

Tác phẩm bằng chữ Nôm

Sáng tác của Nguyễn Du gồm có:

  • Đoạn trường tân thanh (Tiếng kêu mới về nỗi đau đứt ruột. Tên phổ biến là Truyện Kiều), được viết bằng chữ Nôm, gồm 3.254 câu thơ theo thể lục bát. Nội dung của truyện dựa theo tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc. Nội dung chính của truyện xoay quanh quãng đời lưu lạc sau khi bán mình chuộc cha của Thuý Kiều, nhân vật chính trong truyện, một cô gái có tài sắc. Về thời điểm sáng tác, Từ điển văn học (bộ mới) ghi: "Có thuyết cho rằng Nguyễn Du viết ra sau khi ông đi sứ Trung Quốc (1814-1820), có thuyết cho nói ông viết trước khi đi sứ, có thể vào khoảng thời gian làm Cai bạ ở Quảng Bình (1804-1809). Thuyết sau được nhiều người chấp nhận hơn" [10].
  • Văn chiêu hồn (tức Văn tế thập loại chúng sinh, dịch nghĩa: Văn tế mười loại chúng sinh), hiện chưa rõ thời điểm sáng tác. Trong văn bản do Đàm Quang Thiện hiệu chú có dẫn lại ý của ông Trần Thanh Mại trên “Đông Dương tuần báo” năm 1939, thì Nguyễn Du viết bài văn tế này sau một mùa dịch khủng khiếp làm hằng triệu người chết, khắp non sông đất nước âm khí nặng nề, và ở khắp các chùa, người ta đều lập đàn giải thoát để cầu siêu cho hàng triệu linh hồn. Ông Hoàng Xuân Hãn cho rằng có lẽ Nguyễn Du viết Văn chiêu hồn trước cả Truyện Kiều, khi ông còn làm cai bạ ở Quảng Bình (1802-1812). Tác phẩm được làm theo thể song thất lục bát, gồm 184 câu thơ chữ Nôm.
  • Thác lời trai phường nón, 48 câu, được viết bằng thể lục bát. Nội dung là thay lời anh con trai phường nón làm thơ tỏ tình với cô gái phường vải.
  • Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ, 98 câu, viết theo lối văn tế, để bày tỏ nỗi uất hận vì mối tình với hai cô gái phường vải khác.

Hai bài này được sáng tác khoảng thời gian Nguyễn Du về sống ở Nghệ An, sau bị quân Tây Sơn bắt giữ rồi thả.

Nhận xét khái quát

Xét về nội dung, qua các sáng tác của Nguyễn Du, nét nổi bật chính là sự đề cao xúc cảm, tức đề cao “tình”. Điều quan trọng hàng đầu, là sự cảm thông sâu sắc của tác giả đối với cuộc sống và con người, đặc biệt là những con người nhỏ bé, bất hạnh (Văn tế thập loại chúng sinh, Sở kiến hành, Thái Bình mại ca giả v.v...). Cái nhìn nhân đạo này khiến ông được đánh giá là “tác giả tiêu biểu của trào lưu nhân đạo chủ nghĩa trong văn học cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19”. Riêng với Truyện Kiều, kiệt tác này còn “thấm đẫm tinh thần ngợi ca, trân trọng vẻ đẹp kì diệu của tình yêu lứa đôi.”

Về mặt nghệ thuật, Nguyễn Du là nhà thơ có học vấn uyên bác, nắm vững nhiều thể thơ của Trung Quốc, như: ngũ ngôn cổ thi, ngũ ngôn luật , thất ngôn luật, ca, hành...nên ở thể thơ nào, ông cũng có bài xuất sắc. Đặc biệt hơn cả là tài làm thơ bằng chữ Nôm của ông, mà bằng chứng là ở Truyện Kiều, đã cho thấy thể thơ lục bát “có khả năng chuyển tải nội dung tự sự và trữ tình to lớn của thể loại truyện thơ.”[11]

Và để hiểu được phần nào nỗi lòng của Nguyễn Du, các nhà nghiên cứu văn học thường dựa vào Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền và các tác phẩm của ông (đặc biệt là Truyện Kiều) để rút ra một số nhận định. Tuy nhiên, những nhận định ấy đến nay vẫn chưa thống nhất, thậm chí còn mâu thuẫn với nhau một cách sâu sắc. Bởi vậy chỉ có thể tạm kết luận rằng:

Nguyễn Du là một con người suy nghĩ nhiều về cuộc sống đương thời, có thái độ yêu ghét khá rõ trước cái tốt cái xấu, nhưng không sao thoát khỏi buồn phiền vì không giải thích nổi cuộc đời và không biết phải làm thế nào để thay đổi cuộc đời đó[12].

Về năm sinh Nguyễn Du

Tháng 8 năm 1958, Thư viện Khoa học Trung ương (Hà Nội) có thêm cuốn Nguyễn Tộc thế phả, mang ký hiệu VHv 369 và vi phim mang số 1747. Trong đó tại tờ 20a và 20b có câu:

Đệ nhất nam húy Du, tiểu húy Du (ngọc quý), tự Tố Như, trắc thất Trần thị sinh giã. Ất Dậu niên sinh...

Bên phải dòng này có một dòng chữ nhỏ, nét chữ và màu mực đều khác, do người sau chua thêm vào: Thập nhất nguyệt, nhị thập tam nhật dần thời.

