Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Adele”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n clean up using AWB
Dòng 25: Dòng 25:
}}
}}


'''Adele Laurie Blue Adkins'''<ref name=nicole>Frehsée, Nicole. (22 tháng 1 năm 2009) "Meet Adele, the U.K.'s Newest Soul Star". ''Rolling Stone''. (1070):26</ref> [[Huân chương Đế chế Anh|MBE]] ({{IPAc-en|ə|ˈ|d|ɛ|l}}; sinh ngày 5 tháng 5 năm 1988), được biết đến nhiều hơn với cái tên ngắn gọn là '''Adele''', là một [[ca sĩ]], [[nhạc sĩ]] người [[Anh]]. Adele được đề nghị ký hợp đồng thu âm với hãng thu âm [[XL Recordings]] sau khi một người bạn của Adele đăng một bản demo của cô lên [[Myspace]] vào năm 2006. Năm tiếp theo cô nhận giải "Sự lựa chọn của Nhà phê bình" trong lễ trao giải [[Brit Awards]] và đoạt giải [[Sound of 2008]] của kênh [[BBC]]. Album đầu tay của cô, ''[[19 (album của Adele)|19]]'' được phát hành vào năm 2008 với nhiều thành công cả về thương mại lẫn các ý kiến phê bình tại Anh. ''19'' được chứng nhận [[chứng nhận doanh số đĩa thu âm|đĩa bạch kim]] bốn lần tại Anh Quốc và hai [[chứng nhận doanh số đĩa thu âm|đĩa bạch kim]] tại Hoa Kỳ.<ref name="BPI certifications">{{chú thích web |url=http://www.bpi.co.uk/certifiedawards/search.aspx|title=Certified Awards Search |publisher=[[British Phonographic Industry]]|accessdate=ngày 1 tháng 3 năm 2011}}</ref><ref>{{chú thích web|url=http://www.riaa.com/goldandplatinumdata.php?table=SEARCH_RESULTS |title=Recording Industry Association of America |publisher=RIAA |date= |accessdate=ngày 4 tháng 5 năm 2013}}</ref> Sự nghiệp của cô tại Mỹ thăng tiến mạnh mẽ sau sự xuất hiện của cô trong chương trình ''[[Saturday Night Live]]'' vào cuối năm 2008. Tại lễ trao giải [[Giải Grammy lần thứ 51|Grammy năm 2009]], Adele đã nhận được giải [[Giải Grammy cho Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất|Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất]] và [[Giải Grammy cho Trình diễn giọng pop nữ xuất sắc nhất|Trình diễn giọng Pop nữ xuất sắc nhất]].<ref name=GRAM09>{{chú thích báo|url=http://www.dailymail.co.uk/tvshowbiz/article-1139346/Brits-Duffy-Adele-Coldplay-clinch-awards-lead-British-winners-Grammys.html|title=Brits on top: Duffy, Adele and Coldplay clinch top awards as they lead British winners at Grammys|work=[[Daily Mail]]|publisher=[[Associated Newspapers]]|date=ngày 9 tháng 2 năm 2011|accessdate=ngày 12 tháng 7 năm 2011|location=Luân Đôn}}</ref><ref>[http://www.mirror.co.uk/celebs/news/2009/02/09/coldplay-led-zepellin-s-robert-plant-radiohead-duffy-and-adele-win-at-grammy-awards-after-rihanna-pulls-out-of-show-115875-21109334/ Coldplay, Robert Plant, Radiohead, Duffy and Adele win at Grammy Awards], ''[[Daily Mirror]]'', Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2011</ref><ref>{{chú thích web|url=http://news.bbc.co.uk/1/hi/entertainment/7764641.stm|title=Grammys 2009: Selected winners|publisher=[[BBC News]] |date=ngày 9 tháng 2 năm 2009 |accessdate=ngày 18 tháng 9 năm 2014}}</ref>
'''Adele Laurie Blue Adkins'''<ref name=nicole>Frehsée, Nicole. (22 tháng 1 năm 2009) "Meet Adele, the U.K.'s Newest Soul Star". ''Rolling Stone''. (1070):26</ref> [[Huân chương Đế chế Anh|MBE]] ({{IPAc-en|ə|ˈ|d|ɛ|l}}; sinh ngày 5 tháng 5 năm 1988), được biết đến nhiều hơn với cái tên ngắn gọn là '''Adele''', là một [[ca sĩ]], [[nhạc sĩ]] người [[Anh]]. Adele được đề nghị ký hợp đồng thu âm với hãng thu âm [[XL Recordings]] sau khi một người bạn của Adele đăng một bản demo của cô lên [[Myspace]] vào năm 2006. Năm tiếp theo cô nhận giải "Sự lựa chọn của Nhà phê bình" trong lễ trao giải [[Brit Awards]] và đoạt giải [[Sound of 2008]] của kênh [[BBC]]. Album đầu tay của cô, ''[[19 (album của Adele)|19]]'' được phát hành vào năm 2008 với nhiều thành công cả về thương mại lẫn các ý kiến phê bình tại Anh. ''19'' được chứng nhận [[chứng nhận doanh số đĩa thu âm|đĩa bạch kim]] bốn lần tại Anh Quốc và hai [[chứng nhận doanh số đĩa thu âm|đĩa bạch kim]] tại Hoa Kỳ.<ref name="BPI certifications">{{Chú thích web |url=http://www.bpi.co.uk/certifiedawards/search.aspx|tiêu đề=Certified Awards Search |nhà xuất bản=[[British Phonographic Industry]]|ngày truy cập=ngày 1 tháng 3 năm 2011}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://www.riaa.com/goldandplatinumdata.php?table=SEARCH_RESULTS |tiêu đề=Recording Industry Association of America |nhà xuất bản=RIAA |ngày= |ngày truy cập=ngày 4 tháng 5 năm 2013}}</ref> Sự nghiệp của cô tại Mỹ thăng tiến mạnh mẽ sau sự xuất hiện của cô trong chương trình ''[[Saturday Night Live]]'' vào cuối năm 2008. Tại lễ trao giải [[Giải Grammy lần thứ 51|Grammy năm 2009]], Adele đã nhận được giải [[Giải Grammy cho Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất|Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất]] và [[Giải Grammy cho Trình diễn giọng pop nữ xuất sắc nhất|Trình diễn giọng Pop nữ xuất sắc nhất]].<ref name=GRAM09>{{chú thích báo|url=http://www.dailymail.co.uk/tvshowbiz/article-1139346/Brits-Duffy-Adele-Coldplay-clinch-awards-lead-British-winners-Grammys.html|title=Brits on top: Duffy, Adele and Coldplay clinch top awards as they lead British winners at Grammys|work=[[Daily Mail]]|publisher=[[Associated Newspapers]]|date=ngày 9 tháng 2 năm 2011|accessdate=ngày 12 tháng 7 năm 2011|location=Luân Đôn}}</ref><ref>[http://www.mirror.co.uk/celebs/news/2009/02/09/coldplay-led-zepellin-s-robert-plant-radiohead-duffy-and-adele-win-at-grammy-awards-after-rihanna-pulls-out-of-show-115875-21109334/ Coldplay, Robert Plant, Radiohead, Duffy and Adele win at Grammy Awards], ''[[Daily Mirror]]'', Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2011</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://news.bbc.co.uk/1/hi/entertainment/7764641.stm|tiêu đề=Grammys 2009: Selected winners|nhà xuất bản=[[BBC News]] |ngày=ngày 9 tháng 2 năm 2009 |ngày truy cập=ngày 18 tháng 9 năm 2014}}</ref>


Adele phát hành album thứ hai của cô - ''[[21 (album của Adele)|21]]'' vào đầu năm 2011.<ref name=Spin21>{{chú thích web|url=http://www.spin.com/articles/adele-new-record-quite-different |title=Adele: New Record is 'Quite Different' |work=Spin Magazine |date=ngày 2 tháng 11 năm 2010 |accessdate=ngày 8 tháng 5 năm 2011}}</ref><ref name=autogenerated1>{{chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/news/952006/adele-to-release-21-sophomore-album-in-february|title=Adele to Release '21' Sophomore Album in February Billboard ngày 2 tháng 11 năm 2010 |work=Billboard |date=ngày 14 tháng 9 năm 2009 |accessdate=ngày 8 tháng 5 năm 2011}}</ref> Album nhận được nhiều nhận xét tích cực từ giới phê bình và thành công hơn về mặt thương mại so với album đầu tay, đem lại cho cô nhiều giải thưởng trong năm 2012 trong đó có việc [[Kỷ lục của giải Grammy#Nghệ sĩ nữ đoạt nhiều giải Grammy nhất trong một đêm|cân bằng kỉ lục]] giành 6 [[Giải Grammy lần thứ 54|giải Grammy]] trong một đêm của [[Beyoncé]].<ref>{{chú thích web|url=http://www.telegraph.co.uk/culture/music/music-news/9078334/Grammy-Awards-2012-Adele-wins-six-awards-tying-with-Beyonce-for-most-trophies-won-in-one-night.html |title=Grammy Awards 2012: Adele wins six awards tying with Beyoncé for most trophies won in one night |publisher=Telegraph |date= |accessdate=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref><ref>{{chú thích web|url=http://www.dailymail.co.uk/tvshowbiz/article-2100319/Grammys-2012-winners-Adele-wins-SIX-Awards-music-world-remembers-Whitney-Houston.html |title=Grammys 2012 winners: Adele wins SIX Awards as music world remembers Whitney Houston &#124; Mail Online |publisher=Dailymail.co.uk |date=ngày 14 tháng 2 năm 2012 |accessdate=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref><ref name=110208Charts>{{chú thích báo|url=http://latimesblogs.latimes.com/music_blog/2011/02/british-soul-singer-adele-preps-summer-us-tour.html |title=British soul singer Adele preps summer U.S. tour |work=Los Angeles Times |date=ngày 8 tháng 2 năm 2011 |accessdate=ngày 8 tháng 5 năm 2011}}</ref> ''21'' đã được chứng nhận đĩa bạch kim 16 lần tại Anh,<ref name="BPI certifications"/> còn tại Mỹ album giữ vị trí dẫn đầu trên bảng xếp hạng lâu hơn bất kỳ album nào kể từ năm 1985.<ref name=longestrunningalbum>{{chú thích báo|first=Keith|last=Caulfield|title=Adele's '21': Longest-Running No. 1 Album Since 'Purple Rain'|url=http://www.billboard.com/articles/news/503084/adeles-21-longest-running-no-1-album-since-purple-rain|work=[[Billboard]]|date=ngày 29 tháng 2 năm 2012|accessdate=ngày 1 tháng 3 năm 2012}}</ref><ref name=billboarddiamond>Keith Caulfield (27 tháng 11 năm 2012). [http://www.billboard.com/articles/news/473979/adeles-21-hits-10-million-in-us-sales "Adele's '21' Hits 10 Million in U.S. Sales"]. Billboard.</ref> Album đến nay đã bán ra trên 30 triệu bản trên toàn cầu.<ref>{{chú thích báo |url=http://www.theguardian.com/music/musicblog/2014/jul/09/robin-thicke-five-blockbuster-albums-that-bombed-jagger-carey-duffy-guns-n-roses-glasvegas |title=From Robin Thicke to Mariah and Mick: five blockbuster albums that bombed |first=Eamonn|last= Forde |date= ngày 9 tháng 7 năm 2014 |work=The Guardian|accessdate=ngày 10 tháng 7 năm 2014 }}</ref><ref>{{chú thích báo |url=http://www.billboard.com/articles/news/6157708/adele-next-album-rumor |title=Adele's Next Album and World Tour Confirmed? 'No Truth' in New Rumor |first=Lars|last= Brandle|date= ngày 16 tháng 7 năm 2014 |work=Billboard|accessdate=ngày 20 tháng 7 năm 2014 }}</ref> Ước tính Adele đã bán ra 40 triệu album và 50 triệu đĩa đơn trên toàn thế giới.<ref>{{chú thích web|url=http://beach-news.com/adele-legendary-singer/|title=Our Beloved Adele The Legendary Singer!|publisher=Beach-news.com|work=Arash|date=ngày 29 tháng 12 năm 2014 |accessdate=ngày 14 tháng 1 năm 2015}}</ref>
Adele phát hành album thứ hai của cô - ''[[21 (album của Adele)|21]]'' vào đầu năm 2011.<ref name=Spin21>{{Chú thích web|url=http://www.spin.com/articles/adele-new-record-quite-different |tiêu đề=Adele: New Record is 'Quite Different' |work=Spin Magazine |ngày=ngày 2 tháng 11 năm 2010 |ngày truy cập=ngày 8 tháng 5 năm 2011}}</ref><ref name=autogenerated1>{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/news/952006/adele-to-release-21-sophomore-album-in-february|tiêu đề=Adele to Release '21' Sophomore Album in February Billboard ngày 2 tháng 11 năm 2010 |work=Billboard |ngày=ngày 14 tháng 9 năm 2009 |ngày truy cập=ngày 8 tháng 5 năm 2011}}</ref> Album nhận được nhiều nhận xét tích cực từ giới phê bình và thành công hơn về mặt thương mại so với album đầu tay, đem lại cho cô nhiều giải thưởng trong năm 2012 trong đó có việc [[Kỷ lục của giải Grammy#Nghệ sĩ nữ đoạt nhiều giải Grammy nhất trong một đêm|cân bằng kỉ lục]] giành 6 [[Giải Grammy lần thứ 54|giải Grammy]] trong một đêm của [[Beyoncé]].<ref>{{Chú thích web|url=http://www.telegraph.co.uk/culture/music/music-news/9078334/Grammy-Awards-2012-Adele-wins-six-awards-tying-with-Beyonce-for-most-trophies-won-in-one-night.html |tiêu đề=Grammy Awards 2012: Adele wins six awards tying with Beyoncé for most trophies won in one night |nhà xuất bản=Telegraph |ngày= |ngày truy cập=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://www.dailymail.co.uk/tvshowbiz/article-2100319/Grammys-2012-winners-Adele-wins-SIX-Awards-music-world-remembers-Whitney-Houston.html |tiêu đề=Grammys 2012 winners: Adele wins SIX Awards as music world remembers Whitney Houston &#124; Mail Online |nhà xuất bản=Dailymail.co.uk |ngày=ngày 14 tháng 2 năm 2012 |ngày truy cập=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref><ref name=110208Charts>{{chú thích báo|url=http://latimesblogs.latimes.com/music_blog/2011/02/british-soul-singer-adele-preps-summer-us-tour.html |title=British soul singer Adele preps summer U.S. tour |work=Los Angeles Times |date=ngày 8 tháng 2 năm 2011 |accessdate=ngày 8 tháng 5 năm 2011}}</ref> ''21'' đã được chứng nhận đĩa bạch kim 16 lần tại Anh,<ref name="BPI certifications"/> còn tại Mỹ album giữ vị trí dẫn đầu trên bảng xếp hạng lâu hơn bất kỳ album nào kể từ năm 1985.<ref name=longestrunningalbum>{{chú thích báo|first=Keith|last=Caulfield|title=Adele's '21': Longest-Running No. 1 Album Since 'Purple Rain'|url=http://www.billboard.com/articles/news/503084/adeles-21-longest-running-no-1-album-since-purple-rain|work=[[Billboard]]|date=ngày 29 tháng 2 năm 2012|accessdate=ngày 1 tháng 3 năm 2012}}</ref><ref name=billboarddiamond>Keith Caulfield (27 tháng 11 năm 2012). [http://www.billboard.com/articles/news/473979/adeles-21-hits-10-million-in-us-sales "Adele's '21' Hits 10 Million in U.S. Sales"]. Billboard.</ref> Album đến nay đã bán ra trên 30 triệu bản trên toàn cầu.<ref>{{chú thích báo |url=http://www.theguardian.com/music/musicblog/2014/jul/09/robin-thicke-five-blockbuster-albums-that-bombed-jagger-carey-duffy-guns-n-roses-glasvegas |title=From Robin Thicke to Mariah and Mick: five blockbuster albums that bombed |first=Eamonn|last= Forde |date= ngày 9 tháng 7 năm 2014 |work=The Guardian|accessdate=ngày 10 tháng 7 năm 2014 }}</ref><ref>{{chú thích báo |url=http://www.billboard.com/articles/news/6157708/adele-next-album-rumor |title=Adele's Next Album and World Tour Confirmed? 'No Truth' in New Rumor |first=Lars|last= Brandle|date= ngày 16 tháng 7 năm 2014 |work=Billboard|accessdate=ngày 20 tháng 7 năm 2014 }}</ref> Ước tính Adele đã bán ra 40 triệu album và 50 triệu đĩa đơn trên toàn thế giới.<ref>{{Chú thích web|url=http://beach-news.com/adele-legendary-singer/|tiêu đề=Our Beloved Adele The Legendary Singer!|nhà xuất bản=Beach-news.com|work=Arash|ngày=ngày 29 tháng 12 năm 2014 |ngày truy cập=ngày 14 tháng 1 năm 2015}}</ref>


''21'' cũng giúp Adele được ghi danh trong ''[[Sách Kỷ lục Guinness]]''.<ref name=guinness>{{chú thích web|last=Kaufman|first=Gil|title=Adele, Lady Gaga, Justin Bieber Land New Guinness Records|url=http://www.mtv.com/news/articles/1670701/lady-gaga-adele-guinness-book-of-world-records.jhtml|work=MTV|accessdate=ngày 23 tháng 9 năm 2011|date=ngày 14 tháng 9 năm 2011}}</ref> Cô là nữ nghệ sĩ đầu tiên trong lịch sử ''Billboard'' Hot 100 có cùng một lúc ba đĩa đơn trong top 10, có hai album trong top 5 ''Billboard'' 200 và hai đĩa đơn trong top 5 ''Billboard'' Hot 100.<ref name="BillboardAdele-ulation">{{chú thích web|last=Trust|first=Gary|date=ngày 23 tháng 2 năm 2012|url=http://www.billboard.com/articles/news/504461/adele-ulation-makes-history-with-hot-100-billboard-200-moves|title=Analysis: How Adele Scored Two Titles Each in the Hot 100 & Billboard 200's Top Five|work=[[Billboard]] |accessdate=ngày 23 tháng 2 năm 2012}}</ref> Adele cũng là nghệ sĩ nữ có album (''21'') giữ vị trí đầu bảng trong nhiều tuần nhất trên các bảng xếp hạng album của Vương quốc Anh và Hoa Kỳ.<ref>{{chú thích báo|url=http://news.bbc.co.uk/cbbcnews/hi/newsid_9440000/newsid_9446200/9446210.stm |title=CBBC – Newsround – Adele makes music history again with album chart record |publisher=[[BBC News]] |date= ngày 4 tháng 4 năm 2011|accessdate=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref><ref>{{chú thích web|url=http://www.abc.net.au/news/ngày 23 tháng 2 năm 2012/adele-breaks-whitney-record/3846972 |title=Adele breaks Houston's chart record |publisher=Australian Broadcasting Corporation |date=ngày 23 tháng 2 năm 2012 |accessdate=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref> Trong hai năm liên tiếp (2011 và 2012) Adele được ''[[Billboard]]'' bầu chọn là Nghệ sĩ của năm.<ref>{{chú thích báo|last1=Caulfield|first1=Keith|title=Billboard's Artists of the Year: 1981-2014|url=http://www.billboard.com/photos/6415105/billboard-artist-of-the-year-gallery-1981-to-2014?i=540744|agency=Billboard|issue=ngày 23 tháng 6 năm 2015|date=ngày 13 tháng 1 năm 2015}}</ref>
''21'' cũng giúp Adele được ghi danh trong ''[[Sách Kỷ lục Guinness]]''.<ref name=guinness>{{Chú thích web|last=Kaufman|first=Gil|tiêu đề=Adele, Lady Gaga, Justin Bieber Land New Guinness Records|url=http://www.mtv.com/news/articles/1670701/lady-gaga-adele-guinness-book-of-world-records.jhtml|work=MTV|ngày truy cập=ngày 23 tháng 9 năm 2011|ngày=ngày 14 tháng 9 năm 2011}}</ref> Cô là nữ nghệ sĩ đầu tiên trong lịch sử ''Billboard'' Hot 100 có cùng một lúc ba đĩa đơn trong top 10, có hai album trong top 5 ''Billboard'' 200 và hai đĩa đơn trong top 5 ''Billboard'' Hot 100.<ref name="BillboardAdele-ulation">{{Chú thích web|last=Trust|first=Gary|ngày=ngày 23 tháng 2 năm 2012|url=http://www.billboard.com/articles/news/504461/adele-ulation-makes-history-with-hot-100-billboard-200-moves|tiêu đề=Analysis: How Adele Scored Two Titles Each in the Hot 100 & Billboard 200's Top Five|work=[[Billboard]] |ngày truy cập=ngày 23 tháng 2 năm 2012}}</ref> Adele cũng là nghệ sĩ nữ có album (''21'') giữ vị trí đầu bảng trong nhiều tuần nhất trên các bảng xếp hạng album của Vương quốc Anh và Hoa Kỳ.<ref>{{chú thích báo|url=http://news.bbc.co.uk/cbbcnews/hi/newsid_9440000/newsid_9446200/9446210.stm |title=CBBC – Newsround – Adele makes music history again with album chart record |publisher=[[BBC News]] |date= ngày 4 tháng 4 năm 2011|accessdate=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://www.abc.net.au/news/ngày 23 tháng 2 năm 2012/adele-breaks-whitney-record/3846972 |tiêu đề=Adele breaks Houston's chart record |nhà xuất bản=Australian Broadcasting Corporation |ngày=ngày 23 tháng 2 năm 2012 |ngày truy cập=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref> Trong hai năm liên tiếp (2011 và 2012) Adele được ''[[Billboard]]'' bầu chọn là Nghệ sĩ của năm.<ref>{{chú thích báo|last1=Caulfield|first1=Keith|title=Billboard's Artists of the Year: 1981-2014|url=http://www.billboard.com/photos/6415105/billboard-artist-of-the-year-gallery-1981-to-2014?i=540744|agency=Billboard|issue=ngày 23 tháng 6 năm 2015|date=ngày 13 tháng 1 năm 2015}}</ref>


Vào năm 2012, Adele đứng thứ năm trong danh sách 100 Người phụ nữ vĩ đại nhất trong âm nhạc của [[VH1]] còn tạp chí ''[[Time (tạp chí)|Time]]'' cũng bầu chọn cô là một trong những nhân vật ảnh hưởng nhất trên thế giới. Tại lễ trao [[giải Oscar lần thứ 85]], Adele đã trở thành một trong 6 ca sĩ trong lịch sử giành [[giải Oscar]] cho hạng mục [[Giải Oscar cho ca khúc trong phim hay nhất|Ca khúc trong phim hay nhất]] với "[[Skyfall (bài hát)|Skyfall]]", bài hát chủ đề trong bom tấn cùng tên về [[James Bond]].<ref name="2013 Oscars Nominees">{{chú thích web |url=http://oscar.go.com/nominees |title=2013 Oscars Nominees |date=January 2013 |publisher=oscars |accessdate=ngày 10 tháng 1 năm 2013 }}</ref>
Vào năm 2012, Adele đứng thứ năm trong danh sách 100 Người phụ nữ vĩ đại nhất trong âm nhạc của [[VH1]] còn tạp chí ''[[Time (tạp chí)|Time]]'' cũng bầu chọn cô là một trong những nhân vật ảnh hưởng nhất trên thế giới. Tại lễ trao [[giải Oscar lần thứ 85]], Adele đã trở thành một trong 6 ca sĩ trong lịch sử giành [[giải Oscar]] cho hạng mục [[Giải Oscar cho ca khúc trong phim hay nhất|Ca khúc trong phim hay nhất]] với "[[Skyfall (bài hát)|Skyfall]]", bài hát chủ đề trong bom tấn cùng tên về [[James Bond]].<ref name="2013 Oscars Nominees">{{Chú thích web |url=http://oscar.go.com/nominees |tiêu đề=2013 Oscars Nominees |ngày=January 2013 |nhà xuất bản=oscars |ngày truy cập=ngày 10 tháng 1 năm 2013 }}</ref>


== Những năm đầu đời ==
== Những năm đầu đời ==
Adele được sinh ra tại [[Tottenham]], phía bắc [[Luân Đôn]] vào ngày 5 tháng 5 năm 1988. Mẹ cô, bà Penny Adkins (sinh khoảng năm 1970) là người Anh, còn cha cô, Mark Evans, là một người [[Wales|xứ Wales]].<ref>{{chú thích báo|url=http://www.guardian.co.uk/music/2008/jan/27/popandrock.britawards2008|title=Mad about the girl |work=[[The Guardian]] |location=Luân Đôn |date=ngày 27 tháng 1 năm 2008 | accessdate=ngày 23 tháng 4 năm 2010 | first=Sylvia | last=Patterson|archiveurl=https://web.archive.org/web/20101120110927/http://www.guardian.co.uk/music/2008/jan/27/popandrock.britawards2008|archivedate=ngày 20 tháng 11 năm 2010|deadurl=no}}</ref> Evans rời bỏ gia đình khi Adele lên hai tuổi, để người vợ trẻ 20 tuổi tự thân nuôi Adele, và Adele đã nói rằng cô sẽ không bao giờ tha thứ cho ông.<ref>{{chú thích web|last=Haines |first=Chris |url=http://www.walesonline.co.uk/news/wales-news/2012/02/18/adele-s-welsh-father-mark-evans-reveals-his-heartache-over-letting-down-six-time-grammy-awards-winner-91466-30356409/ |title=Adele's Welsh father Mark Evans reveals his heartache over 'letting down' six-time Grammy Awards winner – Wales News – News |publisher=WalesOnline |date= |accessdate=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref><ref name=VanMeter>{{chú thích web|last=Van |first=Jonathan |url=http://www.vogue.com/magazine/article/adele-one-and-only/ |title=Adele: One and Only – Magazine |work=Vogue |date= |accessdate=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref> Cô bắt đầu ca hát từ năm bốn tuổi và cô khẳng định mình lúc đó cô bị ám ảnh bởi những giọng ca.<ref>{{chú thích báo|url=http://www.baltimoresun.com/entertainment/bal-li.music15jan15002019,0,4031087.story|title=Grammy-nominated Adele taking fame in stride |work=The Baltimore Sun |date=ngày 15 tháng 1 năm 2009}}</ref><ref>{{chú thích báo | url=http://www.expressnightout.com/content/2009/01/singing_stronger_every_day_adele_stays_g.php | title=Singing Stronger Every Day: Adele | work=Express Night Out | date=ngày 15 tháng 1 năm 2009 | agency=Washington Post | accessdate=ngày 22 tháng 6 năm 2012 | author=Otiji, Adaora}}</ref> Lớn lên Adele giành nhiều thời gian để ca hát hơn là đọc sách, nói rằng cuốn sách cuối cùng cô đọc từ hồi sáu tuổi là ''[[Matilda (tiểu thuyết)|Matilda]]'' của [[Roald Dahl]].<ref name="Adele DM Interview">{{chú thích báo|title=Adele: 'I have all the say; I have power over everything I do'|url=http://www.dailymail.co.uk/home/you/article-1135182/Adele-I-say-I-power-I-do.html|work=[[Daily Mail]] |location=Luân Đôn|date=ngày 15 tháng 7 năm 2015}}</ref> Adele khẳng định nhóm nhạc [[Spice Girls]] là nguồn cảm hứng lớn cho Adele và nói rằng, "họ giúp cho tôi có được như ngày hôm nay."<ref>{{chú thích web|last=Walker|first=Marie|title=Adele: I Love the Spice Girls!|url=http://www.nowmagazine.co.uk/celebrity-news/517690/adele-i-love-the-spice-girls/1/|work=Now Magazine|accessdate=ngày 6 tháng 3 năm 2011}}</ref> Adele cũng kể lại rằng cô thường đóng giả làm một trong các thành viên của Spice Girls ở các bữa tiệc tối khi còn nhỏ.<ref name=growingup>{{chú thích web|url=http://www.startribune.com/entertainment/music/37642734.html?elr=KArksD:aDyaEP:kD:aUg:oaEQDUiD3aPc:_Yyc:aUU|title=Chasing Adele |work=Minneapolis Star Tribune |accessdate=ngày 15 tháng 1 năm 2009}}</ref> Cô kể rằng mình đã rất "đau khổ" khi thành viên Spice Girl yêu thích của cô, [[Geri Halliwell]] hay "Ginger Spice," rời nhóm.<ref>[http://www.nowmagazine.co.uk/celebrity-news/280157/adele-geri-halliwell-broke-my-heart "Adele: Geri Halliwell broke my heart"]. Now Magazine. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2015</ref><ref>Matt Doeden (2013). "Adele: Soul Music’s Magical Voice." p. 32. Twenty-First Century Books</ref> Để làm cho Adele trông giống như ca sĩ R&B và urban đương đại người Anh [[Gabrielle (ca sĩ)|Gabrielle]] thời bấy giờ, mẹ cô đã làm cho cô một kiểu mắt lấp lánh sequin giống hệt như ca sĩ ấy mà theo Adele điều đó làm cô thấy xấu hổ.<ref>{{chú thích báo |url=http://www.telegraph.co.uk/culture/music/3672957/Adele-young-soul-rebel.html |title=Adele: young soul rebel |work=[[The Daily Telegraph]] |location=Luân Đôn |date=ngày 25 tháng 4 năm 2008 | first=Stuart | last=Husband | accessdate=ngày 23 tháng 4 năm 2010}}</ref>
Adele được sinh ra tại [[Tottenham]], phía bắc [[Luân Đôn]] vào ngày 5 tháng 5 năm 1988. Mẹ cô, bà Penny Adkins (sinh khoảng năm 1970) là người Anh, còn cha cô, Mark Evans, là một người [[Wales|xứ Wales]].<ref>{{chú thích báo|url=http://www.guardian.co.uk/music/2008/jan/27/popandrock.britawards2008|title=Mad about the girl |work=[[The Guardian]] |location=Luân Đôn |date=ngày 27 tháng 1 năm 2008 | accessdate=ngày 23 tháng 4 năm 2010 | first=Sylvia | last=Patterson|archiveurl=https://web.archive.org/web/20101120110927/http://www.guardian.co.uk/music/2008/jan/27/popandrock.britawards2008|archivedate=ngày 20 tháng 11 năm 2010|deadurl=no}}</ref> Evans rời bỏ gia đình khi Adele lên hai tuổi, để người vợ trẻ 20 tuổi tự thân nuôi Adele, và Adele đã nói rằng cô sẽ không bao giờ tha thứ cho ông.<ref>{{Chú thích web|last=Haines |first=Chris |url=http://www.walesonline.co.uk/news/wales-news/2012/02/18/adele-s-welsh-father-mark-evans-reveals-his-heartache-over-letting-down-six-time-grammy-awards-winner-91466-30356409/ |tiêu đề=Adele's Welsh father Mark Evans reveals his heartache over 'letting down' six-time Grammy Awards winner – Wales News – News |nhà xuất bản=WalesOnline |ngày= |ngày truy cập=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref><ref name=VanMeter>{{Chú thích web|last=Van |first=Jonathan |url=http://www.vogue.com/magazine/article/adele-one-and-only/ |tiêu đề=Adele: One and Only – Magazine |work=Vogue |ngày= |ngày truy cập=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref> Cô bắt đầu ca hát từ năm bốn tuổi và cô khẳng định mình lúc đó cô bị ám ảnh bởi những giọng ca.<ref>{{chú thích báo|url=http://www.baltimoresun.com/entertainment/bal-li.music15jan15002019,0,4031087.story|title=Grammy-nominated Adele taking fame in stride |work=The Baltimore Sun |date=ngày 15 tháng 1 năm 2009}}</ref><ref>{{chú thích báo | url=http://www.expressnightout.com/content/2009/01/singing_stronger_every_day_adele_stays_g.php | title=Singing Stronger Every Day: Adele | work=Express Night Out | date=ngày 15 tháng 1 năm 2009 | agency=Washington Post | accessdate=ngày 22 tháng 6 năm 2012 | author=Otiji, Adaora}}</ref> Lớn lên Adele giành nhiều thời gian để ca hát hơn là đọc sách, nói rằng cuốn sách cuối cùng cô đọc từ hồi sáu tuổi là ''[[Matilda (tiểu thuyết)|Matilda]]'' của [[Roald Dahl]].<ref name="Adele DM Interview">{{chú thích báo|title=Adele: 'I have all the say; I have power over everything I do'|url=http://www.dailymail.co.uk/home/you/article-1135182/Adele-I-say-I-power-I-do.html|work=[[Daily Mail]] |location=Luân Đôn|date=ngày 15 tháng 7 năm 2015}}</ref> Adele khẳng định nhóm nhạc [[Spice Girls]] là nguồn cảm hứng lớn cho Adele và nói rằng, "họ giúp cho tôi có được như ngày hôm nay."<ref>{{Chú thích web|last=Walker|first=Marie|tiêu đề=Adele: I Love the Spice Girls!|url=http://www.nowmagazine.co.uk/celebrity-news/517690/adele-i-love-the-spice-girls/1/|work=Now Magazine|ngày truy cập=ngày 6 tháng 3 năm 2011}}</ref> Adele cũng kể lại rằng cô thường đóng giả làm một trong các thành viên của Spice Girls ở các bữa tiệc tối khi còn nhỏ.<ref name=growingup>{{Chú thích web|url=http://www.startribune.com/entertainment/music/37642734.html?elr=KArksD:aDyaEP:kD:aUg:oaEQDUiD3aPc:_Yyc:aUU|tiêu đề=Chasing Adele |work=Minneapolis Star Tribune |ngày truy cập=ngày 15 tháng 1 năm 2009}}</ref> Cô kể rằng mình đã rất "đau khổ" khi thành viên Spice Girl yêu thích của cô, [[Geri Halliwell]] hay "Ginger Spice," rời nhóm.<ref>[http://www.nowmagazine.co.uk/celebrity-news/280157/adele-geri-halliwell-broke-my-heart "Adele: Geri Halliwell broke my heart"]. Now Magazine. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2015</ref><ref>Matt Doeden (2013). "Adele: Soul Music’s Magical Voice." p. 32. Twenty-First Century Books</ref> Để làm cho Adele trông giống như ca sĩ R&B và urban đương đại người Anh [[Gabrielle (ca sĩ)|Gabrielle]] thời bấy giờ, mẹ cô đã làm cho cô một kiểu mắt lấp lánh sequin giống hệt như ca sĩ ấy mà theo Adele điều đó làm cô thấy xấu hổ.<ref>{{chú thích báo |url=http://www.telegraph.co.uk/culture/music/3672957/Adele-young-soul-rebel.html |title=Adele: young soul rebel |work=[[The Daily Telegraph]] |location=Luân Đôn |date=ngày 25 tháng 4 năm 2008 | first=Stuart | last=Husband | accessdate=ngày 23 tháng 4 năm 2010}}</ref>


Năm 1997, Adele và mẹ cô, người vào thời điểm đó kiếm được một công việc thiết kế nội thất và tổ chức các hoạt động học tập của người lớn, chuyển tới [[Brighton]].<ref>{{chú thích báo|author=Sylvia Patterson |url=http://www.guardian.co.uk/music/2008/jan/27/popandrock.britawards2008 |title=Interview: Adele Atkins, singer |work=[[The Observer]] |location=Luân Đôn |accessdate=ngày 8 tháng 5 năm 2011 |date=ngày 27 tháng 1 năm 2008}}</ref> Hai năm sau, cô và mẹ mình quay về Luân Đôn; đầu tiên là đến [[Brixton]], sau đó là quận láng giềng [[West Norwood]], phía nam Luân Đôn.<ref>{{chú thích báo|url=http://entertainment.timesonline.co.uk/tol/arts_and_entertainment/music/article3099702.ece|title=Adele-ation starts here |work=The Times |location=Luân Đôn | first=Sophie|last=Heawood|date=ngày 28 tháng 12 năm 2007}}</ref> West Norwood là chủ đề cho bản thu âm đầu tiên của Adele mang tựa đề "[[Hometown Glory]]", được sáng tác khi cô mới 16 tuổi.<ref name=AmyWho>{{chú thích báo|url=http://www.washingtonpost.com/wp-dyn/content/story/2009/01/30/ST2009013003292.html|title=Amy Who? Now, Adele's the One With the Buzz | work=The Washington Post | first=Melinda | last=Newman | accessdate=ngày 23 tháng 4 năm 2010 | date=ngày 1 tháng 2 năm 2009}}</ref> Sau khi chuyển đến nam Luân Đôn, cô bắt đầu hâm mộ những nghệ sĩ [[R&B đương đại|R&B]] như [[Aaliyah]], [[Destiny's Child]] và [[Mary J. Blige]].<ref>{{chú thích web|url=http://www.bluesandsoul.com/feature/302/the_futures_looking_rosie_for_adele/ |title=ADELE: Up close and personal |publisher=Bluesandsoul.com |accessdate=ngày 18 tháng 8 năm 2011| archiveurl= http://web.archive.org/web/20110708074331/http://www.bluesandsoul.com/feature/302/the_futures_looking_rosie_for_adele/| archivedate=ngày 8 tháng 7 năm 2011| deadurl= no}}</ref>
Năm 1997, Adele và mẹ cô, người vào thời điểm đó kiếm được một công việc thiết kế nội thất và tổ chức các hoạt động học tập của người lớn, chuyển tới [[Brighton]].<ref>{{chú thích báo|author=Sylvia Patterson |url=http://www.guardian.co.uk/music/2008/jan/27/popandrock.britawards2008 |title=Interview: Adele Atkins, singer |work=[[The Observer]] |location=Luân Đôn |accessdate=ngày 8 tháng 5 năm 2011 |date=ngày 27 tháng 1 năm 2008}}</ref> Hai năm sau, cô và mẹ mình quay về Luân Đôn; đầu tiên là đến [[Brixton]], sau đó là quận láng giềng [[West Norwood]], phía nam Luân Đôn.<ref>{{chú thích báo|url=http://entertainment.timesonline.co.uk/tol/arts_and_entertainment/music/article3099702.ece|title=Adele-ation starts here |work=The Times |location=Luân Đôn | first=Sophie|last=Heawood|date=ngày 28 tháng 12 năm 2007}}</ref> West Norwood là chủ đề cho bản thu âm đầu tiên của Adele mang tựa đề "[[Hometown Glory]]", được sáng tác khi cô mới 16 tuổi.<ref name=AmyWho>{{chú thích báo|url=http://www.washingtonpost.com/wp-dyn/content/story/2009/01/30/ST2009013003292.html|title=Amy Who? Now, Adele's the One With the Buzz | work=The Washington Post | first=Melinda | last=Newman | accessdate=ngày 23 tháng 4 năm 2010 | date=ngày 1 tháng 2 năm 2009}}</ref> Sau khi chuyển đến nam Luân Đôn, cô bắt đầu hâm mộ những nghệ sĩ [[R&B đương đại|R&B]] như [[Aaliyah]], [[Destiny's Child]] và [[Mary J. Blige]].<ref>{{Chú thích web|url=http://www.bluesandsoul.com/feature/302/the_futures_looking_rosie_for_adele/ |tiêu đề=ADELE: Up close and personal |nhà xuất bản=Bluesandsoul.com |ngày truy cập=ngày 18 tháng 8 năm 2011| archiveurl= http://web.archive.org/web/20110708074331/http://www.bluesandsoul.com/feature/302/the_futures_looking_rosie_for_adele/| archivedate=ngày 8 tháng 7 năm 2011| deadurl= no}}</ref>


Adele cho biết một trong những khoảnh khắc quyết định cuộc đời cô là khi xem [[Pink (ca sĩ)|Pink]] biểu diễn tại [[Học viện Brixton]]. "Cô ấy hát bài ''[[Missundaztood]]'', lúc đó tôi chỉ khoảng 13 hay 14. Tôi chưa bao giờ nghe một ai, đặc biệt khi biểu diễn trong nhà, hát live hay như thế […] Tôi nhớ cảm giác như tôi đang ở trong một cái hầm thông gió, giọng ca của cô ấy như thúc giục tôi. Thật là tuyệt vời."<ref>{{chú thích web|url=http://www.spinner.com/2010/12/23/adele-defining-moments/ |title=Adele – Defining Moments |publisher=Spinner |date=ngày 23 tháng 12 năm 2010 |accessdate=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref><ref>{{chú thích web|url=http://socialitelife.com/adele-says-hearing-pink-sing-changed-her-life-12-2010 |title=Adele Says Hearing Pink Sing Changed Her Life |publisher=Socialite Life |date= |accessdate=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref>
Adele cho biết một trong những khoảnh khắc quyết định cuộc đời cô là khi xem [[Pink (ca sĩ)|Pink]] biểu diễn tại [[Học viện Brixton]]. "Cô ấy hát bài ''[[Missundaztood]]'', lúc đó tôi chỉ khoảng 13 hay 14. Tôi chưa bao giờ nghe một ai, đặc biệt khi biểu diễn trong nhà, hát live hay như thế […] Tôi nhớ cảm giác như tôi đang ở trong một cái hầm thông gió, giọng ca của cô ấy như thúc giục tôi. Thật là tuyệt vời."<ref>{{Chú thích web|url=http://www.spinner.com/2010/12/23/adele-defining-moments/ |tiêu đề=Adele – Defining Moments |nhà xuất bản=Spinner |ngày=ngày 23 tháng 12 năm 2010 |ngày truy cập=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://socialitelife.com/adele-says-hearing-pink-sing-changed-her-life-12-2010 |tiêu đề=Adele Says Hearing Pink Sing Changed Her Life |nhà xuất bản=Socialite Life |ngày= |ngày truy cập=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref>


Ở tuổi 14, Adele tình cờ biết đến [[Etta James]] và [[Ella Fitzgerald]] khi cô đi ngang qua dãy bán CD của các nghệ sĩ jazz tại một cửa hàng băng đĩa địa phương, và cô bị thu hút bởi hình ảnh của họ trên bìa đĩa nhạc.<ref name=AmyWho/> Adele nói cô "bắt đầu nghe Etta James mỗi đêm một tiếng đồng hồ", và dần dần cô tự "khám phá ra giọng của chính mình".<ref name=AmyWho/> Adele tốt nghiệp trường [[BRIT School|Biểu diễn nghệ thuật và Công nghệ BRIT]] tại Croydon vào tháng 5 năm 2006,<ref name=Soul>{{chú thích báo| first=Ian| last=Youngs| title=Soul singers top new talent list|publisher=BBC News | url=http://news.bbc.co.uk/1/hi/entertainment/7169307.stm| date=ngày 4 tháng 1 năm 2008 | accessdate=ngày 1 tháng 1 năm 2010}}</ref>, cũng là ngôi trường cô học chung với [[Leona Lewis]] và [[Jessie J]].<ref name=nicole/><ref name=collis>Collis, Clark (ngày 19 tháng 12 năm 2008), "Spotlight on... Adele". ''Entertainment Weekly''. (1026):62</ref> Adele tin rằng chính ngôi trường ấy đã nuôi dưỡng tài năng của mình<ref name="BlogCriticsInterview">{{chú thích web|url=http://blogcritics.org/archives/2008/07/16/084115.php |title=Interview: Adele—Singer and Songwriter—Blogcritics Music |publisher=Blogcritics.org |accessdate=ngày 18 tháng 8 năm 2011}}</ref> mặc dù vào thời điểm ấy, cô lại muốn học làm quản lý và phát hiện tài năng nghệ thuật, với mong muốn xây dựng sự nghiệp âm nhạc cho người khác.<ref name=nicole/>
Ở tuổi 14, Adele tình cờ biết đến [[Etta James]] và [[Ella Fitzgerald]] khi cô đi ngang qua dãy bán CD của các nghệ sĩ jazz tại một cửa hàng băng đĩa địa phương, và cô bị thu hút bởi hình ảnh của họ trên bìa đĩa nhạc.<ref name=AmyWho/> Adele nói cô "bắt đầu nghe Etta James mỗi đêm một tiếng đồng hồ", và dần dần cô tự "khám phá ra giọng của chính mình".<ref name=AmyWho/> Adele tốt nghiệp trường [[BRIT School|Biểu diễn nghệ thuật và Công nghệ BRIT]] tại Croydon vào tháng 5 năm 2006,<ref name=Soul>{{chú thích báo| first=Ian| last=Youngs| title=Soul singers top new talent list|publisher=BBC News | url=http://news.bbc.co.uk/1/hi/entertainment/7169307.stm| date=ngày 4 tháng 1 năm 2008 | accessdate=ngày 1 tháng 1 năm 2010}}</ref>, cũng là ngôi trường cô học chung với [[Leona Lewis]] và [[Jessie J]].<ref name=nicole/><ref name=collis>Collis, Clark (ngày 19 tháng 12 năm 2008), "Spotlight on... Adele". ''Entertainment Weekly''. (1026):62</ref> Adele tin rằng chính ngôi trường ấy đã nuôi dưỡng tài năng của mình<ref name="BlogCriticsInterview">{{Chú thích web|url=http://blogcritics.org/archives/2008/07/16/084115.php |tiêu đề=Interview: Adele—Singer and Songwriter—Blogcritics Music |nhà xuất bản=Blogcritics.org |ngày truy cập=ngày 18 tháng 8 năm 2011}}</ref> mặc dù vào thời điểm ấy, cô lại muốn học làm quản lý và phát hiện tài năng nghệ thuật, với mong muốn xây dựng sự nghiệp âm nhạc cho người khác.<ref name=nicole/>