Vì vậy mà có người cho rằng Nguyễn Du sinh vào giờ dần ngày 23 tháng 11 năm Nhâm Dần (tức ngày 3 tháng 1 năm 1766), thay vì là năm 1765 như các sách đã ghi trước đây. Nhưng theo PGS. Nguyễn Thạch Giang thì:

Dòng chữ do người đời sau chua thêm không đáng tin. Vì cho đến nay, không có một bản gia phả nào của họ Nguyễn ghi rõ "ngày sinh" của Nguyễn Du, kể cả bản “Hoan Châu Nghi Tiên Nguyễn gia thế phả” do chính cha của Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm biên soạn [13].

Do vẫn còn ý kiến khác, nên ở đây tạm ghi theo số đông là 1765, trong đó có sách giáo khoa lớp 10 hiện hành.


Chú thích

  1. ^ Chép theo sách giáo khoa lớp 10 (Tập 2) hiện hành (bản in 2008, tr. 92).
  2. ^ Ghi theo Thơ chữ Hán Nguyễn Du, tr. 18.
  3. ^ Từ điển văn học (bộ mới) ghi: xuất thân từ giới bình dân. (tr.1120)
  4. ^ Thứ tự như sau: Nguyễn Trụ, Nguyễn Nễ (hơn Nguyễn Du 4 tuổi), Nguyễn Du, Nguyễn Ức (kém Nguyễn Du 2 tuổi) và Nguyễn Thị Niên. Năm 1775, người con đầu của bà Tần mất, mới 18 tuổi, năm sau chồng mất, hai cái tang liền làm cho bà đau buồn rồi lâm bệnh mất ngày 27 tháng 7 năm 1778, khi mới 39 tuổi (theo Thơ chữ Hán Nguyễn Du, tr 19 và Từ điển văn học (bộ mới), tr. 1120.)
  5. ^ Tập ấm: Tập có nghĩa truyền lại đời sau, ấm có nghĩa là nhờ ơn người trước để lại mà con cháu được phong tặng chức tước hoặc miễn cho một trách nhiệm nào đó.
  6. ^ Vợ Nguyễn Du, sách Ngữ văn 10 không ghi tên, chỉ cho biết là con gái Đoàn Nguyễn Thục, quê ở Quỳnh Côi, trấn Sơn Nam, nay thuộc tỉnh Thái Bình. Khi đến sống ở đây, vài tác giả như Phạm Thế ngũ (sách ghi bên dưới, tr. 349) cho biết Nguyễn Du có mưu chống lại Tây Sơn, nhưng việc không thành nên bỏ về Nghệ An. Nhưng theo Từ điển văn học, căn cứ vào những sáng tác viết vào khoảng thời gian này trong Thanh Hiên thi tập, thì hình như Nguyễn Du chủ yếu là trốn tránh để giữ mình, chứ không có âm mưu chống đối gì.
  7. ^ Ghi theo Ngữ văn 10 tập 2 (Nxb Giáo dục, 2008, tr.93). Còn Văn học 11 tập I (Nxb Giáo dục, 1981, tr 23), Từ điển Văn học (bộ mới, sách đã dẫn, tr.1120) và theo cách tính của website [1] đều cho biết đó là ngày 16 tháng 9 năm 2008.
  8. ^ Phần tiểu sử Nguyễn Du dựa theo Từ điển văn học (bộ mới), Ngữ văn 10 tập 2, Thơ chữ Hán Nguyễn DuViệt Nam văn học sử giản ước tân biên quyển 2 của Phạm Thế Ngũ. Và theo GS. Trương Chính thì một phần cuộc đời của Nguyễn Du được phân ra mấy giai đoạn như sau: Năm 1786 cho đến khoảng cuối năm 1795 đầu năm 1796, là giai đoạn “Mười năm gió bụi”. Năm 1796 cho đến năm 1802 là giai đoạn “Dưới chân núi Hồng”. Từ năm 1802 đến cuối năm 1804 là giai đoạn “Ra làm quan ở Bắc Hà”... (Thơ chữ Hán Nguyễn Du, tr. 15-16)
  9. ^ Ngữ văn 10 (Tập 2), tr. 94.
  10. ^ Từ điển văn học (bộ mới), tr. 1844.
  11. ^ Lược theo Một vài đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của thơ văn Nguyễn Du, Ngữ văn 10, tr. 95-96.
  12. ^ Văn học 11, Nxb Giáo dục, 1981, tr.24.
  13. ^ Theo PGS. Nguyễn Thạch Giang, Văn học thế kỷ 18. NXB. Khoa học Xã hội, 2004, tr. 169.

Tham khảo

  • Từ điển văn học (bộ mới). Nxb Thế giới, 2004.
  • Ngữ văn 10 (Tập 2). Nxb Giáo dục, tháng 5 năm 2008.
  • Thơ chữ Hán Nguyễn Du (phần giới thiệu của Trương Chính). Nxb Văn học, 1978
  • Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (Quyển 2). Quốc học tùng thư xuất bản, Sài Gòn, 1963.
  • Thạch Trung Giả, Văn học phân tích toàn thư. Nxb Lá Bối, 1973.
  • Thanh Lãng, Bảng lược đồ văn học Việt Nam (quyển Thượng). Nxb Trình Bày, Sài Gòn, 1967.