==Sự nghiệp==
==Sự nghiệp==
Dòng 46: Dòng 46:
=== 2006–10: Những ngày đầu và album ''19'' ===
=== 2006–10: Những ngày đầu và album ''19'' ===
[[Tập tin:Adele.jpg|thumb|upright|Adele biểu diễn tại [[Kilburn, Luân Đôn]] vào năm 2007]]
[[Tập tin:Adele.jpg|thumb|upright|Adele biểu diễn tại [[Kilburn, Luân Đôn]] vào năm 2007]]
Bốn tháng sau khi tốt nghiệp, cô phát hành hai ca khúc trong kỳ báo thứ tư của trang web âm nhạc ''Platforms Magazine''.<ref>{{chú thích web|url=http://www.platformsmagazine.com/4/contents.htm |title=Platform 04 |publisher=Platformsmagazine.com |accessdate=ngày 18 tháng 8 năm 2011| archiveurl= http://web.archive.org/web/20110722121600/http://www.platformsmagazine.com/4/contents.htm| archivedate=ngày 22 tháng 7 năm 2011| deadurl= no}}</ref> Cô cũng thu âm một bản demo gồm 3 ca khúc cho một dự án ở lớp học và đưa cho một người bạn.<ref name=nicole/> Chính người bạn này đã đăng nó lên mạng xã hội Myspace, nơi đưa cô đến những thành công bước đầu, đặc biệt là một cuộc gọi từ Richard Russell, ông bầu của hãng thu âm XL Recordings. Cô tỏ ra nghi ngờ về lời đề nghị hấp dẫn này bởi vì công ty thu âm duy nhất cô biết đến là [[Virgin Records]], và cô quyết định dẫn theo người bạn đó cùng với mình đến buổi gặp mặt.<ref name=collis/>
Bốn tháng sau khi tốt nghiệp, cô phát hành hai ca khúc trong kỳ báo thứ tư của trang web âm nhạc ''Platforms Magazine''.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.platformsmagazine.com/4/contents.htm |tiêu đề=Platform 04 |nhà xuất bản=Platformsmagazine.com |ngày truy cập=ngày 18 tháng 8 năm 2011| archiveurl= http://web.archive.org/web/20110722121600/http://www.platformsmagazine.com/4/contents.htm| archivedate=ngày 22 tháng 7 năm 2011| deadurl= no}}</ref> Cô cũng thu âm một bản demo gồm 3 ca khúc cho một dự án ở lớp học và đưa cho một người bạn.<ref name=nicole/> Chính người bạn này đã đăng nó lên mạng xã hội Myspace, nơi đưa cô đến những thành công bước đầu, đặc biệt là một cuộc gọi từ Richard Russell, ông bầu của hãng thu âm XL Recordings. Cô tỏ ra nghi ngờ về lời đề nghị hấp dẫn này bởi vì công ty thu âm duy nhất cô biết đến là [[Virgin Records]], và cô quyết định dẫn theo người bạn đó cùng với mình đến buổi gặp mặt.<ref name=collis/>


Nick Huggett, người làm việc tại XL, giới thiệu người quản lý Jonathan Dickins tại công ty September Management cho Adele và vào tháng 6 năm 2006, Dickins trở thành người đại diện chính thức của cô.<ref name="hitquarters.com">{{chú thích web |url=http://www.hitquarters.com/index.php3?page=intrview/opar/intrview_Jonathan_Dickins_Interview.html |title=Interview with Jonathan Dickins |publisher=[[HitQuarters]]|date=ngày 14 tháng 7 năm 2008 |accessdate=ngày 18 tháng 2 năm 2011}}</ref> Công ty September cũng đang quản lý [[Jamie T]] vào thời điểm ấy và đã lấy được niềm tin của Adele, vì cô cũng là một fan hâm mộ đối với Jamie T. Huggett sau đó đã ký hợp đồng với Adele và hãng XL vào tháng 9 năm 2006.<ref name="hitquarters.com"/> Adele góp giọng cho [[Jack Peñate]] trong ca khúc, "My Yvonne", nằm trong album đầu tay của anh, và đây cũng là thời điểm cô gặp gỡ nhà sản xuất [[Jim Abbiss]], người đã nắm vai trò sản xuất phần lớn bài hát trong album đầu tay của cô - ''19'', và sau đó là album ''21''.<ref name=penate>{{chú thích báo|last=Jones |first=Damian |url=http://news.bbc.co.uk/2/hi/entertainment/7986334.stm |title=Peñate collaborates with Adele |publisher=BBC News |date=ngày 6 tháng 4 năm 2009 |accessdate=ngày 8 tháng 5 năm 2011}}</ref> Bài hát bước ngoặt của Adele, "Hometown Glory", được phát hành vào tháng 10 năm 2007.<ref name="hitquarters.com"/> Adele đã hỗ trợ [[Will Young]] trong buổi hòa nhạc [[MENCAP]] Little Noise Sessions vào năm 2007, nhằm mục đích từ thiện cho Liên Đoàn công giáo tại Islington, Luân Đôn.
Nick Huggett, người làm việc tại XL, giới thiệu người quản lý Jonathan Dickins tại công ty September Management cho Adele và vào tháng 6 năm 2006, Dickins trở thành người đại diện chính thức của cô.<ref name="hitquarters.com">{{Chú thích web |url=http://www.hitquarters.com/index.php3?page=intrview/opar/intrview_Jonathan_Dickins_Interview.html |tiêu đề=Interview with Jonathan Dickins |nhà xuất bản=[[HitQuarters]]|ngày=ngày 14 tháng 7 năm 2008 |ngày truy cập=ngày 18 tháng 2 năm 2011}}</ref> Công ty September cũng đang quản lý [[Jamie T]] vào thời điểm ấy và đã lấy được niềm tin của Adele, vì cô cũng là một fan hâm mộ đối với Jamie T. Huggett sau đó đã ký hợp đồng với Adele và hãng XL vào tháng 9 năm 2006.<ref name="hitquarters.com"/> Adele góp giọng cho [[Jack Peñate]] trong ca khúc, "My Yvonne", nằm trong album đầu tay của anh, và đây cũng là thời điểm cô gặp gỡ nhà sản xuất [[Jim Abbiss]], người đã nắm vai trò sản xuất phần lớn bài hát trong album đầu tay của cô - ''19'', và sau đó là album ''21''.<ref name=penate>{{chú thích báo|last=Jones |first=Damian |url=http://news.bbc.co.uk/2/hi/entertainment/7986334.stm |title=Peñate collaborates with Adele |publisher=BBC News |date=ngày 6 tháng 4 năm 2009 |accessdate=ngày 8 tháng 5 năm 2011}}</ref> Bài hát bước ngoặt của Adele, "Hometown Glory", được phát hành vào tháng 10 năm 2007.<ref name="hitquarters.com"/> Adele đã hỗ trợ [[Will Young]] trong buổi hòa nhạc [[MENCAP]] Little Noise Sessions vào năm 2007, nhằm mục đích từ thiện cho Liên Đoàn công giáo tại Islington, Luân Đôn.


Vào năm 2008, cô được hát chính và biểu diễn acoustic với sự góp sức của [[Damien Rice]].<ref>{{chú thích báo|url=http://news.bbc.co.uk/newsbeat/hi/music/newsid_7724000/7724590.stm|title=Q&A: Adele's charity acoustic set BBC Radio 1 | date=ngày 12 tháng 11 năm 2008 | accessdate=ngày 1 tháng 1 năm 2010 |publisher=BBC News }}</ref><ref>{{chú thích web|url=http://itn.co.uk/news/ea18cad798e196a3a8e02d93db6fca64.html|title=Adele hits the big time |publisher=ITN |date=ngày 12 tháng 11 năm 2008}}{{dead link|date=August 2011}}</ref> Cô trở thành người đầu tiên nhận giải "Critics' Choice" của lễ trao giải [[BRIT Awards|BRIT]] và được bầu chọn là nghệ sĩ được dự đoán sẽ đột phá nhất năm 2008 của Sound of 2008, một cuộc bầu chọn thường niên của giới phê bình âm nhạc trên [[BBC]].<ref>{{chú thích báo|last=Youngs |first=Ian |url=http://news.bbc.co.uk/1/hi/entertainment/7168252.stm |title=Entertainment &#124; Sound of 2008: Adele |publisher=BBC News |date=ngày 4 tháng 1 năm 2008 |accessdate=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref><ref>{{chú thích web|url=http://www.billboard.com/biz/articles/news/1315959/adele-wins-brits-critics-choice-award |title=Adele Wins Brits Critics Choice Award |publisher=Billboard.com |date=ngày 14 tháng 9 năm 2009 |accessdate=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref> ''[[19 (album của Adele)|19]]'', được đặt tên theo tuổi của Adele lúc cô viết các ca khúc trong album, xuất phát trên các bảng xếp hạng của Anh tại vị trí số 1. ''Bách khoa toàn thư Âm nhạc hiện đại'' của ''[[The Times]]'' gọi ''19'' là một bản ghi âm [[blue-eyed soul]] "căn bản".<ref name="BlueEyedSoul">{{chú thích báo|url=http://entertainment.timesonline.co.uk/tol/arts_and_entertainment/music/article5597699.ece|title=Blue-eyed soul: Encyclopedia of Modern Music The Times | location=Luân Đôn | date=ngày 1 tháng 2 năm 2009 | accessdate=ngày 23 tháng 4 năm 2010 | first=Dan | last=Cairns}}</ref> Cô phát hành đĩa đơn thứ hai của mình mang tên "[[Chasing Pavements]]" vào ngày 14 tháng 1 năm 2008, hai tuần sau khi ra album đầu tay. Đĩa đơn đạt vị trí thứ hai trên bảng xếp hạng [[UK Singles Chart]], và giữ nguyên vị trí này trong 4 tuần.<ref name="nme.com">{{chú thích báo| title=This Week's Releases: ngày 21 tháng 1 năm 2008|work=NME |location=UK | url=http://www.nme.com/news/lightspeed-champion/33736| date=ngày 21 tháng 1 năm 2008}}</ref>
Vào năm 2008, cô được hát chính và biểu diễn acoustic với sự góp sức của [[Damien Rice]].<ref>{{chú thích báo|url=http://news.bbc.co.uk/newsbeat/hi/music/newsid_7724000/7724590.stm|title=Q&A: Adele's charity acoustic set BBC Radio 1 | date=ngày 12 tháng 11 năm 2008 | accessdate=ngày 1 tháng 1 năm 2010 |publisher=BBC News }}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://itn.co.uk/news/ea18cad798e196a3a8e02d93db6fca64.html|tiêu đề=Adele hits the big time |nhà xuất bản=ITN |ngày=ngày 12 tháng 11 năm 2008}}{{dead link|date=August 2011}}</ref> Cô trở thành người đầu tiên nhận giải "Critics' Choice" của lễ trao giải [[BRIT Awards|BRIT]] và được bầu chọn là nghệ sĩ được dự đoán sẽ đột phá nhất năm 2008 của Sound of 2008, một cuộc bầu chọn thường niên của giới phê bình âm nhạc trên [[BBC]].<ref>{{chú thích báo|last=Youngs |first=Ian |url=http://news.bbc.co.uk/1/hi/entertainment/7168252.stm |title=Entertainment &#124; Sound of 2008: Adele |publisher=BBC News |date=ngày 4 tháng 1 năm 2008 |accessdate=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/biz/articles/news/1315959/adele-wins-brits-critics-choice-award |tiêu đề=Adele Wins Brits Critics Choice Award |nhà xuất bản=Billboard.com |ngày=ngày 14 tháng 9 năm 2009 |ngày truy cập=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref> ''[[19 (album của Adele)|19]]'', được đặt tên theo tuổi của Adele lúc cô viết các ca khúc trong album, xuất phát trên các bảng xếp hạng của Anh tại vị trí số 1. ''Bách khoa toàn thư Âm nhạc hiện đại'' của ''[[The Times]]'' gọi ''19'' là một bản ghi âm [[blue-eyed soul]] "căn bản".<ref name="BlueEyedSoul">{{chú thích báo|url=http://entertainment.timesonline.co.uk/tol/arts_and_entertainment/music/article5597699.ece|title=Blue-eyed soul: Encyclopedia of Modern Music The Times | location=Luân Đôn | date=ngày 1 tháng 2 năm 2009 | accessdate=ngày 23 tháng 4 năm 2010 | first=Dan | last=Cairns}}</ref> Cô phát hành đĩa đơn thứ hai của mình mang tên "[[Chasing Pavements]]" vào ngày 14 tháng 1 năm 2008, hai tuần sau khi ra album đầu tay. Đĩa đơn đạt vị trí thứ hai trên bảng xếp hạng [[UK Singles Chart]], và giữ nguyên vị trí này trong 4 tuần.<ref name="nme.com">{{chú thích báo| title=This Week's Releases: ngày 21 tháng 1 năm 2008|work=NME |location=UK | url=http://www.nme.com/news/lightspeed-champion/33736| date=ngày 21 tháng 1 năm 2008}}</ref>
Adele được đề cử giải [[Mercury Prize]] năm 2008 cho album ''19''.<ref>{{chú thích web|author=Jade Wright |url=http://www.liverpoolecho.co.uk/views/liverpool-columnists/echo-columnists/2008/07/23/puppets-tipped-for-music-prize-100252-21388721/ |title=Views & Blogs—Columnists—Echo columnists—Last Shadow Puppets tipped for Nationwide Mercury music prize |publisher=Liverpool Echo |date=ngày 23 tháng 7 năm 2008 |accessdate=ngày 18 tháng 8 năm 2011}}</ref> Cô cũng thắng một giải tại [[Urban Music Awards]] cho "Trình diễn Jazz hay nhất".<ref>{{chú thích web | url=http://urbanmusicawards.net/2011/07/a-6/ | title=Winners for 6th Annual Urban Music Awards 2008 Announced | publisher=Urban Music Awards | date=ngày 16 tháng 11 năm 2008 | accessdate=ngày 22 tháng 6 năm 2012}}</ref> Cô đồng thời nhận một đề cử [[Q Awards]] trong hạng mục "Nghệ sĩ Đột phá"<ref>{{chú thích web|url=http://www.walesonline.co.uk/news/wales-news/2008/09/03/duffy-nominated-for-q-awards-double-91466-21662021|title=Duffy nominated for Q awards double Wales Online |date=ngày 3 tháng 9 năm 2008}}</ref> và đề cử Music of Black Origin trong hạng mục Nữ ca sĩ Anh Quốc xuất sắc nhất.<ref>{{chú thích web|url=http://www.gigwise.com/news/45979/estelle-and-leona-lewis-lead-2008-mobo-nominations |title=Estelle And Leona Lewis Lead 2008 Mobo Nominations |publisher=Gigwise |date=ngày 11 tháng 9 năm 2008 |accessdate=ngày 18 tháng 8 năm 2011}}</ref> Vào tháng 3 năm 2008, Adele ký hợp đồng với hãng [[Columbia Records]] và XL Recordings nhằm tấn công vào thị trường Mỹ.<ref name="Columbia">{{chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/news/1046129/adele-inks-us-deal-with-columbia |title=Adele Inks U.S. Deal With Columbia |work=Billboard |accessdate=ngày 18 tháng 8 năm 2011}}</ref> Cô cũng bắt đầu một chuyến lưu diễn ngắn ngày tại Bắc Mỹ trong tháng này,<ref name="Columbia"/> còn album ''19'' được phát hành tại Mỹ vào tháng 6.<ref name="BlogCriticsInterview" /> Tạp chí ''Billboard'' nhận xét: "Adele thật sự có tiềm năng trở thành một trong những nghệ sĩ quốc tế đáng trân trọng và truyền cảm hứng nhất trong thế hệ của cô."<ref name="Billboard2008">{{chú thích sách|url=http://books.google.com/books?id=_hIEAAAAMBAJ&pg=PA50&lpg=PA50&dq=Billboard.+10+May+2008+-+Adele+truly+has+potential+to+become+among+the+most+respected+and+inspiring+international+artists+of+her+generation&source=bl&ots=TrNJpIPPfd&sig=CaiTFt73BurvflvISR8JHF8aDDc&hl=en&sa=X&ei=c29yT7nkKcTc8gOA8NF0&ved=0CCgQ6AEwAQ#v=onepage&q&f=false |title=Billboard – Google Books |publisher=Books.google.com |date=ngày 7 tháng 6 năm 2008 |accessdate=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref> Chuyến lưu diễn toàn cầu [[An Evening with Adele]] bắt đầu từ tháng năm 2008 và kết thúc vào tháng 6 năm sau.
Adele được đề cử giải [[Mercury Prize]] năm 2008 cho album ''19''.<ref>{{Chú thích web|author=Jade Wright |url=http://www.liverpoolecho.co.uk/views/liverpool-columnists/echo-columnists/2008/07/23/puppets-tipped-for-music-prize-100252-21388721/ |tiêu đề=Views & Blogs—Columnists—Echo columnists—Last Shadow Puppets tipped for Nationwide Mercury music prize |nhà xuất bản=Liverpool Echo |ngày=ngày 23 tháng 7 năm 2008 |ngày truy cập=ngày 18 tháng 8 năm 2011}}</ref> Cô cũng thắng một giải tại [[Urban Music Awards]] cho "Trình diễn Jazz hay nhất".<ref>{{Chú thích web | url=http://urbanmusicawards.net/2011/07/a-6/ | tiêu đề=Winners for 6th Annual Urban Music Awards 2008 Announced | nhà xuất bản=Urban Music Awards | ngày=ngày 16 tháng 11 năm 2008 | ngày truy cập=ngày 22 tháng 6 năm 2012}}</ref> Cô đồng thời nhận một đề cử [[Q Awards]] trong hạng mục "Nghệ sĩ Đột phá"<ref>{{Chú thích web|url=http://www.walesonline.co.uk/news/wales-news/2008/09/03/duffy-nominated-for-q-awards-double-91466-21662021|tiêu đề=Duffy nominated for Q awards double Wales Online |ngày=ngày 3 tháng 9 năm 2008}}</ref> và đề cử Music of Black Origin trong hạng mục Nữ ca sĩ Anh Quốc xuất sắc nhất.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.gigwise.com/news/45979/estelle-and-leona-lewis-lead-2008-mobo-nominations |tiêu đề=Estelle And Leona Lewis Lead 2008 Mobo Nominations |nhà xuất bản=Gigwise |ngày=ngày 11 tháng 9 năm 2008 |ngày truy cập=ngày 18 tháng 8 năm 2011}}</ref> Vào tháng 3 năm 2008, Adele ký hợp đồng với hãng [[Columbia Records]] và XL Recordings nhằm tấn công vào thị trường Mỹ.<ref name="Columbia">{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/news/1046129/adele-inks-us-deal-with-columbia |tiêu đề=Adele Inks U.S. Deal With Columbia |work=Billboard |ngày truy cập=ngày 18 tháng 8 năm 2011}}</ref> Cô cũng bắt đầu một chuyến lưu diễn ngắn ngày tại Bắc Mỹ trong tháng này,<ref name="Columbia"/> còn album ''19'' được phát hành tại Mỹ vào tháng 6.<ref name="BlogCriticsInterview" /> Tạp chí ''Billboard'' nhận xét: "Adele thật sự có tiềm năng trở thành một trong những nghệ sĩ quốc tế đáng trân trọng và truyền cảm hứng nhất trong thế hệ của cô."<ref name="Billboard2008">{{chú thích sách|url=http://books.google.com/books?id=_hIEAAAAMBAJ&pg=PA50&lpg=PA50&dq=Billboard.+10+May+2008+-+Adele+truly+has+potential+to+become+among+the+most+respected+and+inspiring+international+artists+of+her+generation&source=bl&ots=TrNJpIPPfd&sig=CaiTFt73BurvflvISR8JHF8aDDc&hl=en&sa=X&ei=c29yT7nkKcTc8gOA8NF0&ved=0CCgQ6AEwAQ#v=onepage&q&f=false |title=Billboard – Google Books |publisher=Books.google.com |date=ngày 7 tháng 6 năm 2008 |accessdate=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref> Chuyến lưu diễn toàn cầu [[An Evening with Adele]] bắt đầu từ tháng năm 2008 và kết thúc vào tháng 6 năm sau.


[[Tập tin:Adele 2009.jpg|thumb|left|200px|Adele biểu diễn trên sân khấu năm 2009]]
[[Tập tin:Adele 2009.jpg|thumb|left|200px|Adele biểu diễn trên sân khấu năm 2009]]
Cô sau đó hủy chuyến lưu diễn Mỹ năm 2008 để được ở cạnh bạn trai cũ. Cô nói với tạp chí ''[[Nylon (tạp chí)|Nylon]]'' vào tháng 6 năm 2009, "Tôi thấy là, 'Tôi không thể tin là mình lại làm vậy.' Có vẻ nó hơi vô tâm… Tôi đã uống hơi nhiều, và đó cũng là chuyện căn bản trong mối quan hệ giữa tôi và anh ta. Tôi không thể sống xa anh ấy, và tôi nghĩ, 'Thôi, OK, mình chỉ việc hủy mọi việc lại thôi'." Vào giữa tháng 10 năm 2008, có vẻ như nỗ lực của Adele tấn công vào thị trường Hoa Kỳ gần như thất bại.<ref name=MELISSARUGGIER>{{chú thích web|url=http://www.inrich.com/cva/ric/entertainment.apx.-content-articles-RTD-ngày 23 tháng 10 năm 2008-0002.html|title=The Richmond Times Dispatch | date=ngày 23 tháng 10 năm 2008}}{{dead link|date=August 2011}}</ref><ref>{{chú thích báo|url=http://www.boston.com/ae/celebrity/articles/2009/01/12/19_going_on_superstar/|title='19' going on superstar | work=The Boston Globe | first=James | last=Reed | date=ngày 12 tháng 1 năm 2009}}</ref> Sau đó, cô hát với tư cách khách mời vào ngày 18 tháng 10 năm 2008 trong một tập của chương trình ''[[Saturday Night Live]]'' của đài [[NBC]]. Chương trình còn có sự xuất hiện của ứng viên phó tổng thống Mỹ [[Sarah Palin]] và tập này nhận được tỉ lệ xem cao nhất trong 14 năm với 17 triệu lượt xem. Adele đã biểu diễn 2 ca khúc "Chasing Pavements" và "[[Cold Shoulder (bài hát)|Cold Shoulder]]",<ref>{{chú thích báo|url=http://tv.nytimes.com/episode/4924446/Saturday-Night-Live/overview|title=Saturday Night Live Season 34 Josh Brolin/Adele |work=The New York Times |accessdate=ngày 8 tháng 5 năm 2011}}</ref> và ngày hôm sau, album ''19'' đứng đầu bảng xếp hạng trên iTunes và xếp hạng 5 trên Amazon.com, trong khi đó bài hát "Chasing Pavements" leo lên đến hạng 25.<ref>{{chú thích web|url=http://www.newsday.com/entertainment/music/backstage-pass-1.811987/adele-enjoys-an-snl-bump-1.832659|title=Adele enjoys an "SNL" bump |work=Newsday |date=ngày 20 tháng 10 năm 2008}}</ref> Album đạt vị trí 11 trên [[Billboard 200]] tiếp theo đó, một bước nhảy đến 35 bậc so với tuần trước..<ref>{{chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/news/1043648/acdc-debuts-at-no-1-with-784000|title=AC/DC Debuts At No. 1 With 784,000 |work=Billboard |date=ngày 29 tháng 10 năm 2008}}</ref>
Cô sau đó hủy chuyến lưu diễn Mỹ năm 2008 để được ở cạnh bạn trai cũ. Cô nói với tạp chí ''[[Nylon (tạp chí)|Nylon]]'' vào tháng 6 năm 2009, "Tôi thấy là, 'Tôi không thể tin là mình lại làm vậy.' Có vẻ nó hơi vô tâm… Tôi đã uống hơi nhiều, và đó cũng là chuyện căn bản trong mối quan hệ giữa tôi và anh ta. Tôi không thể sống xa anh ấy, và tôi nghĩ, 'Thôi, OK, mình chỉ việc hủy mọi việc lại thôi'." Vào giữa tháng 10 năm 2008, có vẻ như nỗ lực của Adele tấn công vào thị trường Hoa Kỳ gần như thất bại.<ref name=MELISSARUGGIER>{{Chú thích web|url=http://www.inrich.com/cva/ric/entertainment.apx.-content-articles-RTD-ngày 23 tháng 10 năm 2008-0002.html|tiêu đề=The Richmond Times Dispatch | ngày=ngày 23 tháng 10 năm 2008}}{{dead link|date=August 2011}}</ref><ref>{{chú thích báo|url=http://www.boston.com/ae/celebrity/articles/2009/01/12/19_going_on_superstar/|title='19' going on superstar | work=The Boston Globe | first=James | last=Reed | date=ngày 12 tháng 1 năm 2009}}</ref> Sau đó, cô hát với tư cách khách mời vào ngày 18 tháng 10 năm 2008 trong một tập của chương trình ''[[Saturday Night Live]]'' của đài [[NBC]]. Chương trình còn có sự xuất hiện của ứng viên phó tổng thống Mỹ [[Sarah Palin]] và tập này nhận được tỉ lệ xem cao nhất trong 14 năm với 17 triệu lượt xem. Adele đã biểu diễn 2 ca khúc "Chasing Pavements" và "[[Cold Shoulder (bài hát)|Cold Shoulder]]",<ref>{{chú thích báo|url=http://tv.nytimes.com/episode/4924446/Saturday-Night-Live/overview|title=Saturday Night Live Season 34 Josh Brolin/Adele |work=The New York Times |accessdate=ngày 8 tháng 5 năm 2011}}</ref> và ngày hôm sau, album ''19'' đứng đầu bảng xếp hạng trên iTunes và xếp hạng 5 trên Amazon.com, trong khi đó bài hát "Chasing Pavements" leo lên đến hạng 25.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.newsday.com/entertainment/music/backstage-pass-1.811987/adele-enjoys-an-snl-bump-1.832659|tiêu đề=Adele enjoys an "SNL" bump |work=Newsday |ngày=ngày 20 tháng 10 năm 2008}}</ref> Album đạt vị trí 11 trên [[Billboard 200]] tiếp theo đó, một bước nhảy đến 35 bậc so với tuần trước..<ref>{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/news/1043648/acdc-debuts-at-no-1-with-784000|tiêu đề=AC/DC Debuts At No. 1 With 784,000 |work=Billboard |ngày=ngày 29 tháng 10 năm 2008}}</ref>


Tháng 11 năm 2008, Adele chuyển đến [[Notting Hill]] sau khi rời nhà mẹ mình, một bước chuyển biến giúp cô dần từ bỏ rượu bia.<ref name=Cancel2008>{{chú thích web|url=http://www.contactmusic.com/news.nsf/article/adele-explains-2008-booze-love-meltdown_1105845 |title=Adele Explains Booze & Love Meltdown |date=ngày 8 tháng 6 năm 2009 |publisher=Contactmusic |accessdate=ngày 8 tháng 5 năm 2011}}</ref> Album được chứng nhận vàng vào tháng 2 năm 2009 bởi [[Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ]].<ref>{{chú thích web|url=http://www.riaa.com/newsitem.php?news_month_filter=&news_year_filter=&resultpage=&id=DDB9AF12-8F76-11DE-4FF2-E1988D17AA66 |title=Perry's Platinum Pucker |date=ngày 23 tháng 3 năm 2009 |publisher=RIAA |accessdate=ngày 8 tháng 5 năm 2011}}</ref> Đến tháng 7 năm 2009, album đã được bán 2,2 triệu bản trên toàn thế giới.<ref>{{chú thích web | url=http://www.digitalspy.com/music/a166444/adele-puts-career-on-hold-for-dog.html |title=Adele 'puts career on hold for dog |publisher=Digital Spy |date=ngày 21 tháng 7 năm 2009 |accessdate=ngày 8 tháng 5 năm 2011}}</ref>
Tháng 11 năm 2008, Adele chuyển đến [[Notting Hill]] sau khi rời nhà mẹ mình, một bước chuyển biến giúp cô dần từ bỏ rượu bia.<ref name=Cancel2008>{{Chú thích web|url=http://www.contactmusic.com/news.nsf/article/adele-explains-2008-booze-love-meltdown_1105845 |tiêu đề=Adele Explains Booze & Love Meltdown |ngày=ngày 8 tháng 6 năm 2009 |nhà xuất bản=Contactmusic |ngày truy cập=ngày 8 tháng 5 năm 2011}}</ref> Album được chứng nhận vàng vào tháng 2 năm 2009 bởi [[Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ]].<ref>{{Chú thích web|url=http://www.riaa.com/newsitem.php?news_month_filter=&news_year_filter=&resultpage=&id=DDB9AF12-8F76-11DE-4FF2-E1988D17AA66 |tiêu đề=Perry's Platinum Pucker |ngày=ngày 23 tháng 3 năm 2009 |nhà xuất bản=RIAA |ngày truy cập=ngày 8 tháng 5 năm 2011}}</ref> Đến tháng 7 năm 2009, album đã được bán 2,2 triệu bản trên toàn thế giới.<ref>{{Chú thích web | url=http://www.digitalspy.com/music/a166444/adele-puts-career-on-hold-for-dog.html |tiêu đề=Adele 'puts career on hold for dog |nhà xuất bản=Digital Spy |ngày=ngày 21 tháng 7 năm 2009 |ngày truy cập=ngày 8 tháng 5 năm 2011}}</ref>


Vào năm 2010, Adele nhận được một đề cử Grammy cho [[Giải Grammy Giọng nữ Pop xuất sắc nhất|Giọng nữ Pop xuất sắc nhất]] với ca khúc "Hometown Glory".<ref>{{cite press_release | url=http://www.cbspressexpress.com/cbs-radio/releases/print?id=27520 | title=TWO-TIME GRAMMY AWARD WINNER ADELE TO PERFORM ON CBS INTERACTIVE MUSIC GROUP'S "LIVE ON LETTERMAN" WEBCAST SERIES | publisher=CBS | accessdate=ngày 22 tháng 6 năm 2012}}</ref> Vào tháng 4, bài hát "[[My Same]]" của cô lọt vào bảng xếp hạng đĩa đơn của Đức sau khi được [[Lena Meyer-Landrut]] biểu diễn trong một chương trình tìm kiếm tài năng ''[[Unser Star für Oslo]]'' (''Our Star for Oslo''), chương trình để Đức chọn người cho cuộc thi [[Eurovision Song Contest]] [[Eurovision Song Contest 2010|2010]].<ref>{{chú thích web|url=http://esctoday.com/news/read/14983|title=Live: First heat in Germany|last=Klier|first=Marcus|date=ngày 2 tháng 2 năm 2010|work=ESCToday|accessdate=ngày 22 tháng 2 năm 2011}}</ref><ref>{{de icon}}{{chú thích web|url=http://musicline.de/de/chartverfolgung_summary/title/Adele/My+Same/single |title=Musicline.de – Chartverfolgung – Adele – My Same|date=ngày 21 tháng 2 năm 2010|publisher=[[Media Control Charts]]|accessdate=ngày 22 tháng 2 năm 2011}}</ref>
Vào năm 2010, Adele nhận được một đề cử Grammy cho [[Giải Grammy Giọng nữ Pop xuất sắc nhất|Giọng nữ Pop xuất sắc nhất]] với ca khúc "Hometown Glory".<ref>{{cite press_release | url=http://www.cbspressexpress.com/cbs-radio/releases/print?id=27520 | title=TWO-TIME GRAMMY AWARD WINNER ADELE TO PERFORM ON CBS INTERACTIVE MUSIC GROUP'S "LIVE ON LETTERMAN" WEBCAST SERIES | publisher=CBS | accessdate=ngày 22 tháng 6 năm 2012}}</ref> Vào tháng 4, bài hát "[[My Same]]" của cô lọt vào bảng xếp hạng đĩa đơn của Đức sau khi được [[Lena Meyer-Landrut]] biểu diễn trong một chương trình tìm kiếm tài năng ''[[Unser Star für Oslo]]'' (''Our Star for Oslo''), chương trình để Đức chọn người cho cuộc thi [[Eurovision Song Contest]] [[Eurovision Song Contest 2010|2010]].<ref>{{Chú thích web|url=http://esctoday.com/news/read/14983|tiêu đề=Live: First heat in Germany|last=Klier|first=Marcus|ngày=ngày 2 tháng 2 năm 2010|work=ESCToday|ngày truy cập=ngày 22 tháng 2 năm 2011}}</ref><ref>{{de icon}}{{Chú thích web|url=http://musicline.de/de/chartverfolgung_summary/title/Adele/My+Same/single |tiêu đề=Musicline.de – Chartverfolgung – Adele – My Same|ngày=ngày 21 tháng 2 năm 2010|nhà xuất bản=[[Media Control Charts]]|ngày truy cập=ngày 22 tháng 2 năm 2011}}</ref>
Vào cuối tháng 9, sau khi biểu diễn trên ''[[The X Factor (chương trình truyền hình Anh)|The X Factor]]'', phiên bản "[[Make You Feel My Love#Phiên bản của Adele|Make You Feel My Love]]" của Adele (bản gốc của [[Bob Dylan]]) tiếp tục lọt vào bảng xếp hạng đĩa đơn của Anh ở vị trí số 4.<ref>{{chú thích web|url=http://www.nme.com/news/oasis/53223 |title=Oasis, Radiohead and Adele set for chart re-entries thanks to 'The X Factor'? |work=NME |location=UK |date=ngày 29 tháng 9 năm 2010 |accessdate=ngày 8 tháng 5 năm 2011}}</ref> Trong chương trình đặc biệt vào năm 2010 của ''[[Country Music Television|CMT Artists of the Year]]'', Adele biểu diễn song ca bài hát "[[Need You Now (bài hát)|Need You Now]]" của [[Lady Antebellum]] cùng [[Darius Rucker]].<ref>{{chú thích web|url=http://kncifm.radio.com/2011/01/16/darius-rucker-and-adele-cover-lady-antebellums-need-you-now/ |title=Adele and Darius Rucker perform Need You Now on CMT Artists of the Year |publisher=Kncifm.radio.com |date=ngày 16 tháng 1 năm 2011 |accessdate=ngày 18 tháng 8 năm 2011}}</ref> Màn trình diễn này sau đó được đề cử tại [[CMT Music Awards]].<ref>{{cite journal|url=http://www.cmt.com/news/country-music/1662725/2011-cmt-music-awards-nominees-revealed.jhtml|title=2011 CMT Music Awards Nominees Revealed|year=2011|accessdate=ngày 7 tháng 5 năm 2011|publisher=[[Country Music Television]]}}</ref>
Vào cuối tháng 9, sau khi biểu diễn trên ''[[The X Factor (chương trình truyền hình Anh)|The X Factor]]'', phiên bản "[[Make You Feel My Love#Phiên bản của Adele|Make You Feel My Love]]" của Adele (bản gốc của [[Bob Dylan]]) tiếp tục lọt vào bảng xếp hạng đĩa đơn của Anh ở vị trí số 4.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.nme.com/news/oasis/53223 |tiêu đề=Oasis, Radiohead and Adele set for chart re-entries thanks to 'The X Factor'? |work=NME |location=UK |ngày=ngày 29 tháng 9 năm 2010 |ngày truy cập=ngày 8 tháng 5 năm 2011}}</ref> Trong chương trình đặc biệt vào năm 2010 của ''[[Country Music Television|CMT Artists of the Year]]'', Adele biểu diễn song ca bài hát "[[Need You Now (bài hát)|Need You Now]]" của [[Lady Antebellum]] cùng [[Darius Rucker]].<ref>{{Chú thích web|url=http://kncifm.radio.com/2011/01/16/darius-rucker-and-adele-cover-lady-antebellums-need-you-now/ |tiêu đề=Adele and Darius Rucker perform Need You Now on CMT Artists of the Year |nhà xuất bản=Kncifm.radio.com |ngày=ngày 16 tháng 1 năm 2011 |ngày truy cập=ngày 18 tháng 8 năm 2011}}</ref> Màn trình diễn này sau đó được đề cử tại [[CMT Music Awards]].<ref>{{cite journal|url=http://www.cmt.com/news/country-music/1662725/2011-cmt-music-awards-nominees-revealed.jhtml|title=2011 CMT Music Awards Nominees Revealed|year=2011|accessdate=ngày 7 tháng 5 năm 2011|publisher=[[Country Music Television]]}}</ref>


=== 2011–13: ''21'' và danh tiếng trên toàn thế giới ===
=== 2011–13: ''21'' và danh tiếng trên toàn thế giới ===
[[Tập tin:Adele - Seattle, WA - 8.12.2011.crop.jpg|thumb|right|180px|Adele biểu diễn tại [[Seattle]], Washington vào ngày 12 thắng năm 2011]]
[[Tập tin:Adele - Seattle, WA - 8.12.2011.crop.jpg|thumb|right|180px|Adele biểu diễn tại [[Seattle]], Washington vào ngày 12 thắng năm 2011]]


Adele phát hành album phòng thu thứ hai, ''[[21 (album của Adele)|21]],'' vào ngày 24 tháng 1 năm 2011 tại Anh và vào ngày 22 tháng 2 tại Hoa Kỳ.<ref name=billboard21>{{chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/news/952006/adele-to-release-21-sophomore-album-in-february|title=Adele to Release '21' Sophomore Album in February |work=Billboard |date=ngày 2 tháng 11 năm 2010 |accessdate=ngày 8 tháng 5 năm 2011}}</ref><ref name="SecondAlbum">{{chú thích web|url=http://www.digitalspy.co.uk/music/news/a285526/adele-announces-second-album-details.html|title=Adele announces second album details|last=Levine|first=Nick|date=ngày 2 tháng 11 năm 2010|publisher=[[Digital Spy]]|accessdate=ngày 2 tháng 11 năm 2010| archiveurl= https://web.archive.org/web/20101105024406/http://www.digitalspy.co.uk/music/news/a285526/adele-announces-second-album-details.html| archivedate=ngày 5 tháng 11 năm 2010 | deadurl= no}}</ref> Adele tiết lộ rằng album lấy cảm hứng từ cuộc tình đã lỡ với người bạn trai cũ.<ref name=VanMeter/> Âm điệu của album được miêu tả là [[nhạc đồng quê]] cổ điển và đương đại cùng folk. Sự thay đổi này so với album đầu tiên đến từ lần Adele tình cờ nghe thấy người lái xe buýt bật nhạc đương đại từ [[Nashville]] khi đang lưu diễn tại miền Nam nước Mỹ. Tên của album cũng chỉ ra sự chuyển mình mà cô trải qua đã diễn ra hai năm trước khi album phát hành.<ref name="SecondAlbum"/> Adele nói trên tạp chí ''[[Spin (tạp chí)|Spin]]:'' "Tôi thấy điều đó thật thú vị vì tôi chưa bao giờ lớn lên cùng [thứ âm nhạc ấy]."<ref name="Spin21"/> ''21'' đạt vị trí số một tại 26 quốc gia, trong đó có Anh và Hoa Kỳ.<ref name="Independent2012">{{chú thích báo|author=Nick Clark |url=http://www.independent.co.uk/arts-entertainment/music/news/adele-surges-past-the-dark-side-of-the-moon-on-inexorable-voyage-to-stardom-7578154.html |title=Adele surges past The Dark Side of the Moon on inexorable voyage to stardom |work=[[The Independent]] |date=ngày 20 tháng 3 năm 2012 |accessdate=ngày 29 tháng 6 năm 2012 |location=Luân Đôn}}</ref><ref>{{chú thích web|url=http://www.chartstats.com/release.php?release=49903 |title=ChartArchive – Adele – 21 |publisher=Chartstats.com |date=ngày 25 tháng 6 năm 2012 |accessdate=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref><ref>{{chú thích web|last=Kaufman |first=Gil |url=http://www.mtv.com/news/articles/1660010/lupe-fiasco-lasers-billboard.jhtml |title=Lupe Fiasco's Lasers Blasts To Top Of Billboard 200 |publisher=MTV |date=ngày 16 tháng 3 năm 2011 |accessdate=ngày 8 tháng 5 năm 2011| archiveurl= https://web.archive.org/web/20110514012938/http://www.mtv.com/news/articles/1660010/lupe-fiasco-lasers-billboard.jhtml| archivedate=ngày 14 tháng 5 năm 2011 | deadurl= no}}</ref>
Adele phát hành album phòng thu thứ hai, ''[[21 (album của Adele)|21]],'' vào ngày 24 tháng 1 năm 2011 tại Anh và vào ngày 22 tháng 2 tại Hoa Kỳ.<ref name=billboard21>{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/news/952006/adele-to-release-21-sophomore-album-in-february|tiêu đề=Adele to Release '21' Sophomore Album in February |work=Billboard |ngày=ngày 2 tháng 11 năm 2010 |ngày truy cập=ngày 8 tháng 5 năm 2011}}</ref><ref name="SecondAlbum">{{Chú thích web|url=http://www.digitalspy.co.uk/music/news/a285526/adele-announces-second-album-details.html|tiêu đề=Adele announces second album details|last=Levine|first=Nick|ngày=ngày 2 tháng 11 năm 2010|nhà xuất bản=[[Digital Spy]]|ngày truy cập=ngày 2 tháng 11 năm 2010| archiveurl= https://web.archive.org/web/20101105024406/http://www.digitalspy.co.uk/music/news/a285526/adele-announces-second-album-details.html| archivedate=ngày 5 tháng 11 năm 2010 | deadurl= no}}</ref> Adele tiết lộ rằng album lấy cảm hứng từ cuộc tình đã lỡ với người bạn trai cũ.<ref name=VanMeter/> Âm điệu của album được miêu tả là [[nhạc đồng quê]] cổ điển và đương đại cùng folk. Sự thay đổi này so với album đầu tiên đến từ lần Adele tình cờ nghe thấy người lái xe buýt bật nhạc đương đại từ [[Nashville]] khi đang lưu diễn tại miền Nam nước Mỹ. Tên của album cũng chỉ ra sự chuyển mình mà cô trải qua đã diễn ra hai năm trước khi album phát hành.<ref name="SecondAlbum"/> Adele nói trên tạp chí ''[[Spin (tạp chí)|Spin]]:'' "Tôi thấy điều đó thật thú vị vì tôi chưa bao giờ lớn lên cùng [thứ âm nhạc ấy]."<ref name="Spin21"/> ''21'' đạt vị trí số một tại 26 quốc gia, trong đó có Anh và Hoa Kỳ.<ref name="Independent2012">{{chú thích báo|author=Nick Clark |url=http://www.independent.co.uk/arts-entertainment/music/news/adele-surges-past-the-dark-side-of-the-moon-on-inexorable-voyage-to-stardom-7578154.html |title=Adele surges past The Dark Side of the Moon on inexorable voyage to stardom |work=[[The Independent]] |date=ngày 20 tháng 3 năm 2012 |accessdate=ngày 29 tháng 6 năm 2012 |location=Luân Đôn}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://www.chartstats.com/release.php?release=49903 |tiêu đề=ChartArchive – Adele – 21 |nhà xuất bản=Chartstats.com |ngày=ngày 25 tháng 6 năm 2012 |ngày truy cập=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref><ref>{{Chú thích web|last=Kaufman |first=Gil |url=http://www.mtv.com/news/articles/1660010/lupe-fiasco-lasers-billboard.jhtml |tiêu đề=Lupe Fiasco's Lasers Blasts To Top Of Billboard 200 |nhà xuất bản=MTV |ngày=ngày 16 tháng 3 năm 2011 |ngày truy cập=ngày 8 tháng 5 năm 2011| archiveurl= https://web.archive.org/web/20110514012938/http://www.mtv.com/news/articles/1660010/lupe-fiasco-lasers-billboard.jhtml| archivedate=ngày 14 tháng 5 năm 2011 | deadurl= no}}</ref>


Màn trình diễn đầy cảm xúc bài hát "[[Someone Like You (bài hát của Adele)|Someone Like You]]" tại [[BRIT Awards 2011]] vào ngày 15 tháng 2 năm 2011 góp phần đưa bài hát vươn lên vị trí số một tại Vương quốc Anh.<ref>{{chú thích web|url=http://www.mtv.co.uk/news/adele/259080-adele-number-1-single-album-someone-like-you-brits |title=Adele's 'Someone Like You' Tops UK Singles Chart &#124; Adele &#124; News &#124; MTV UK |publisher=Mtv.co.uk |date=ngày 21 tháng 2 năm 2011 |accessdate=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref> Album đầu tay ''19'' trở lại trên [[UK Albums Chart]] cùng ''21'' trong khi hai đĩa đơn "[[Rolling in the Deep]]" và "Someone Like You" có mặt trong top 5 [[UK Singles Chart]], đưa Adele trở thành nghệ sĩ còn sống đầu tiên có hai bản thu trong top năm Official Singles Chart và Official Albums Chart cùng một lúc kể từ thời của [[The Beatles]] năm 1964.<ref>{{chú thích báo|author=Sean Michaels |url=http://www.guardian.co.uk/music/2011/feb/22/adele-matches-beatles-chart-success |title=Adele matches the Beatles in latest chart success |work=[[The Guardian]] |location=Luân Đôn |date=22 February
Màn trình diễn đầy cảm xúc bài hát "[[Someone Like You (bài hát của Adele)|Someone Like You]]" tại [[BRIT Awards 2011]] vào ngày 15 tháng 2 năm 2011 góp phần đưa bài hát vươn lên vị trí số một tại Vương quốc Anh.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.mtv.co.uk/news/adele/259080-adele-number-1-single-album-someone-like-you-brits |tiêu đề=Adele's 'Someone Like You' Tops UK Singles Chart &#124; Adele &#124; News &#124; MTV UK |nhà xuất bản=Mtv.co.uk |ngày=ngày 21 tháng 2 năm 2011 |ngày truy cập=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref> Album đầu tay ''19'' trở lại trên [[UK Albums Chart]] cùng ''21'' trong khi hai đĩa đơn "[[Rolling in the Deep]]" và "Someone Like You" có mặt trong top 5 [[UK Singles Chart]], đưa Adele trở thành nghệ sĩ còn sống đầu tiên có hai bản thu trong top năm Official Singles Chart và Official Albums Chart cùng một lúc kể từ thời của [[The Beatles]] năm 1964.<ref>{{chú thích báo|author=Sean Michaels |url=http://www.guardian.co.uk/music/2011/feb/22/adele-matches-beatles-chart-success |title=Adele matches the Beatles in latest chart success |work=[[The Guardian]] |location=Luân Đôn |date=22 February
2011 |accessdate=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref> Cả hai bài hát đều dẫn đầu tại nhiều thị trường và phá vỡ nhiều kỉ lục về doanh thu. Sau màn biểu diễn "Someone Like You" tại [[Giải Video âm nhạc của MTV|MTV Video Music Awards]] [[Giải Video âm nhạc của MTV 2011|2011]], bài hát trở thành đĩa đơn quán quân thứ hai của Adele trên [[Billboard Hot 100|''Billboard'' Hot 100]].<ref>{{chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/news/467566/adeles-someone-like-you-soars-to-no-1-on-hot-100 |title=Adele's 'Someone Like You' Soars To No. 1 On Hot 100 |work=Billboard |date=ngày 14 tháng 9 năm 2009 |accessdate=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref> Cho tới tháng 12 năm 2011, ''21'' đã bán ra 3,4 triệu bản tại Anh Quốc, trở thành album bán chạy nhất thế kỷ XXI, vượt qua ''[[Back to Black]]'' của [[Amy Winehouse]],<ref name=Jones>{{chú thích web|last=Jones|first=Alan|title=Official Album Chart analysis: Olly Murs becomes 10th X-Factor No.1|url=http://www.musicweek.com/story.asp?sectioncode=1&storycode=1047728&c=1|work=[[Music Week]]|accessdate=ngày 4 tháng 12 năm 2011|date=ngày 4 tháng 12 năm 2011}}</ref><ref>{{chú thích web|title=Adele's album is century's biggest|url=http://music.uk.msn.com/news/adeles-album-is-centurys-biggest|work=[[MSN#MSN.com|MSN.co.uk]]|accessdate=ngày 5 tháng 12 năm 2011|date=ngày 5 tháng 12 năm 2011}}</ref> còn Adele trở thành nghệ sĩ đầu tiên bán được ba triệu album tại Anh Quốc trong một năm.<ref>{{chú thích web|last=Smirke |first=Richard |url=http://www.billboard.biz/bbbiz/record-labels/adele-makes-u-k-chart-history-first-artist-1005340982.story |title=Adele Makes U.K. Chart History: First Artist To Sell 3 Million Albums In Same Year |publisher=Billboard.biz |date=ngày 7 tháng 9 năm 2011 |accessdate=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref><ref>{{chú thích web | date =ngày 7 tháng 9 năm 2011 | url=http://www.officialcharts.com/press/adele-breaks-official-charts-history-with-3-million-album-sales/ | title = 07/09/2011 – Adele breaks Official Charts history with 3 million album sales | publisher = Official Charts Company | accessdate =ngày 22 tháng 6 năm 2012}}</ref> "[[Set Fire to the Rain]]" trở thành đĩa đơn quán quân thứ ba của Adele trên bảng xếp hạng ''Billboard'' Hot 100, giúp Adele trở thành nghệ sĩ đầu tiên có album vừa giữ vị trí quán quân trên ''Billboard'' 200 cùng lúc với ba đĩa đơn quán quân.<ref name="CapitalFM">{{chú thích web|url=http://www.capitalfm.com/artists/adele/news/billboard-history/ |title=Adele Makes Billboard History After 'Set Fire To The Rain' Tops US Chart |publisher=Capital FM |date=ngày 27 tháng 1 năm 2012 |accessdate=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref>
2011 |accessdate=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref> Cả hai bài hát đều dẫn đầu tại nhiều thị trường và phá vỡ nhiều kỉ lục về doanh thu. Sau màn biểu diễn "Someone Like You" tại [[Giải Video âm nhạc của MTV|MTV Video Music Awards]] [[Giải Video âm nhạc của MTV 2011|2011]], bài hát trở thành đĩa đơn quán quân thứ hai của Adele trên [[Billboard Hot 100|''Billboard'' Hot 100]].<ref>{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/news/467566/adeles-someone-like-you-soars-to-no-1-on-hot-100 |tiêu đề=Adele's 'Someone Like You' Soars To No. 1 On Hot 100 |work=Billboard |ngày=ngày 14 tháng 9 năm 2009 |ngày truy cập=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref> Cho tới tháng 12 năm 2011, ''21'' đã bán ra 3,4 triệu bản tại Anh Quốc, trở thành album bán chạy nhất thế kỷ XXI, vượt qua ''[[Back to Black]]'' của [[Amy Winehouse]],<ref name=Jones>{{Chú thích web|last=Jones|first=Alan|tiêu đề=Official Album Chart analysis: Olly Murs becomes 10th X-Factor No.1|url=http://www.musicweek.com/story.asp?sectioncode=1&storycode=1047728&c=1|work=[[Music Week]]|ngày truy cập=ngày 4 tháng 12 năm 2011|ngày=ngày 4 tháng 12 năm 2011}}</ref><ref>{{Chú thích web|tiêu đề=Adele's album is century's biggest|url=http://music.uk.msn.com/news/adeles-album-is-centurys-biggest|work=[[MSN#MSN.com|MSN.co.uk]]|ngày truy cập=ngày 5 tháng 12 năm 2011|ngày=ngày 5 tháng 12 năm 2011}}</ref> còn Adele trở thành nghệ sĩ đầu tiên bán được ba triệu album tại Anh Quốc trong một năm.<ref>{{Chú thích web|last=Smirke |first=Richard |url=http://www.billboard.biz/bbbiz/record-labels/adele-makes-u-k-chart-history-first-artist-1005340982.story |tiêu đề=Adele Makes U.K. Chart History: First Artist To Sell 3 Million Albums In Same Year |nhà xuất bản=Billboard.biz |ngày=ngày 7 tháng 9 năm 2011 |ngày truy cập=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref><ref>{{Chú thích web | ngày =ngày 7 tháng 9 năm 2011 | url=http://www.officialcharts.com/press/adele-breaks-official-charts-history-with-3-million-album-sales/ | tiêu đề = 07/09/2011 – Adele breaks Official Charts history with 3 million album sales | nhà xuất bản = Official Charts Company | ngày truy cập =ngày 22 tháng 6 năm 2012}}</ref> "[[Set Fire to the Rain]]" trở thành đĩa đơn quán quân thứ ba của Adele trên bảng xếp hạng ''Billboard'' Hot 100, giúp Adele trở thành nghệ sĩ đầu tiên có album vừa giữ vị trí quán quân trên ''Billboard'' 200 cùng lúc với ba đĩa đơn quán quân.<ref name="CapitalFM">{{Chú thích web|url=http://www.capitalfm.com/artists/adele/news/billboard-history/ |tiêu đề=Adele Makes Billboard History After 'Set Fire To The Rain' Tops US Chart |nhà xuất bản=Capital FM |ngày=ngày 27 tháng 1 năm 2012 |ngày truy cập=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref>


Để quảng bá album, Adele khởi động chuyến lưu diễn "[[Adele Live]]" với đợt diễn tại Bắc Mỹ cháy vé hoàn toàn.<ref>{{chú thích web |url=http://www.allheadlinenews.com/articles/7020819787?Adele%20Announces%20European%20Tour%20In%20Support%20Of%20%2221%22 |title=Adele Announces European Tour In Support Of "21"|author=Jones, Anthony |date=ngày 15 tháng 12 năm 2010 |work=[[All Headline News]] |accessdate=ngày 8 tháng 2 năm 2011}}</ref> Vào tháng 10 năm 2011, Adele buộc phải hủy hai chuyến lưu diễn vì lý do xuất huyết dây thanh quản. Cô thông báo rằng mình cần phải nghỉ ngơi một thời gian dài để tránh tổn thương dài hạn tới giọng hát của cô.<ref>{{chú thích web|author=Benjy Eisen |url=http://www.rollingstone.com/music/news/adele-cancels-u-s-tour-due-to-illness-20111004 |title=Adele Cancels U.S. Tour Due to Illness |work=[[Rolling Stone]] |date=ngày 4 tháng 10 năm 2011 |accessdate=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref> Trong tuần đầu tiên của tháng 11 năm 2011, [[Steven M. Zeitels]], giám đốc Trung tâm Phẫu thuật Thanh quản và Phục hồi giọng nói của [[Bệnh viện Tổng hợp Massachusetts]], [[Boston]] đã thực hiện ca phẫu thuật hiển vi laser cắt bỏ một khối u lành khỏi dây thanh quản của Adele.<ref>{{Citation | last = Colapinto | first = John | title = Giving Voice: A Surgeon Pioneers Methods to Help Singers Sing Again | journal = The New Yorker | volume = | pages = 48 to 57 |date = ngày 4 tháng 3 năm 2013 | url =http://www.newyorker.com}}</ref><ref>{{chú thích web|url=http://www.capitalfm.com/artists/adele/news/throat-operation-was-success/ |title=Adele: 'Throat Operation Was a Success' |publisher=Capital FM |date=ngày 14 tháng 11 năm 2011 |accessdate=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref><ref>{{chú thích web|url=http://boston.cbslocal.com/2011/11/07/mgh-adele-to-make-full-recovery-after-vocal-surgery/ |title=MGH: Adele To Make Full Recovery After Vocal Surgery « CBS Boston |publisher=Boston.cbslocal.com |date=ngày 7 tháng 11 năm 2011 |accessdate=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref>
Để quảng bá album, Adele khởi động chuyến lưu diễn "[[Adele Live]]" với đợt diễn tại Bắc Mỹ cháy vé hoàn toàn.<ref>{{Chú thích web |url=http://www.allheadlinenews.com/articles/7020819787?Adele%20Announces%20European%20Tour%20In%20Support%20Of%20%2221%22 |tiêu đề=Adele Announces European Tour In Support Of "21"|author=Jones, Anthony |ngày=ngày 15 tháng 12 năm 2010 |work=[[All Headline News]] |ngày truy cập=ngày 8 tháng 2 năm 2011}}</ref> Vào tháng 10 năm 2011, Adele buộc phải hủy hai chuyến lưu diễn vì lý do xuất huyết dây thanh quản. Cô thông báo rằng mình cần phải nghỉ ngơi một thời gian dài để tránh tổn thương dài hạn tới giọng hát của cô.<ref>{{Chú thích web|author=Benjy Eisen |url=http://www.rollingstone.com/music/news/adele-cancels-u-s-tour-due-to-illness-20111004 |tiêu đề=Adele Cancels U.S. Tour Due to Illness |work=[[Rolling Stone]] |ngày=ngày 4 tháng 10 năm 2011 |ngày truy cập=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref> Trong tuần đầu tiên của tháng 11 năm 2011, [[Steven M. Zeitels]], giám đốc Trung tâm Phẫu thuật Thanh quản và Phục hồi giọng nói của [[Bệnh viện Tổng hợp Massachusetts]], [[Boston]] đã thực hiện ca phẫu thuật hiển vi laser cắt bỏ một khối u lành khỏi dây thanh quản của Adele.<ref>{{Citation | last = Colapinto | first = John | title = Giving Voice: A Surgeon Pioneers Methods to Help Singers Sing Again | journal = The New Yorker | volume = | pages = 48 to 57 |date = ngày 4 tháng 3 năm 2013 | url =http://www.newyorker.com}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://www.capitalfm.com/artists/adele/news/throat-operation-was-success/ |tiêu đề=Adele: 'Throat Operation Was a Success' |nhà xuất bản=Capital FM |ngày=ngày 14 tháng 11 năm 2011 |ngày truy cập=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://boston.cbslocal.com/2011/11/07/mgh-adele-to-make-full-recovery-after-vocal-surgery/ |tiêu đề=MGH: Adele To Make Full Recovery After Vocal Surgery « CBS Boston |nhà xuất bản=Boston.cbslocal.com |ngày=ngày 7 tháng 11 năm 2011 |ngày truy cập=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref>


Một bản thu cho chuyến lưu diễn của cô mang tên ''[[Live at the Royal Albert Hall (video của Adele)|Live at the Royal Albert Hall]]'' được phát hành vào tháng 11 năm 2011, ra mắt ở Hoa Kỳ tại vị trí số một với 96.000 bản được tiêu thụ. Đây là lượng doanh thu cao nhất cho một [[DVD]] trong vòng bốn năm trở lại đây, và trở thành DVD âm nhạc bán chạy nhất năm 2011.<ref>{{chú thích web|author=|url=http://abcnewsradioonline.com/music-news/2011/12/8/adeles-new-dvd-live-at-the-royal-albert-hall-is-best-selling.html |title=Adele's New DVD "Live at the Royal Albert Hall" Is Best-Selling Music Video of 2011 – Music News – ABC News Radio |publisher=Abcnewsradioonline.com |date=ngày 8 tháng 12 năm 2011 |accessdate=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref> Adele là nghệ sĩ đầu tiên trong lịch sử [[Nielsen SoundScan]] có album quán quân của năm (''[[21 (album của Adele)|21]]''), đĩa đơn quán quân của năm ("[[Rolling in the Deep]]") và video âm nhạc số một của năm.<ref name=yahoomusic>{{chú thích web| url=http://music.yahoo.com/blogs/chart-watch/week-ending-dec-4-2011-albums-headed-triple-164834637.html|title= Week Ending Dec. 4, 2011. Albums: Headed for a Triple Crown|publisher=[[Yahoo! Music]]}}</ref> Tại [[Giải thưởng Âm nhạc Mỹ|American Music Awards]] [[Giải thưởng Âm nhạc Mỹ 2011|2011]] vào ngày 20 tháng 11, Adele chiến thắng ba giải bao gồm Nghệ sĩ Nữ Pop/Rock Yêu thích, Nghệ sĩ Adult Contemporary Yêu thích, và Album Pop/Rock Yêu thích cho ''21.''<ref name="AMA">{{chú thích báo|url=http://www.bbc.co.uk/news/entertainment-arts-15815917 |title=Adele and Taylor Swift rule at American Music Awards |publisher=[[BBC]] |date=ngày 21 tháng 11 năm 2011 |accessdate=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref> Vào ngày 9 tháng 12, ''Billboard'' chọn Adele là Nghệ sĩ của năm, Album ''Billboard'' 200 của năm (''21'') và Bài hát ''Billboard'' Hot 100 của năm ("Rolling in the Deep"), trở thành người phụ nữ đầu tiên đứng đầu cả ba hạng mục.<ref name="KCaulfield">{{chú thích web|author=Keith Caulfield |url=http://www.billboard.com/articles/news/42119/the-year-in-pop-adele-makes-history |title=The Year in Pop: Adele Makes History |work=Billboard |date=ngày 9 tháng 12 năm 2011 |accessdate=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref><ref>{{chú thích báo|last=Sinha |first=Piya |url=http://www.reuters.com/article/2011/12/10/us-adele-billboard-idUSTRE7B81T320111210 |title=Adele makes Billboard history, named 2011 top artist |publisher=[[Reuters]] |date= ngày 10 tháng 12 năm 2011|accessdate=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref>
Một bản thu cho chuyến lưu diễn của cô mang tên ''[[Live at the Royal Albert Hall (video của Adele)|Live at the Royal Albert Hall]]'' được phát hành vào tháng 11 năm 2011, ra mắt ở Hoa Kỳ tại vị trí số một với 96.000 bản được tiêu thụ. Đây là lượng doanh thu cao nhất cho một [[DVD]] trong vòng bốn năm trở lại đây, và trở thành DVD âm nhạc bán chạy nhất năm 2011.<ref>{{Chú thích web|author=|url=http://abcnewsradioonline.com/music-news/2011/12/8/adeles-new-dvd-live-at-the-royal-albert-hall-is-best-selling.html |tiêu đề=Adele's New DVD "Live at the Royal Albert Hall" Is Best-Selling Music Video of 2011 – Music News – ABC News Radio |nhà xuất bản=Abcnewsradioonline.com |ngày=ngày 8 tháng 12 năm 2011 |ngày truy cập=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref> Adele là nghệ sĩ đầu tiên trong lịch sử [[Nielsen SoundScan]] có album quán quân của năm (''[[21 (album của Adele)|21]]''), đĩa đơn quán quân của năm ("[[Rolling in the Deep]]") và video âm nhạc số một của năm.<ref name=yahoomusic>{{Chú thích web| url=http://music.yahoo.com/blogs/chart-watch/week-ending-dec-4-2011-albums-headed-triple-164834637.html|tiêu đề= Week Ending Dec. 4, 2011. Albums: Headed for a Triple Crown|nhà xuất bản=[[Yahoo! Music]]}}</ref> Tại [[Giải thưởng Âm nhạc Mỹ|American Music Awards]] [[Giải thưởng Âm nhạc Mỹ 2011|2011]] vào ngày 20 tháng 11, Adele chiến thắng ba giải bao gồm Nghệ sĩ Nữ Pop/Rock Yêu thích, Nghệ sĩ Adult Contemporary Yêu thích, và Album Pop/Rock Yêu thích cho ''21.''<ref name="AMA">{{chú thích báo|url=http://www.bbc.co.uk/news/entertainment-arts-15815917 |title=Adele and Taylor Swift rule at American Music Awards |publisher=[[BBC]] |date=ngày 21 tháng 11 năm 2011 |accessdate=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref> Vào ngày 9 tháng 12, ''Billboard'' chọn Adele là Nghệ sĩ của năm, Album ''Billboard'' 200 của năm (''21'') và Bài hát ''Billboard'' Hot 100 của năm ("Rolling in the Deep"), trở thành người phụ nữ đầu tiên đứng đầu cả ba hạng mục.<ref name="KCaulfield">{{Chú thích web|author=Keith Caulfield |url=http://www.billboard.com/articles/news/42119/the-year-in-pop-adele-makes-history |tiêu đề=The Year in Pop: Adele Makes History |work=Billboard |ngày=ngày 9 tháng 12 năm 2011 |ngày truy cập=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref><ref>{{chú thích báo|last=Sinha |first=Piya |url=http://www.reuters.com/article/2011/12/10/us-adele-billboard-idUSTRE7B81T320111210 |title=Adele makes Billboard history, named 2011 top artist |publisher=[[Reuters]] |date= ngày 10 tháng 12 năm 2011|accessdate=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref>


Sau cuộc phẫu thuật thanh quản, Adele trở lại trên sân khấu vào tháng 2 năm 2012 tại [[Giải Grammy lần thứ 54]].<ref>{{chú thích web|url=http://www.bbc.co.uk/newsbeat/16809108 |title=Adele to make comeback at Grammys after throat surgery |work=[[Newsbeat]] |publisher=BBC |date=ngày 31 tháng 1 năm 2012 |accessdate=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref> Cô giành chiến thắng ở cả sáu hạng mục được đề cử, trở thành nghệ sĩ nữ thứ hai trong lịch sử giải Grammy sau [[Beyoncé]] giành chiến thắng lớn đến vậy trong một đêm.<ref>{{chú thích báo|title=Grammy Awards 2012: Adele wins six awards tying with Beyoncé for most trophies won in one night|url=http://www.telegraph.co.uk/culture/music/music-news/9078334/Grammy-Awards-2012-Adele-wins-six-awards-tying-with-Beyonce-for-most-trophies-won-in-one-night.html|work=[[The Daily Telegraph]] |accessdate=ngày 13 tháng 2 năm 2012|date=ngày 13 tháng 2 năm 2012|location=Luân Đôn}}</ref> Sau thành công này, ''21'' đạt lượng tăng doanh số bán ra hàng tuần cao nhất sau chiến thắng tại giải Grammy kể từ khi Nielsen SoundScan bắt đầu lưu trữ dữ liệu vào năm 1991.<ref>{{chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/news/504474/adeles-21-earns-biggest-sales-gain-in-soundscan-history |title=Adele's '21' Earns Biggest Sales Gain In SoundScan History |work=Billboard |date=ngày 14 tháng 9 năm 2009 |accessdate=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref><ref name="PostGrammyRecord">{{chú thích web|last=Kaufman |first=Gil |url=http://www.mtv.com/news/articles/1679672/adele-breaks-record-sales-grammy.jhtml |title=Adele Breaks Record By Selling 730,000 After Grammys – Music, Celebrity, Artist News |publisher=MTV.com |date=ngày 22 tháng 2 năm 2012 |accessdate=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref>
Sau cuộc phẫu thuật thanh quản, Adele trở lại trên sân khấu vào tháng 2 năm 2012 tại [[Giải Grammy lần thứ 54]].<ref>{{Chú thích web|url=http://www.bbc.co.uk/newsbeat/16809108 |tiêu đề=Adele to make comeback at Grammys after throat surgery |work=[[Newsbeat]] |nhà xuất bản=BBC |ngày=ngày 31 tháng 1 năm 2012 |ngày truy cập=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref> Cô giành chiến thắng ở cả sáu hạng mục được đề cử, trở thành nghệ sĩ nữ thứ hai trong lịch sử giải Grammy sau [[Beyoncé]] giành chiến thắng lớn đến vậy trong một đêm.<ref>{{chú thích báo|title=Grammy Awards 2012: Adele wins six awards tying with Beyoncé for most trophies won in one night|url=http://www.telegraph.co.uk/culture/music/music-news/9078334/Grammy-Awards-2012-Adele-wins-six-awards-tying-with-Beyonce-for-most-trophies-won-in-one-night.html|work=[[The Daily Telegraph]] |accessdate=ngày 13 tháng 2 năm 2012|date=ngày 13 tháng 2 năm 2012|location=Luân Đôn}}</ref> Sau thành công này, ''21'' đạt lượng tăng doanh số bán ra hàng tuần cao nhất sau chiến thắng tại giải Grammy kể từ khi Nielsen SoundScan bắt đầu lưu trữ dữ liệu vào năm 1991.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/news/504474/adeles-21-earns-biggest-sales-gain-in-soundscan-history |tiêu đề=Adele's '21' Earns Biggest Sales Gain In SoundScan History |work=Billboard |ngày=ngày 14 tháng 9 năm 2009 |ngày truy cập=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref><ref name="PostGrammyRecord">{{Chú thích web|last=Kaufman |first=Gil |url=http://www.mtv.com/news/articles/1679672/adele-breaks-record-sales-grammy.jhtml |tiêu đề=Adele Breaks Record By Selling 730,000 After Grammys – Music, Celebrity, Artist News |nhà xuất bản=MTV.com |ngày=ngày 22 tháng 2 năm 2012 |ngày truy cập=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref>


Adele nhận [[Giải Brit]] cho hạng mục Nghệ sĩ Solo Nữ Anh Xuất sắc nhất và Album Anh của năm được trao bởi [[George Michael]].<ref>{{chú thích báo|url=http://www.bbc.co.uk/news/entertainment-arts-16533246 |title=Brit Awards 2012: List of winners |publisher=[[BBC]] |date=ngày 21 tháng 2 năm 2012 |accessdate=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref><ref>{{chú thích web|author=Matthew Perpetua |url=http://www.rollingstone.com/music/news/adele-coldplay-lead-brit-award-nominations-20120112 |title=Adele, Coldplay Lead BRIT Award Nominations &#124; Music News |work=[[Rolling Stone]] |date=ngày 12 tháng 1 năm 2012 |accessdate=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref> Sau Giải Brit, ''21'' lần thứ 21 không lien tiếp đạt vị trí thứ nhất tại Anh Quốc.<ref name="PostBrits">{{chú thích web|url=http://www.theofficialcharts.com/chart-news/adele-overtakes-michael-jackson-in-all-time-biggest-selling-albums-chart907/ |title=Adele overtakes Michael Jackson in all-time biggest selling albums cha |publisher=Theofficialcharts.com |date=ngày 28 tháng 2 năm 2012 |accessdate=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref> Album đã bán ra trên 4,5 triệu bản tại Anh và là album bán chạy thứ bốn mọi thời đại.<ref>{{chú thích web|url=http://www.officialcharts.com/chart-news/adele-overtakes-oasis-to-become-the-fourth-biggest-selling-album-of-all-time-1778/|title=Adele overtakes Oasis to become the fourth biggest selling album of all-time|date=ngày 29 tháng 12 năm 2012 |accessdate=ngày 30 tháng 12 năm 2012}}</ref> Vào tháng 11 album vượt qua cột mốc 10 triệu bản tại Hoa Kỳ.<ref name=billboarddiamond/><ref name=riaadiamond>{{chú thích báo|url=http://www.riaa.com/newsitem.php?content_selector=newsandviews&news_month_filter=11&news_year_filter=2012&id=EFB7CD0F-C057-0494-A4D0-90A5A385816E|title=RIAA – Adele Earns RIAA Diamond for "21"|date=ngày 28 tháng 11 năm 2012|accessdate=ngày 28 tháng 11 năm 2012}}</ref><ref>{{chú thích web|last=Gein |first=Paul |url=http://music.yahoo.com/blogs/chart-watch/chart-watch-extra-adele-tops-10-million-120255136.html#more-3511 |title=Chart Watch Extra: Adele Tops 10 Million| publisher=[[Yahoo! Music]] |date=ngày 28 tháng 11 năm 2012 |accessdate=ngày 29 tháng 11 năm 2012}}</ref> Adele là nghệ sĩ duy nhất trong mười năm nhận được chứng nhận kim cương từ Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ cho một album một đĩa trong khoảng thời gian chưa tới hai năm kể từ khi phát hành album đó.<ref name=riaadiamond/>
Adele nhận [[Giải Brit]] cho hạng mục Nghệ sĩ Solo Nữ Anh Xuất sắc nhất và Album Anh của năm được trao bởi [[George Michael]].<ref>{{chú thích báo|url=http://www.bbc.co.uk/news/entertainment-arts-16533246 |title=Brit Awards 2012: List of winners |publisher=[[BBC]] |date=ngày 21 tháng 2 năm 2012 |accessdate=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref><ref>{{Chú thích web|author=Matthew Perpetua |url=http://www.rollingstone.com/music/news/adele-coldplay-lead-brit-award-nominations-20120112 |tiêu đề=Adele, Coldplay Lead BRIT Award Nominations &#124; Music News |work=[[Rolling Stone]] |ngày=ngày 12 tháng 1 năm 2012 |ngày truy cập=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref> Sau Giải Brit, ''21'' lần thứ 21 không lien tiếp đạt vị trí thứ nhất tại Anh Quốc.<ref name="PostBrits">{{Chú thích web|url=http://www.theofficialcharts.com/chart-news/adele-overtakes-michael-jackson-in-all-time-biggest-selling-albums-chart907/ |tiêu đề=Adele overtakes Michael Jackson in all-time biggest selling albums cha |nhà xuất bản=Theofficialcharts.com |ngày=ngày 28 tháng 2 năm 2012 |ngày truy cập=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref> Album đã bán ra trên 4,5 triệu bản tại Anh và là album bán chạy thứ bốn mọi thời đại.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.officialcharts.com/chart-news/adele-overtakes-oasis-to-become-the-fourth-biggest-selling-album-of-all-time-1778/|tiêu đề=Adele overtakes Oasis to become the fourth biggest selling album of all-time|ngày=ngày 29 tháng 12 năm 2012 |ngày truy cập=ngày 30 tháng 12 năm 2012}}</ref> Vào tháng 11 album vượt qua cột mốc 10 triệu bản tại Hoa Kỳ.<ref name=billboarddiamond/><ref name=riaadiamond>{{chú thích báo|url=http://www.riaa.com/newsitem.php?content_selector=newsandviews&news_month_filter=11&news_year_filter=2012&id=EFB7CD0F-C057-0494-A4D0-90A5A385816E|title=RIAA – Adele Earns RIAA Diamond for "21"|date=ngày 28 tháng 11 năm 2012|accessdate=ngày 28 tháng 11 năm 2012}}</ref><ref>{{Chú thích web|last=Gein |first=Paul |url=http://music.yahoo.com/blogs/chart-watch/chart-watch-extra-adele-tops-10-million-120255136.html#more-3511 |tiêu đề=Chart Watch Extra: Adele Tops 10 Million| nhà xuất bản=[[Yahoo! Music]] |ngày=ngày 28 tháng 11 năm 2012 |ngày truy cập=ngày 29 tháng 11 năm 2012}}</ref> Adele là nghệ sĩ duy nhất trong mười năm nhận được chứng nhận kim cương từ Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ cho một album một đĩa trong khoảng thời gian chưa tới hai năm kể từ khi phát hành album đó.<ref name=riaadiamond/>


Vào tháng 10 năm 2012, Adele xác nhận rằng cô đang viết lời, sáng tác nhạc và thu âm bài hát chủ đề của ''[[Tử địa Skyfall|Skyfall]]'', bộ phim thứ hai mươi ba về [[James Bond]].<ref>"[http://www.bbc.co.uk/newsbeat/19785659 Adele confirms Skyfall Bond theme song]" BBC Newsbeat, retrieved ngày 1 tháng 10 năm 2012</ref><ref>"[http://www.itv.com/news/ngày 1 tháng 10 năm 2012/adele-to-sing-theme-to-new-james-bond-film-skyfall/ Adele to sing theme to new James Bond film Skyfall]". ITV.com. Truy cập 1 tháng 10 năm 2012</ref> Bài hát "[[Skyfall (bài hát)|Skyfall]]" được sáng tác cùng nhà sản xuất [[Paul Epworth]], thu âm tại [[Abbey Road Studios]] và được phối nhạc giao hưởng bởi [[J. A. C. Redford]].<ref>{{chú thích web|url=http://www.007.com/skyfall-official-theme-song-news/|title=SKYFALL OFFICIAL THEME SONG NEWS RELEASE TO COINCIDE WITH BOND'S 50TH ANNIVERSARY|publisher=007.com|date=ngày 1 tháng 10 năm 2012|accessdate=ngày 1 tháng 10 năm 2012}}</ref> Adele nói rằng được thu âm "Skyfall" là "một trong những kỉ niềm tự hào nhất đời tôi." Vào ngày 14 tháng 10, "Skyfall" vươn lên vị trí thứ 2 trên UK Singles Chart nhờ lượng bán ra 92.000 bản đưa tổng doanh thu lên con số 176.000. Điều này giúp "Skyfall" san bằng thành tích bài hát chủ đề phim James Bond xếp hạng cao nhất trên UK Singles Chart với "[[A View to a Kill (bài hát)|A View to a Kill]]" của [[Duran Duran]].<ref>{{chú thích web |url=http://www.officialcharts.com/chart-news/swedish-house-mafia-deny-adele-a-number-1-single-for-a-second-week-1642/ |title=Swedish House Mafia deny Adele a Number 1 single for a second week |date=ngày 14 tháng 10 năm 2012 |publisher=[[The Official Charts Company]] |accessdate=ngày 14 tháng 10 năm 2012}}</ref> Bài hát đứng thứ 8 trên ''Billboard'' Hot 100, tiêu thụ 261.000 trong ba ngày đầu tại Hoa Kỳ.<ref>{{chú thích báo |url=http://www.billboard.com/articles/news/474715/adeles-skyfall-not-a-lock-for-uk-no-1 |title=Adele's 'Skyfall' Not a Lock for U.K. No. 1 |date=ngày 10 tháng 10 năm 2012 |work=[[Billboard]] |accessdate=ngày 10 tháng 10 năm 2012}}</ref> "Skyfall" đã bán ra hơn hai triệu bản trên toàn cầu<ref>{{chú thích web|url=http://news.sky.com/story/1018076/adele-sets-new-record-for-us-album-sales|title=Adele Sets New Record For US Album Sales|work=Sky News|publisher=British Sky Broadcasting |date=ngày 29 tháng 11 năm 2012|accessdate=ngày 18 tháng 9 năm 2014}}</ref> và mang về cho Adele [[Giải Quả cầu vàng]] cho [[Giải Quả cầu vàng cho ca khúc trong phim hay nhất|Ca khúc nhạc phim hay nhất]]<ref>{{chú thích web |url=http://www.goldenglobes.org/2013/01/winners-list/ |title=The 70th Annual Golden Globe Awards, Winners List |date=ngày 14 tháng 1 năm 2013 |publisher=[[Hiệp hội báo chí nước ngoài ở Hollywood|HFPA]] |accessdate=ngày 14 tháng 1 năm 2013 }}</ref> và [[Giải Oscar]] cho [[Giải Oscar cho ca khúc trong phim hay nhất|Ca khúc nhạc phim hay nhất]].<ref>{{chú thích báo |url=http://www.bbc.co.uk/news/entertainment-arts-21570148 |title=Adele Skyfall wins best song Oscar |date=ngày 25 tháng 2 năm 2013 |publisher=[[BBC News]] |accessdate=ngày 25 tháng 2 năm 2013 }}</ref> Vào tháng 12 năm 2012, Adele được ''Billboard'' chọn là Nghệ sĩ của năm, còn ''21'' là Album của năm, giúp cô trở thành nghệ sĩ đầu tiên nhận cả hai danh hiệu trong hai năm liên tiếp.<ref name="ArtistofYear">{{chú thích web|url=http://www.bbc.co.uk/news/entertainment-arts-20747039|title=Adele named Billboard top artist of 2012 |publisher=[[BBC News]] |date=ngày 16 tháng 12 năm 2012 |accessdate=ngày 18 tháng 9 năm 2014}}</ref> [[Associated Press]] chọn Adele là Nghệ sĩ giải trí của năm 2012.<ref>{{chú thích web |url=http://www.billboard.com/articles/news/1481295/adele-named-ap-entertainer-of-the-year |title=Adele Named AP Entertainer of the Year |date=ngày 20 tháng 12 năm 2012 |work=[[Billboard (magazine)|Billboard]] |accessdate=ngày 28 tháng 12 năm 2012}}</ref> Tại [[Giải Grammy lần thứ 55]] phần thể hiện trực tiếp bài hát "Set Fire to the Rain" của Adele giành [[Giải Grammy cho Trình diễn đơn ca pop xuất sắc nhất]], đưa tổng số giải Grammy của cô lên con số 9.<ref>{{chú thích web|url=http://news.sky.com/story/1050358/grammys-adele-wins-best-pop-solo-performance|title=Grammys: Adele Wins Best Pop Solo Performance|publisher=Sky News|accessdate=ngày 15 tháng 7 năm 2013}}</ref>
Vào tháng 10 năm 2012, Adele xác nhận rằng cô đang viết lời, sáng tác nhạc và thu âm bài hát chủ đề của ''[[Tử địa Skyfall|Skyfall]]'', bộ phim thứ hai mươi ba về [[James Bond]].<ref>"[http://www.bbc.co.uk/newsbeat/19785659 Adele confirms Skyfall Bond theme song]" BBC Newsbeat, retrieved ngày 1 tháng 10 năm 2012</ref><ref>"[http://www.itv.com/news/ngày 1 tháng 10 năm 2012/adele-to-sing-theme-to-new-james-bond-film-skyfall/ Adele to sing theme to new James Bond film Skyfall]". ITV.com. Truy cập 1 tháng 10 năm 2012</ref> Bài hát "[[Skyfall (bài hát)|Skyfall]]" được sáng tác cùng nhà sản xuất [[Paul Epworth]], thu âm tại [[Abbey Road Studios]] và được phối nhạc giao hưởng bởi [[J. A. C. Redford]].<ref>{{Chú thích web|url=http://www.007.com/skyfall-official-theme-song-news/|tiêu đề=SKYFALL OFFICIAL THEME SONG NEWS RELEASE TO COINCIDE WITH BOND'S 50TH ANNIVERSARY|nhà xuất bản=007.com|ngày=ngày 1 tháng 10 năm 2012|ngày truy cập=ngày 1 tháng 10 năm 2012}}</ref> Adele nói rằng được thu âm "Skyfall" là "một trong những kỉ niềm tự hào nhất đời tôi." Vào ngày 14 tháng 10, "Skyfall" vươn lên vị trí thứ 2 trên UK Singles Chart nhờ lượng bán ra 92.000 bản đưa tổng doanh thu lên con số 176.000. Điều này giúp "Skyfall" san bằng thành tích bài hát chủ đề phim James Bond xếp hạng cao nhất trên UK Singles Chart với "[[A View to a Kill (bài hát)|A View to a Kill]]" của [[Duran Duran]].<ref>{{Chú thích web |url=http://www.officialcharts.com/chart-news/swedish-house-mafia-deny-adele-a-number-1-single-for-a-second-week-1642/ |tiêu đề=Swedish House Mafia deny Adele a Number 1 single for a second week |ngày=ngày 14 tháng 10 năm 2012 |nhà xuất bản=[[The Official Charts Company]] |ngày truy cập=ngày 14 tháng 10 năm 2012}}</ref> Bài hát đứng thứ 8 trên ''Billboard'' Hot 100, tiêu thụ 261.000 trong ba ngày đầu tại Hoa Kỳ.<ref>{{chú thích báo |url=http://www.billboard.com/articles/news/474715/adeles-skyfall-not-a-lock-for-uk-no-1 |title=Adele's 'Skyfall' Not a Lock for U.K. No. 1 |date=ngày 10 tháng 10 năm 2012 |work=[[Billboard]] |accessdate=ngày 10 tháng 10 năm 2012}}</ref> "Skyfall" đã bán ra hơn hai triệu bản trên toàn cầu<ref>{{Chú thích web|url=http://news.sky.com/story/1018076/adele-sets-new-record-for-us-album-sales|tiêu đề=Adele Sets New Record For US Album Sales|work=Sky News|nhà xuất bản=British Sky Broadcasting |ngày=ngày 29 tháng 11 năm 2012|ngày truy cập=ngày 18 tháng 9 năm 2014}}</ref> và mang về cho Adele [[Giải Quả cầu vàng]] cho [[Giải Quả cầu vàng cho ca khúc trong phim hay nhất|Ca khúc nhạc phim hay nhất]]<ref>{{Chú thích web |url=http://www.goldenglobes.org/2013/01/winners-list/ |tiêu đề=The 70th Annual Golden Globe Awards, Winners List |ngày=ngày 14 tháng 1 năm 2013 |nhà xuất bản=[[Hiệp hội báo chí nước ngoài ở Hollywood|HFPA]] |ngày truy cập=ngày 14 tháng 1 năm 2013 }}</ref> và [[Giải Oscar]] cho [[Giải Oscar cho ca khúc trong phim hay nhất|Ca khúc nhạc phim hay nhất]].<ref>{{chú thích báo |url=http://www.bbc.co.uk/news/entertainment-arts-21570148 |title=Adele Skyfall wins best song Oscar |date=ngày 25 tháng 2 năm 2013 |publisher=[[BBC News]] |accessdate=ngày 25 tháng 2 năm 2013 }}</ref> Vào tháng 12 năm 2012, Adele được ''Billboard'' chọn là Nghệ sĩ của năm, còn ''21'' là Album của năm, giúp cô trở thành nghệ sĩ đầu tiên nhận cả hai danh hiệu trong hai năm liên tiếp.<ref name="ArtistofYear">{{Chú thích web|url=http://www.bbc.co.uk/news/entertainment-arts-20747039|tiêu đề=Adele named Billboard top artist of 2012 |nhà xuất bản=[[BBC News]] |ngày=ngày 16 tháng 12 năm 2012 |ngày truy cập=ngày 18 tháng 9 năm 2014}}</ref> [[Associated Press]] chọn Adele là Nghệ sĩ giải trí của năm 2012.<ref>{{Chú thích web |url=http://www.billboard.com/articles/news/1481295/adele-named-ap-entertainer-of-the-year |tiêu đề=Adele Named AP Entertainer of the Year |ngày=ngày 20 tháng 12 năm 2012 |work=[[Billboard (magazine)|Billboard]] |ngày truy cập=ngày 28 tháng 12 năm 2012}}</ref> Tại [[Giải Grammy lần thứ 55]] phần thể hiện trực tiếp bài hát "Set Fire to the Rain" của Adele giành [[Giải Grammy cho Trình diễn đơn ca pop xuất sắc nhất]], đưa tổng số giải Grammy của cô lên con số 9.<ref>{{Chú thích web|url=http://news.sky.com/story/1050358/grammys-adele-wins-best-pop-solo-performance|tiêu đề=Grammys: Adele Wins Best Pop Solo Performance|nhà xuất bản=Sky News|ngày truy cập=ngày 15 tháng 7 năm 2013}}</ref>


=== 2013–2014: Vắng bóng===
=== 2013–2014: Vắng bóng===
Vào ngày 3 tháng 4 năm 2012, Adele xác nhận rằng album thứ ba của cô sẽ chỉ có thể ra mắt sau hai năm nữa và nói rằng "Tôi cần dành thời gian và sống một chút. Khoảng thời gian hai năm giữa album thứ nhất và thứ hai từng diễn ra khá tốt đẹp, cho nên lần này vẫn sẽ thế thôi." Cô nói rằng mình vẫn sẽ tự sáng tác các sản phẩm âm nhạc.<ref name="MTV2012">Kaufman, Gil. (3 tháng 4 năm 2012) [http://www.mtv.com/news/articles/1682315/adele-new-single.jhtml "Adele To Release New Single This Year"]. MTV. Truy cập 19 tháng 10 năm 2012</ref> Tại giải Grammy năm 2013, Adele khẳng định cô vẫn đang thực hiện những giai đoạn đầu tiên của album thứ ba cũng như có các buổi gặp mặt trong thời gian tại Los Angeles dự giải Oscar, mặc dù trước đó từng phủ nhận các tin đồn.<ref name="newalbumconfirmation">{{chú thích báo|url=http://www.billboard.com/articles/news/1538764/adele-talks-new-music-in-los-angeles |title=Adele Talks New Music in Los Angeles |work=[[Billboard]] |date=ngày 19 tháng 10 năm 2012 |accessdate=ngày 22 tháng 10 năm 2013}}</ref><ref>{{chú thích web|url=http://www.nme.com/news/adele/68983|title=Adele says she'll record a new album when she 'has something to sing about'|publisher=[[NME]]|accessdate=ngày 18 tháng 1 năm 2014|date=ngày 2 tháng 3 năm 2013}}</ref> Cô cũng cho biết rất có khả năng Paul Epworth và cô sẽ tiếp tục hợp tác lần nữa.<ref name="newalbumconfirmation"/> Ngoài ra [[Kid Harpoon]], [[James Ford (nhạc sĩ)|James Ford]], [[Damon Albarn]], [[Phil Collins]], [[Ryan Tedder]] và [[Diane Warren]] cũng là những cái tên có khả năng sẽ tham gia vào album.<ref>{{chú thích web|url=http://www.nme.com/news/adele/69617|title=Adele back in the studio recording the follow-up to '21'?|publisher=NME|accessdate=ngày 6 tháng 10 năm 2013}}</ref><ref>{{chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/news/5885285/adele-phil-collins-working-on-new-music-together|title=Adele, Phil Collins Working on New Music Together |work=[[Billboard]] |accessdate=ngày 24 tháng 1 năm 2014}}</ref><ref>{{chú thích web|url=http://www.cosmopolitan.co.uk/celebs/entertainment/ryan-tedder-adele-new-album|title=Adele is working on a new album and she's sounding 'even better than before'|work=Cosmopolitan UK|accessdate=ngày 6 tháng 10 năm 2013}}</ref><ref>{{chú thích web|url=http://www.m-magazine.co.uk/carousel/interview-william-orbit/|title=Interview: William Orbit|publisher=m-magazine|accessdate=ngày 28 tháng 11 năm 2013}}</ref><ref>{{chú thích web|url=http://www.officialcharts.com/chart-news/21-things-to-get-excited-about-in-2014-2738/|title=21 things to get excited about in 2014|publisher=[[Official Charts Company]]|last=Myers|first=Justin|date=ngày 18 tháng 1 năm 2014|accessdate=ngày 18 tháng 1 năm 2014}}</ref>
Vào ngày 3 tháng 4 năm 2012, Adele xác nhận rằng album thứ ba của cô sẽ chỉ có thể ra mắt sau hai năm nữa và nói rằng "Tôi cần dành thời gian và sống một chút. Khoảng thời gian hai năm giữa album thứ nhất và thứ hai từng diễn ra khá tốt đẹp, cho nên lần này vẫn sẽ thế thôi." Cô nói rằng mình vẫn sẽ tự sáng tác các sản phẩm âm nhạc.<ref name="MTV2012">Kaufman, Gil. (3 tháng 4 năm 2012) [http://www.mtv.com/news/articles/1682315/adele-new-single.jhtml "Adele To Release New Single This Year"]. MTV. Truy cập 19 tháng 10 năm 2012</ref> Tại giải Grammy năm 2013, Adele khẳng định cô vẫn đang thực hiện những giai đoạn đầu tiên của album thứ ba cũng như có các buổi gặp mặt trong thời gian tại Los Angeles dự giải Oscar, mặc dù trước đó từng phủ nhận các tin đồn.<ref name="newalbumconfirmation">{{chú thích báo|url=http://www.billboard.com/articles/news/1538764/adele-talks-new-music-in-los-angeles |title=Adele Talks New Music in Los Angeles |work=[[Billboard]] |date=ngày 19 tháng 10 năm 2012 |accessdate=ngày 22 tháng 10 năm 2013}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://www.nme.com/news/adele/68983|tiêu đề=Adele says she'll record a new album when she 'has something to sing about'|nhà xuất bản=[[NME]]|ngày truy cập=ngày 18 tháng 1 năm 2014|ngày=ngày 2 tháng 3 năm 2013}}</ref> Cô cũng cho biết rất có khả năng Paul Epworth và cô sẽ tiếp tục hợp tác lần nữa.<ref name="newalbumconfirmation"/> Ngoài ra [[Kid Harpoon]], [[James Ford (nhạc sĩ)|James Ford]], [[Damon Albarn]], [[Phil Collins]], [[Ryan Tedder]] và [[Diane Warren]] cũng là những cái tên có khả năng sẽ tham gia vào album.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.nme.com/news/adele/69617|tiêu đề=Adele back in the studio recording the follow-up to '21'?|nhà xuất bản=NME|ngày truy cập=ngày 6 tháng 10 năm 2013}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/news/5885285/adele-phil-collins-working-on-new-music-together|tiêu đề=Adele, Phil Collins Working on New Music Together |work=[[Billboard]] |ngày truy cập=ngày 24 tháng 1 năm 2014}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://www.cosmopolitan.co.uk/celebs/entertainment/ryan-tedder-adele-new-album|tiêu đề=Adele is working on a new album and she's sounding 'even better than before'|work=Cosmopolitan UK|ngày truy cập=ngày 6 tháng 10 năm 2013}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://www.m-magazine.co.uk/carousel/interview-william-orbit/|tiêu đề=Interview: William Orbit|nhà xuất bản=m-magazine|ngày truy cập=ngày 28 tháng 11 năm 2013}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://www.officialcharts.com/chart-news/21-things-to-get-excited-about-in-2014-2738/|tiêu đề=21 things to get excited about in 2014|nhà xuất bản=[[Official Charts Company]]|last=Myers|first=Justin|ngày=ngày 18 tháng 1 năm 2014|ngày truy cập=ngày 18 tháng 1 năm 2014}}</ref>


Vào tháng 9 năm 2013, [[Wiz Khalifa]] xác nhận anh và Adele đã cùng anh hợp tác trong một bài hát cho album chuẩn bị ra mắt ''[[Blacc Hollywood]]'', mặc dù vậy nó đã không có mặt trong album như dự kiến.<ref>{{chú thích báo|url=http://www.nme.com/news/wiz-khalifa/77505 |title=Wiz Khalifa scraps his collaboration with Adele |publisher=NME |date=ngày 24 tháng 5 năm 2014 |accessdate=ngày 4 tháng 8 năm 2014}}</ref> Vào tháng 1 năm 2014, Adele nhận [[Giải Grammy]] thứ 10 với "Skyfall" ở hạng mục [[Giải Grammy cho Ca khúc nhạc phim hay nhất|Ca khúc nhạc phim hay nhất]] tại [[Giải Grammy lần thứ 56]].<ref>{{chú thích báo|accessdate=ngày 6 tháng 12 năm 2013|url=http://www.grammy.com/nominees?genre=All|title=56th Annual GRAMMY Awards Nominees|publisher=Grammy|date=ngày 6 tháng 12 năm 2013}}</ref> Vào sinh nhật lần thứ 26 của cô vào tháng 5 năm 2014, Adele đăng tải một thông điệp đầy ẩn ý thông qua tài khoản [[Twitter]] của cô khiến giới truyền thông bắt đầu đưa tin về album tiếp theo của nữ ca sĩ người Anh. Tweet của Adele có nội dung "Bye bye 25... See you again later in the year," (Tạm dịch: "Tạm biệt 25 nhé... Hẹn gặp lại lần nữa vào năm sau") được một số báo như ''[[Daily Mail]]'' và [[Capital (đài phát thanh)|Capital FM]] hiểu là tên album tiếp theo của cô sẽ mang tên ''25'' và sẽ phát hành năm sau.<ref>{{chú thích báo|last=Leyfield |first=James |url=http://www.dailymail.co.uk/tvshowbiz/article-2620534/Adele-drops-biggest-hint-release-album-imminently.html |title=Adele drops biggest hint yet she is to release a third album imminently |newspaper=[[Daily Mail]] |location=Luân Đôn |date=ngày 5 tháng 5 năm 2014 |accessdate=ngày 5 tháng 5 năm 2014}}</ref><ref>{{chú thích báo|url=http://www.capitalfm.com/artists/adele/news/new-album-25-on-twitter/ |title=Adele Teases New Album '25' On Twitter |publisher=Capital FM |date=ngày 5 tháng 5 năm 2014 |accessdate=ngày 5 tháng 5 năm 2014}}</ref> Adele được đề cử 9 giải tại [[Giải thưởng Âm nhạc Thế giới|World Music Awards]].<ref>{{chú thích web|url=http://awardsandwinners.com/nominations/world-music-awards/ |title=World Music Awards Nominations 2014 |publisher=Awards & Winners |accessdate=ngày 7 tháng 6 năm 2014}}</ref> Vào đầu tháng 8 cùng năm, [[Paul Moss]] phát biểu rằng một album sẽ được phát hành vào năm 2014 hoặc 2015.<ref>{{chú thích web|last=Frank |first=Alex |url=http://www.vogue.com/1438555/rihanna-adele-frank-ocean-album-release-dates/|title=Waiting for New Albums From Rihanna, Adele, Frank Ocean, and Robyn |work=Vogue |date=ngày 11 tháng 9 năm 2014 |accessdate=ngày 19 tháng 9 năm 2014}}</ref>
Vào tháng 9 năm 2013, [[Wiz Khalifa]] xác nhận anh và Adele đã cùng anh hợp tác trong một bài hát cho album chuẩn bị ra mắt ''[[Blacc Hollywood]]'', mặc dù vậy nó đã không có mặt trong album như dự kiến.<ref>{{chú thích báo|url=http://www.nme.com/news/wiz-khalifa/77505 |title=Wiz Khalifa scraps his collaboration with Adele |publisher=NME |date=ngày 24 tháng 5 năm 2014 |accessdate=ngày 4 tháng 8 năm 2014}}</ref> Vào tháng 1 năm 2014, Adele nhận [[Giải Grammy]] thứ 10 với "Skyfall" ở hạng mục [[Giải Grammy cho Ca khúc nhạc phim hay nhất|Ca khúc nhạc phim hay nhất]] tại [[Giải Grammy lần thứ 56]].<ref>{{chú thích báo|accessdate=ngày 6 tháng 12 năm 2013|url=http://www.grammy.com/nominees?genre=All|title=56th Annual GRAMMY Awards Nominees|publisher=Grammy|date=ngày 6 tháng 12 năm 2013}}</ref> Vào sinh nhật lần thứ 26 của cô vào tháng 5 năm 2014, Adele đăng tải một thông điệp đầy ẩn ý thông qua tài khoản [[Twitter]] của cô khiến giới truyền thông bắt đầu đưa tin về album tiếp theo của nữ ca sĩ người Anh. Tweet của Adele có nội dung "Bye bye 25... See you again later in the year," (Tạm dịch: "Tạm biệt 25 nhé... Hẹn gặp lại lần nữa vào năm sau") được một số báo như ''[[Daily Mail]]'' và [[Capital (đài phát thanh)|Capital FM]] hiểu là tên album tiếp theo của cô sẽ mang tên ''25'' và sẽ phát hành năm sau.<ref>{{chú thích báo|last=Leyfield |first=James |url=http://www.dailymail.co.uk/tvshowbiz/article-2620534/Adele-drops-biggest-hint-release-album-imminently.html |title=Adele drops biggest hint yet she is to release a third album imminently |newspaper=[[Daily Mail]] |location=Luân Đôn |date=ngày 5 tháng 5 năm 2014 |accessdate=ngày 5 tháng 5 năm 2014}}</ref><ref>{{chú thích báo|url=http://www.capitalfm.com/artists/adele/news/new-album-25-on-twitter/ |title=Adele Teases New Album '25' On Twitter |publisher=Capital FM |date=ngày 5 tháng 5 năm 2014 |accessdate=ngày 5 tháng 5 năm 2014}}</ref> Adele được đề cử 9 giải tại [[Giải thưởng Âm nhạc Thế giới|World Music Awards]].<ref>{{Chú thích web|url=http://awardsandwinners.com/nominations/world-music-awards/ |tiêu đề=World Music Awards Nominations 2014 |nhà xuất bản=Awards & Winners |ngày truy cập=ngày 7 tháng 6 năm 2014}}</ref> Vào đầu tháng 8 cùng năm, [[Paul Moss]] phát biểu rằng một album sẽ được phát hành vào năm 2014 hoặc 2015.<ref>{{Chú thích web|last=Frank |first=Alex |url=http://www.vogue.com/1438555/rihanna-adele-frank-ocean-album-release-dates/|tiêu đề=Waiting for New Albums From Rihanna, Adele, Frank Ocean, and Robyn |work=Vogue |ngày=ngày 11 tháng 9 năm 2014 |ngày truy cập=ngày 19 tháng 9 năm 2014}}</ref>


=== 2015–nay: Album phòng thu thứ ba===
=== 2015–nay: Album phòng thu thứ ba===
Cuối tháng 8 năm 2015, ''[[Billboard]]'' đưa tin hãng thu âm của Adele chuẩn bị phát hành album phòng thu thư ba của cô vào tháng 11.<ref name="Third album">{{chú thích web|last1=Rayne|first1=Naja|title=Adele's New Album Due Out in November": Report|url=http://www.people.com/article/adeles-new-album-set-for-november-release?xid=socialflow_facebook_peoplemag|website=People|publisher=Time Inc.|date=ngày 27 tháng 8 năm 2015|accessdate=ngày 28 tháng 8 năm 2015}}</ref>
Cuối tháng 8 năm 2015, ''[[Billboard]]'' đưa tin hãng thu âm của Adele chuẩn bị phát hành album phòng thu thư ba của cô vào tháng 11.<ref name="Third album">{{Chú thích web|last1=Rayne|first1=Naja|tiêu đề=Adele's New Album Due Out in November": Report|url=http://www.people.com/article/adeles-new-album-set-for-november-release?xid=socialflow_facebook_peoplemag|website=People|nhà xuất bản=Time Inc.|ngày=ngày 27 tháng 8 năm 2015|ngày truy cập=ngày 28 tháng 8 năm 2015}}</ref>


Ngày 20 tháng 10, năm 2015, album phòng thu thứ ba đã được hé lộ gồm 11 bài hát. "[[Hello (bài hát của Adele)|Hello]]" đánh dấu sự trở lại đầy ngoạn mục của Adele. Với những kỷ lục như, video đạt nhiều lượt xem nhất trong vòng 24 giờ trên YouTube (với 27,7 triệu lượt xem, vượt qua MV "[[Bad Blood (bài hát của Taylor Swift)|Bad Blood]]" của [[Taylor Swift]]), là MV cán mốc 100 triệu lượt xem nhanh nhất trong vòng hơn 4 ngày (kỉ lục trước do Miley Cirus cùng với MV Wrecking Ball, mất 6 ngày để đạt được). Album với tên 25 đã được lên kệ và ra mắt toàn công chúng vào ngày 21 tháng 11 năm 2015, trong vòng chưa đầy một tuần, album này đã phá vỡ nhiều kỷ lục được tạo bởi các nghệ sĩ danh tiếng khác. Là album bán chạy nhất mọi thời đại tại Mỹ với hơn 3 triệu bảng được tiêu thụ trong 5 ngày đầu tiên, phá vỡ kỉ lục của NSYNC và [[Britney Spears]] lập ra cách đây 15 năm. Là album bán chạy nhất mọi thời đại tại UK với số lượng phát hành trên 700 nghìn bản tiêu thụ (vượt qua album ''Be Here Now'', Oasis). Trong vòng một tuần sau khi phát hành, ''25'' phá vỡ kỉ lục thế giới của Utada Hikaru, trở thành album bán chạy nhất mọi thời đại trong vòng một tuần, với số liệu thống kê của Nielsen Music, ''25'' đã tẩu tán được 3,38 triệu bảng trong tuần đầu tiền ra mắt công chúng. ''25'' chính thức ghi tên mình vào sách kỉ lục thế giới: ''25'' - The All Time 1 Week Sales Record For Any Territory.
Ngày 20 tháng 10, năm 2015, album phòng thu thứ ba đã được hé lộ gồm 11 bài hát. "[[Hello (bài hát của Adele)|Hello]]" đánh dấu sự trở lại đầy ngoạn mục của Adele. Với những kỷ lục như, video đạt nhiều lượt xem nhất trong vòng 24 giờ trên YouTube (với 27,7 triệu lượt xem, vượt qua MV "[[Bad Blood (bài hát của Taylor Swift)|Bad Blood]]" của [[Taylor Swift]]), là MV cán mốc 100 triệu lượt xem nhanh nhất trong vòng hơn 4 ngày (kỉ lục trước do Miley Cirus cùng với MV Wrecking Ball, mất 6 ngày để đạt được). Album với tên 25 đã được lên kệ và ra mắt toàn công chúng vào ngày 21 tháng 11 năm 2015, trong vòng chưa đầy một tuần, album này đã phá vỡ nhiều kỷ lục được tạo bởi các nghệ sĩ danh tiếng khác. Là album bán chạy nhất mọi thời đại tại Mỹ với hơn 3 triệu bảng được tiêu thụ trong 5 ngày đầu tiên, phá vỡ kỉ lục của NSYNC và [[Britney Spears]] lập ra cách đây 15 năm. Là album bán chạy nhất mọi thời đại tại UK với số lượng phát hành trên 700 nghìn bản tiêu thụ (vượt qua album ''Be Here Now'', Oasis). Trong vòng một tuần sau khi phát hành, ''25'' phá vỡ kỉ lục thế giới của Utada Hikaru, trở thành album bán chạy nhất mọi thời đại trong vòng một tuần, với số liệu thống kê của Nielsen Music, ''25'' đã tẩu tán được 3,38 triệu bảng trong tuần đầu tiền ra mắt công chúng. ''25'' chính thức ghi tên mình vào sách kỉ lục thế giới: ''25'' - The All Time 1 Week Sales Record For Any Territory.
Dòng 91: Dòng 91:
== Đời tư cá nhân ==
== Đời tư cá nhân ==


Vào tháng 1 năm 2012 Adele được xác nhận hẹn hò với doanh nhân từ thiện và cựu học sinh [[Eton College|Trường Eton]] Simon Konecki từ hè 2011.<ref>{{chú thích báo|url=http://www.usmagazine.com/celebrity-moms/news/adele-is-pregnant-2012296|title=Adele Is Pregnant! |work=[[Us Weekly]] |date=ngày 29 tháng 6 năm 2012 |accessdate=ngày 21 tháng 10 năm 2012}}</ref> Vào tháng 6 năm 2012, Adele thông báo cô và Konecki chuẩn bị đón đứa con đầu lòng.<ref>{{chú thích web|url=http://www.adele.tv/blog/424/i-ve-got-some-news|title=I've got some news...|date=ngày 29 tháng 6 năm 2012|accessdate=ngày 29 tháng 6 năm 2012|author=Adele}}</ref><ref>{{chú thích báo|url=http://www.belfasttelegraph.co.uk/entertainment/news/adele-pregnant-with-first-child-16179230.html |title=Adele pregnant with first child |newspaper=[[Belfast Telegraph]] |date=ngày 29 tháng 6 năm 2012 |accessdate=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref> Con trai của họ, Angelo, được sinh hạ vào ngày 19 tháng 10 năm 2012.<ref>{{chú thích web|url=http://www.eonline.com/news/434046/adele-s-baby-boy-angelo-see-photos-of-his-adorable-face|title=Adele's Baby Boy Angelo: See Photos of His Adorable Face!|publisher=[[E!]] |date=ngày 26 tháng 6 năm 2013 |accessdate=ngày 6 tháng 5 năm 2014 |first=Brett|last=Malec}}</ref> Adele và Konecki đã kiện thành công một cơ quan lưu trữ ảnh có trụ sở tại Anh vì vi phạm quyền riêng tư khi đã đăng những bức ảnh của con trai họ chụp vào năm 2013.<ref>{{chú thích báo|url=http://www.theguardian.com/media/2014/jul/23/adele-son-payout-privacy-corbis-angelo-adkins |title=Adele’s son gets payout in privacy case |newspaper=[[The Guardian]] |date=ngày 23 tháng 7 năm 2014 |accessdate=ngày 23 tháng 7 năm 2014}}</ref><ref>{{chú thích báo|url=http://www.bbc.co.uk/news/entertainment-arts-28439754 |publisher=[[BBC News]] |title=Singer Adele wins damages over paparazzi photos of son |date=ngày 23 tháng 7 năm 2014 |accessdate=ngày 23 tháng 7 năm 2014}}</ref>
Vào tháng 1 năm 2012 Adele được xác nhận hẹn hò với doanh nhân từ thiện và cựu học sinh [[Eton College|Trường Eton]] Simon Konecki từ hè 2011.<ref>{{chú thích báo|url=http://www.usmagazine.com/celebrity-moms/news/adele-is-pregnant-2012296|title=Adele Is Pregnant! |work=[[Us Weekly]] |date=ngày 29 tháng 6 năm 2012 |accessdate=ngày 21 tháng 10 năm 2012}}</ref> Vào tháng 6 năm 2012, Adele thông báo cô và Konecki chuẩn bị đón đứa con đầu lòng.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.adele.tv/blog/424/i-ve-got-some-news|tiêu đề=I've got some news...|ngày=ngày 29 tháng 6 năm 2012|ngày truy cập=ngày 29 tháng 6 năm 2012|author=Adele}}</ref><ref>{{chú thích báo|url=http://www.belfasttelegraph.co.uk/entertainment/news/adele-pregnant-with-first-child-16179230.html |title=Adele pregnant with first child |newspaper=[[Belfast Telegraph]] |date=ngày 29 tháng 6 năm 2012 |accessdate=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref> Con trai của họ, Angelo, được sinh hạ vào ngày 19 tháng 10 năm 2012.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.eonline.com/news/434046/adele-s-baby-boy-angelo-see-photos-of-his-adorable-face|tiêu đề=Adele's Baby Boy Angelo: See Photos of His Adorable Face!|nhà xuất bản=[[E!]] |ngày=ngày 26 tháng 6 năm 2013 |ngày truy cập=ngày 6 tháng 5 năm 2014 |first=Brett|last=Malec}}</ref> Adele và Konecki đã kiện thành công một cơ quan lưu trữ ảnh có trụ sở tại Anh vì vi phạm quyền riêng tư khi đã đăng những bức ảnh của con trai họ chụp vào năm 2013.<ref>{{chú thích báo|url=http://www.theguardian.com/media/2014/jul/23/adele-son-payout-privacy-corbis-angelo-adkins |title=Adele’s son gets payout in privacy case |newspaper=[[The Guardian]] |date=ngày 23 tháng 7 năm 2014 |accessdate=ngày 23 tháng 7 năm 2014}}</ref><ref>{{chú thích báo|url=http://www.bbc.co.uk/news/entertainment-arts-28439754 |publisher=[[BBC News]] |title=Singer Adele wins damages over paparazzi photos of son |date=ngày 23 tháng 7 năm 2014 |accessdate=ngày 23 tháng 7 năm 2014}}</ref>


Adele bị phê bình bởi một số người nổi tiếng như [[Karl Lagerfeld]]<ref>{{chú thích báo|url=http://www.huffingtonpost.com/2012/02/09/adele-responds-to-karl-lagerfelds-fat-remark_n_1265252.html |title=Adele Responds To Karl Lagerfeld's 'Fat' Remark |work=[[The Huffington Post]] |date= ngày 9 tháng 2 năm 2012|accessdate=ngày 1 tháng 6 năm 2013 |first=Stephanie |last=Marcus}}</ref> hay [[Joan Rivers]]<ref>{{chú thích web|last=Johnson |first=Zach |url=http://www.usmagazine.com/celebrity-news/news/joan-rivers-calls-adele-chubby-says-the-singer-should-lose-weight-2013313 |title=Joan Rivers Calls Adele 'Chubby,' Says the Singer Should 'Lose Weight' |work=[[Us Weekly]] |date=ngày 31 tháng 3 năm 2013 |accessdate=ngày 1 tháng 6 năm 2013}}</ref> vì cân nặng và thân hình của cô, nhưng ngược lại cũng nhận được sự ủng hộ của nhiều nghệ sĩ khác, trong khi chính Adele tuyên bố cô vẫn hạnh phúc với cân nặng của mình và sẽ chỉ thay đổi nếu nó ảnh hưởng tới sức khỏe hoặc đời sống tình dục.<ref>{{chú thích web|last=Johnson |first=Zach |url=http://www.usmagazine.com/celebrity-body/news/adele-i-would-only-lose-weight-if-it-affected-my-health-or-sex-life-2012911 |title=Adele: 'I Would Only Lose Weight If It Affected My Health or Sex Life' |work=[[Us Weekly]] |date=ngày 9 tháng 11 năm 2012 |accessdate=ngày 1 tháng 6 năm 2013}}</ref> Trong buổi phỏng vấn vào năm 2009, Adele nói rằng: "Tôi thích mình trông ưa nhìn, nhưng tôi luôn tìm thấy sự thỏa mãn về mặt thời trang. Tôi không nghĩ mấy cô gầy hấp dẫn đâu; phải vui vẻ và khỏe mạnh. Tôi chẳng hề gặp một vấn đề nào với vẻ ngoài của bản thân cả. Tôi thà đi ăn trưa với bạn tôi hơn là tới phòng tập thể thao."<ref name="Adele DM Interview"/>
Adele bị phê bình bởi một số người nổi tiếng như [[Karl Lagerfeld]]<ref>{{chú thích báo|url=http://www.huffingtonpost.com/2012/02/09/adele-responds-to-karl-lagerfelds-fat-remark_n_1265252.html |title=Adele Responds To Karl Lagerfeld's 'Fat' Remark |work=[[The Huffington Post]] |date= ngày 9 tháng 2 năm 2012|accessdate=ngày 1 tháng 6 năm 2013 |first=Stephanie |last=Marcus}}</ref> hay [[Joan Rivers]]<ref>{{Chú thích web|last=Johnson |first=Zach |url=http://www.usmagazine.com/celebrity-news/news/joan-rivers-calls-adele-chubby-says-the-singer-should-lose-weight-2013313 |tiêu đề=Joan Rivers Calls Adele 'Chubby,' Says the Singer Should 'Lose Weight' |work=[[Us Weekly]] |ngày=ngày 31 tháng 3 năm 2013 |ngày truy cập=ngày 1 tháng 6 năm 2013}}</ref> vì cân nặng và thân hình của cô, nhưng ngược lại cũng nhận được sự ủng hộ của nhiều nghệ sĩ khác, trong khi chính Adele tuyên bố cô vẫn hạnh phúc với cân nặng của mình và sẽ chỉ thay đổi nếu nó ảnh hưởng tới sức khỏe hoặc đời sống tình dục.<ref>{{Chú thích web|last=Johnson |first=Zach |url=http://www.usmagazine.com/celebrity-body/news/adele-i-would-only-lose-weight-if-it-affected-my-health-or-sex-life-2012911 |tiêu đề=Adele: 'I Would Only Lose Weight If It Affected My Health or Sex Life' |work=[[Us Weekly]] |ngày=ngày 9 tháng 11 năm 2012 |ngày truy cập=ngày 1 tháng 6 năm 2013}}</ref> Trong buổi phỏng vấn vào năm 2009, Adele nói rằng: "Tôi thích mình trông ưa nhìn, nhưng tôi luôn tìm thấy sự thỏa mãn về mặt thời trang. Tôi không nghĩ mấy cô gầy hấp dẫn đâu; phải vui vẻ và khỏe mạnh. Tôi chẳng hề gặp một vấn đề nào với vẻ ngoài của bản thân cả. Tôi thà đi ăn trưa với bạn tôi hơn là tới phòng tập thể thao."<ref name="Adele DM Interview"/>


Về mặt chính trị, Adele ủng hộ [[Công Đảng Anh|Công đảng]] khi từng nói vào năm 2011 rằng cô là một "cô gái Công đảng chính hiệu"<ref>{{chú thích báo|title=Adele slams David Cameron as a Wally|url=http://www.mirror.co.uk/news/uk-news/adele-slams-david-cameron-as-a-wally-131372|issue=ngày 29 tháng 5 năm 2011 |work=[[Daily Mirror]] |date=ngày 5 tháng 5 năm 2015}}</ref> Vào tháng 5 năm 2011, báo chí đưa tin về những bất đồng của cô về hệ thống thu thuế.<ref>{{chú thích báo|url=http://www.guardian.co.uk/music/musicblog/2011/may/25/adele-tax-grievances|title=Adele's tax grievances won't resonate with fans|first=Rob |last=Fitzpatrick |work=[[The Guardian]] |location=Luân Đôn |date=ngày 25 tháng 5 năm 2011|accessdate=ngày 18 tháng 9 năm 2014}}</ref> Sau thành công cùng album đầu tiên, Adele mua một ngôi nhà tại [[Notting Hill]], Luân Đôn vào năm 2009.<ref name="homes"/> Vào tháng 2 năm 2012, Adele và Konecki chuyển tới một khu biệt thự 10 phòng ngủ trị giá 7 triệu bảng trong khuôn khổ 25 mẫu đất ở [[West Sussex]].<ref name="homes">[http://www.dailymail.co.uk/tvshowbiz/article-2106555/Adele-From-dingy-flat-7m-mansion-music-megastar.html "A home triumph for gifted Adele: From dingy flat to £7M mansion for music megastar"]. Daily Mail. Truy cập 13 tháng 7 năm 2012</ref> Sinh ra tại Tottenham, cô là cổ động viên của câu lạc bộ [[Tottenham Hotspur F.C.|Tottenham Hotspur]].<ref>{{chú thích báo|author=Smart, Gordon |url=http://www.thesun.co.uk/sol/homepage/features/3348426/Adele-Harry-Redknapp-P-Diddy-and-Sarah-Palin-Ive-made-a-fool-of-myself-in-front-of-them-all.html |title=Adele: Harry Redknapp, P Diddy and Sarah Palin... I've made a fool of myself in front of them all |work=[[The Sun]]|date=ngày 13 tháng 1 năm 2011 |accessdate=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref>
Về mặt chính trị, Adele ủng hộ [[Công Đảng Anh|Công đảng]] khi từng nói vào năm 2011 rằng cô là một "cô gái Công đảng chính hiệu"<ref>{{chú thích báo|title=Adele slams David Cameron as a Wally|url=http://www.mirror.co.uk/news/uk-news/adele-slams-david-cameron-as-a-wally-131372|issue=ngày 29 tháng 5 năm 2011 |work=[[Daily Mirror]] |date=ngày 5 tháng 5 năm 2015}}</ref> Vào tháng 5 năm 2011, báo chí đưa tin về những bất đồng của cô về hệ thống thu thuế.<ref>{{chú thích báo|url=http://www.guardian.co.uk/music/musicblog/2011/may/25/adele-tax-grievances|title=Adele's tax grievances won't resonate with fans|first=Rob |last=Fitzpatrick |work=[[The Guardian]] |location=Luân Đôn |date=ngày 25 tháng 5 năm 2011|accessdate=ngày 18 tháng 9 năm 2014}}</ref> Sau thành công cùng album đầu tiên, Adele mua một ngôi nhà tại [[Notting Hill]], Luân Đôn vào năm 2009.<ref name="homes"/> Vào tháng 2 năm 2012, Adele và Konecki chuyển tới một khu biệt thự 10 phòng ngủ trị giá 7 triệu bảng trong khuôn khổ 25 mẫu đất ở [[West Sussex]].<ref name="homes">[http://www.dailymail.co.uk/tvshowbiz/article-2106555/Adele-From-dingy-flat-7m-mansion-music-megastar.html "A home triumph for gifted Adele: From dingy flat to £7M mansion for music megastar"]. Daily Mail. Truy cập 13 tháng 7 năm 2012</ref> Sinh ra tại Tottenham, cô là cổ động viên của câu lạc bộ [[Tottenham Hotspur F.C.|Tottenham Hotspur]].<ref>{{chú thích báo|author=Smart, Gordon |url=http://www.thesun.co.uk/sol/homepage/features/3348426/Adele-Harry-Redknapp-P-Diddy-and-Sarah-Palin-Ive-made-a-fool-of-myself-in-front-of-them-all.html |title=Adele: Harry Redknapp, P Diddy and Sarah Palin... I've made a fool of myself in front of them all |work=[[The Sun]]|date=ngày 13 tháng 1 năm 2011 |accessdate=ngày 29 tháng 6 năm 2012}}</ref>
Dòng 108: Dòng 108:
|pos=right }}
|pos=right }}


Thời gian đầu, giới phê bình cho rằng giọng hát của cô phát triển và ấn tượng khả năng sáng tác, điều mà chính Adele cũng đồng tình.<ref>{{chú thích web|url=http://www.westword.com/ngày 22 tháng 1 năm 2009/music/despite-four-grammy-nominations-adele-is-figuring-out-how-to-be-herself/|title=Despite four Grammy nominations, Adele is figuring out how to be herself Westworld ngày 21 tháng 1 năm 2009}}</ref> Cô từng bày tỏ: "Tôi tự học cách hát từ việc nghe ở [[Ella Fitzgerald]] sự chính xác (''acrobatics'') và định lượng, ở [[Etta James]] sự nhiệt huyết và [[Roberta Flack]] sự kiểm soát."<ref>{{chú thích web|url=http://myplay.com/artists/adele/bio|title=Adele Bio|publisher=Myplay.com|accessdate=ngày 22 tháng 9 năm 2014}}</ref> Album đầu tay của Adele theo thể loại [[soul]], với lời bài hát miêu tả nỗi buồn về chuyện tình cảm.<ref name="BlogCriticsInterview"/> Thành công của cô đến giữa lúc có nhiều nghệ sĩ soul Anh Quốc khác, trong khi đó truyền thông Anh gọi cô là một [[Amy Winehouse]] mới.<ref name=nicole/> Điều này được coi là [[British Invasion|Cuộc xâm lăng âm nhạc Anh Quốc]] thứ ba vào Hoa Kỳ.<ref name=collis/> Tuy nhiên Adele coi những sự so sánh cô với các nghệ sĩ soul khác là vô tâm và phản bác rằng "chúng tôi là một giới, không phải một thể loại".<ref name="BlogCriticsInterview"/><ref name=MELISSARUGGIER/><ref>{{chú thích báo|url=http://www.guardian.co.uk/music/2008/dec/11/popandrock|title=Adele Guardian Interview |work=[[The Guardian]] |location=Luân Đôn |first=Hannah |last=Pool | date=ngày 11 tháng 12 năm 2008 | accessdate=ngày 23 tháng 4 năm 2010}}</ref> ''AllMusic'' cho rằng "Adele đơn giản là quá ảo diệu để so sánh cô với ai khác."<ref name=AmyWho/>
Thời gian đầu, giới phê bình cho rằng giọng hát của cô phát triển và ấn tượng khả năng sáng tác, điều mà chính Adele cũng đồng tình.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.westword.com/ngày 22 tháng 1 năm 2009/music/despite-four-grammy-nominations-adele-is-figuring-out-how-to-be-herself/|tiêu đề=Despite four Grammy nominations, Adele is figuring out how to be herself Westworld ngày 21 tháng 1 năm 2009}}</ref> Cô từng bày tỏ: "Tôi tự học cách hát từ việc nghe ở [[Ella Fitzgerald]] sự chính xác (''acrobatics'') và định lượng, ở [[Etta James]] sự nhiệt huyết và [[Roberta Flack]] sự kiểm soát."<ref>{{Chú thích web|url=http://myplay.com/artists/adele/bio|tiêu đề=Adele Bio|nhà xuất bản=Myplay.com|ngày truy cập=ngày 22 tháng 9 năm 2014}}</ref> Album đầu tay của Adele theo thể loại [[soul]], với lời bài hát miêu tả nỗi buồn về chuyện tình cảm.<ref name="BlogCriticsInterview"/> Thành công của cô đến giữa lúc có nhiều nghệ sĩ soul Anh Quốc khác, trong khi đó truyền thông Anh gọi cô là một [[Amy Winehouse]] mới.<ref name=nicole/> Điều này được coi là [[British Invasion|Cuộc xâm lăng âm nhạc Anh Quốc]] thứ ba vào Hoa Kỳ.<ref name=collis/> Tuy nhiên Adele coi những sự so sánh cô với các nghệ sĩ soul khác là vô tâm và phản bác rằng "chúng tôi là một giới, không phải một thể loại".<ref name="BlogCriticsInterview"/><ref name=MELISSARUGGIER/><ref>{{chú thích báo|url=http://www.guardian.co.uk/music/2008/dec/11/popandrock|title=Adele Guardian Interview |work=[[The Guardian]] |location=Luân Đôn |first=Hannah |last=Pool | date=ngày 11 tháng 12 năm 2008 | accessdate=ngày 23 tháng 4 năm 2010}}</ref> ''AllMusic'' cho rằng "Adele đơn giản là quá ảo diệu để so sánh cô với ai khác."<ref name=AmyWho/>


Adele nói Etta James là người có ảnh hưởng lớn nhất tới âm nhạc của cô.<ref>{{chú thích web|url= http://www.bluesandsoul.com/feature/302/the_futures_looking_rosie_for_adele |title=ADELE: Up close and personal |publisher=Bluesandsoul.com |date= |accessdate=ngày 1 tháng 6 năm 2013}}</ref> Cô nói rằng trong quá trình trưởng thành cô nghe nhạc của [[Spice Girls]],<ref>{{chú thích web|url=http://www.billboard.com/video/hot-100-adele-on-the-spice-girls-471108 |title=Hot 100: Adele on the Spice Girls |work=[[Billboard]] |date= |accessdate=ngày 1 tháng 6 năm 2013}}</ref> [[The Cure]],<ref>Matt Doeden (2013). "Adele: Soul Music’s Magical Voice". tr. 72. Twenty-First Century Books.</ref> [[Dusty Springfield]],<ref>{{chú thích web|url=http://nyunews.com/2013/03/14/adele/ |title=The Highlighter presents – Musical Influences: Adele |publisher=Nyunews.com |date=ngày 14 tháng 3 năm 2013 |accessdate=ngày 1 tháng 6 năm 2013}}</ref> [[Céline Dion]],<ref>{{chú thích báo|last=Patterson|first=Sylvia|title=Mad about the girl|url=http://www.theguardian.com/music/2008/jan/27/popandrock.britawards2008|accessdate=ngày 10 tháng 12 năm 2014|newspaper=[[The Observer]]|date=ngày 27 tháng 1 năm 2008}}</ref> [[Annie Lennox]],<ref>[http://www.heraldscotland.com/news/home-news/providing-soundtrack-to-our-lives-annie-lennox-feted-by-tutu-elton-adele.1383635672 "Providing soundtrack to our lives: Annie Lennox feted by Tutu, Elton, Adele"]. Sunday Herald. Truy cập 12 tháng 11 năm 2014</ref> và [[Pink (ca sĩ)|Pink]].<ref>{{chú thích web|url=http://www.spinner.com/2010/12/23/adele-defining-moments/ |title=Adele – Defining Moments |publisher=Spinner |date=ngày 23 tháng 12 năm 2010 |accessdate=ngày 4 tháng 4 năm 2012}}</ref><ref>{{chú thích web|author=|url=http://socialitelife.com/adele-says-hearing-pink-sing-changed-her-life-12-2010 |title=Adele Says Hearing Pink Sing Changed Her Life |publisher=Socialite Life |date=ngày 23 tháng 12 năm 2010 |accessdate=ngày 4 tháng 4 năm 2012}}</ref> Cô khẳng định mẹ cô, người vô cùng thân thiết với cô, đã truyền cho cô cảm hứng âm nhạc của [[Lauryn Hill]], [[Mary J. Blige]] và [[Alicia Keys]].<ref>{{chú thích web|author=Toure |url=http://www.rollingstone.com/music/news/adele-opens-up-about-her-inspirations-looks-and-stage-fright-20120210 |title=Adele Opens Up About Her Inspirations, Looks and Stage Fright: Pop's biggest voice of 2011 runs on cigarettes, red wine and high-octane heartbreak |work=[[Rolling Stone]] |date=ngày 28 tháng 4 năm 2011 |accessdate=ngày 1 tháng 6 năm 2013}}</ref>
Adele nói Etta James là người có ảnh hưởng lớn nhất tới âm nhạc của cô.<ref>{{Chú thích web|url= http://www.bluesandsoul.com/feature/302/the_futures_looking_rosie_for_adele |tiêu đề=ADELE: Up close and personal |nhà xuất bản=Bluesandsoul.com |ngày= |ngày truy cập=ngày 1 tháng 6 năm 2013}}</ref> Cô nói rằng trong quá trình trưởng thành cô nghe nhạc của [[Spice Girls]],<ref>{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/video/hot-100-adele-on-the-spice-girls-471108 |tiêu đề=Hot 100: Adele on the Spice Girls |work=[[Billboard]] |ngày= |ngày truy cập=ngày 1 tháng 6 năm 2013}}</ref> [[The Cure]],<ref>Matt Doeden (2013). "Adele: Soul Music’s Magical Voice". tr. 72. Twenty-First Century Books.</ref> [[Dusty Springfield]],<ref>{{Chú thích web|url=http://nyunews.com/2013/03/14/adele/ |tiêu đề=The Highlighter presents – Musical Influences: Adele |nhà xuất bản=Nyunews.com |ngày=ngày 14 tháng 3 năm 2013 |ngày truy cập=ngày 1 tháng 6 năm 2013}}</ref> [[Céline Dion]],<ref>{{chú thích báo|last=Patterson|first=Sylvia|title=Mad about the girl|url=http://www.theguardian.com/music/2008/jan/27/popandrock.britawards2008|accessdate=ngày 10 tháng 12 năm 2014|newspaper=[[The Observer]]|date=ngày 27 tháng 1 năm 2008}}</ref> [[Annie Lennox]],<ref>[http://www.heraldscotland.com/news/home-news/providing-soundtrack-to-our-lives-annie-lennox-feted-by-tutu-elton-adele.1383635672 "Providing soundtrack to our lives: Annie Lennox feted by Tutu, Elton, Adele"]. Sunday Herald. Truy cập 12 tháng 11 năm 2014</ref> và [[Pink (ca sĩ)|Pink]].<ref>{{Chú thích web|url=http://www.spinner.com/2010/12/23/adele-defining-moments/ |tiêu đề=Adele – Defining Moments |nhà xuất bản=Spinner |ngày=ngày 23 tháng 12 năm 2010 |ngày truy cập=ngày 4 tháng 4 năm 2012}}</ref><ref>{{Chú thích web|author=|url=http://socialitelife.com/adele-says-hearing-pink-sing-changed-her-life-12-2010 |tiêu đề=Adele Says Hearing Pink Sing Changed Her Life |nhà xuất bản=Socialite Life |ngày=ngày 23 tháng 12 năm 2010 |ngày truy cập=ngày 4 tháng 4 năm 2012}}</ref> Cô khẳng định mẹ cô, người vô cùng thân thiết với cô, đã truyền cho cô cảm hứng âm nhạc của [[Lauryn Hill]], [[Mary J. Blige]] và [[Alicia Keys]].<ref>{{Chú thích web|author=Toure |url=http://www.rollingstone.com/music/news/adele-opens-up-about-her-inspirations-looks-and-stage-fright-20120210 |tiêu đề=Adele Opens Up About Her Inspirations, Looks and Stage Fright: Pop's biggest voice of 2011 runs on cigarettes, red wine and high-octane heartbreak |work=[[Rolling Stone]] |ngày=ngày 28 tháng 4 năm 2011 |ngày truy cập=ngày 1 tháng 6 năm 2013}}</ref>


==Ảnh hưởng==
==Ảnh hưởng==
Sau khi album ''19'' ra mắt, [[Kanye West]] và [[Beyoncé]] là hai trong số các nghệ sĩ khen ngợi âm nhạc của Adele.<ref name="BlogCriticsInterview"/> Beyoncé coi Adele là người có ảnh hưởng tới album của cô, ''[[4 (album của Beyoncé)|4]]''.<ref>{{chú thích web|url=http://www.nme.com/news/beyonce/57054 |title=Beyonce inspired by Adele and Florence And The Machine on new album '4' |work=[[NME]] |date=ngày 3 tháng 6 năm 2011 |accessdate=ngày 18 tháng 8 năm 2011}}</ref> [[Madonna (ca sĩ)|Madonna]] bày tỏ mong muốn cộng tác với Adele và cô thổ lộ rằng: "Tôi nghĩ cô ấy thật xuất chúng, Tôi yêu cô ấy".
Sau khi album ''19'' ra mắt, [[Kanye West]] và [[Beyoncé]] là hai trong số các nghệ sĩ khen ngợi âm nhạc của Adele.<ref name="BlogCriticsInterview"/> Beyoncé coi Adele là người có ảnh hưởng tới album của cô, ''[[4 (album của Beyoncé)|4]]''.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.nme.com/news/beyonce/57054 |tiêu đề=Beyonce inspired by Adele and Florence And The Machine on new album '4' |work=[[NME]] |ngày=ngày 3 tháng 6 năm 2011 |ngày truy cập=ngày 18 tháng 8 năm 2011}}</ref> [[Madonna (ca sĩ)|Madonna]] bày tỏ mong muốn cộng tác với Adele và cô thổ lộ rằng: "Tôi nghĩ cô ấy thật xuất chúng, Tôi yêu cô ấy".


[[Celine Dion]] đã thể hiện ca khúc "Rolling in the Deep" tại buổi diễn của cô tại The Colosseum ở Caesars Palace sau khi nói với khán giả rằng "Tôi rất yêu mến Adele. Cô ấy thật đáng kinh ngạc."<ref>{{chú thích báo|first=David|last=Greenwald|title=Celine Dion Covers Adele at Vegas Show|url=http://www.billboard.com/articles/news/483346/celine-dion-covers-adele-at-vegas-show-listen|work=[[Billboard]]|date=ngày 12 tháng 6 năm 2012|accessdate=ngày 14 tháng 6 năm 2012}}</ref> [[Dave Grohl]] của [[Foo Fighters]] và [[Nirvana (ban nhạc)|Nirvana]] liên tục dành nhưng lời tán dương Adele trong các cuộc phỏng vấn.<ref>{{chú thích báo|last=|first=|title=Foo Fighters' Dave Grohl: 'I'm glad we're competing with Adele at Grammys'|url=http://www.nme.com/news/foo-fighters/61920|publisher=NME|date=ngày 8 tháng 2 năm 2012}}</ref><ref>{{chú thích báo|last=Halperin|first=Shirley|title=Grammys 2012: Dave Grohl and Butch Vig Reflect on Nirvana, Adele and the State of the Music Business (Q&A)|url=http://www.hollywoodreporter.com/news/dave-grohl-butch-vig-grammy-adele-nirvana-289304 |work=[[The Hollywood Reporter]] |date=ngày 10 tháng 2 năm 2012}}</ref> [[Slash]], cựu thành viên của [[Guns N' Roses]] nói: "Cô ấy thật tuyệt vời. Cô ấy là liều thuốc tốt cho nền công nghiệp này. Cô ấy viết thứ âm nhạc không hề giả tạo một chút nào của chính mình. Và cô ấy bán được rất nhiều bản thu và giúp cô ấy trở thành một ví dụ tuyệt vời cho các nghệ sĩ trẻ."<ref>{{chú thích web|url=http://www.nme.com/news/slash/66405|title=Slash: 'Adele is a shot in the arm for music|date=ngày 1 tháng 10 năm 2012|work=NME|accessdate=ngày 18 tháng 9 năm 2014}}</ref>
[[Celine Dion]] đã thể hiện ca khúc "Rolling in the Deep" tại buổi diễn của cô tại The Colosseum ở Caesars Palace sau khi nói với khán giả rằng "Tôi rất yêu mến Adele. Cô ấy thật đáng kinh ngạc."<ref>{{chú thích báo|first=David|last=Greenwald|title=Celine Dion Covers Adele at Vegas Show|url=http://www.billboard.com/articles/news/483346/celine-dion-covers-adele-at-vegas-show-listen|work=[[Billboard]]|date=ngày 12 tháng 6 năm 2012|accessdate=ngày 14 tháng 6 năm 2012}}</ref> [[Dave Grohl]] của [[Foo Fighters]] và [[Nirvana (ban nhạc)|Nirvana]] liên tục dành nhưng lời tán dương Adele trong các cuộc phỏng vấn.<ref>{{chú thích báo|last=|first=|title=Foo Fighters' Dave Grohl: 'I'm glad we're competing with Adele at Grammys'|url=http://www.nme.com/news/foo-fighters/61920|publisher=NME|date=ngày 8 tháng 2 năm 2012}}</ref><ref>{{chú thích báo|last=Halperin|first=Shirley|title=Grammys 2012: Dave Grohl and Butch Vig Reflect on Nirvana, Adele and the State of the Music Business (Q&A)|url=http://www.hollywoodreporter.com/news/dave-grohl-butch-vig-grammy-adele-nirvana-289304 |work=[[The Hollywood Reporter]] |date=ngày 10 tháng 2 năm 2012}}</ref> [[Slash]], cựu thành viên của [[Guns N' Roses]] nói: "Cô ấy thật tuyệt vời. Cô ấy là liều thuốc tốt cho nền công nghiệp này. Cô ấy viết thứ âm nhạc không hề giả tạo một chút nào của chính mình. Và cô ấy bán được rất nhiều bản thu và giúp cô ấy trở thành một ví dụ tuyệt vời cho các nghệ sĩ trẻ."<ref>{{Chú thích web|url=http://www.nme.com/news/slash/66405|tiêu đề=Slash: 'Adele is a shot in the arm for music|ngày=ngày 1 tháng 10 năm 2012|work=NME|ngày truy cập=ngày 18 tháng 9 năm 2014}}</ref>


[[Stevie Nicks]], giọng ca của nhóm [[Fleetwood Mac]], phát biểu về Adele trong một buổi diễn của nhóm rằng "Cô ấy là một nhạc sĩ tuyệt vời... Tôi từng nói với cô ấy rằng 'em sẽ là tôi trong vòng 40 năm nữa, em sẽ vẫn lên sân khấu và thể hiện những gì em đang làm nhờ khả năng sáng tác của em'."<ref>{{chú thích báo|title=Stevie Nicks dedicates 'Landslide' to Adele on opening night of Fleetwood Mac's UK tour|url=http://www.nme.com/news/fleetwood-mac/85746|work=NME|date=ngày 1 tháng 6 năm 2015}}</ref> Vào năm 2015, [[Pharrell Williams]] khen ngợi tài sáng tác của Adele trong buổi phỏng vấn tại lễ hội [[Cannes Lions]]: "Tôi nghĩ cô ấy là một nhạc sĩ đầy quyền năng, khi bạn lắng tai nghe album của cô, nó sống động và truyền ra hơi thở."<ref>{{chú thích báo|title=CANNES LIONS: 'Without a doubt Adele': Pharrell Williams says British singer is the main artist is the world 'getting it right'|url=http://www.dailymail.co.uk/home/canneslions/article-3135878/CANNES-LIONS-Pharrell-reveals-Adele-artist-getting-right.html|work=Daily Mail|date=ngày 23 tháng 6 năm 2015}}</ref>
[[Stevie Nicks]], giọng ca của nhóm [[Fleetwood Mac]], phát biểu về Adele trong một buổi diễn của nhóm rằng "Cô ấy là một nhạc sĩ tuyệt vời... Tôi từng nói với cô ấy rằng 'em sẽ là tôi trong vòng 40 năm nữa, em sẽ vẫn lên sân khấu và thể hiện những gì em đang làm nhờ khả năng sáng tác của em'."<ref>{{chú thích báo|title=Stevie Nicks dedicates 'Landslide' to Adele on opening night of Fleetwood Mac's UK tour|url=http://www.nme.com/news/fleetwood-mac/85746|work=NME|date=ngày 1 tháng 6 năm 2015}}</ref> Vào năm 2015, [[Pharrell Williams]] khen ngợi tài sáng tác của Adele trong buổi phỏng vấn tại lễ hội [[Cannes Lions]]: "Tôi nghĩ cô ấy là một nhạc sĩ đầy quyền năng, khi bạn lắng tai nghe album của cô, nó sống động và truyền ra hơi thở."<ref>{{chú thích báo|title=CANNES LIONS: 'Without a doubt Adele': Pharrell Williams says British singer is the main artist is the world 'getting it right'|url=http://www.dailymail.co.uk/home/canneslions/article-3135878/CANNES-LIONS-Pharrell-reveals-Adele-artist-getting-right.html|work=Daily Mail|date=ngày 23 tháng 6 năm 2015}}</ref>

Phiên bản lúc 10:06, ngày 14 tháng 6 năm 2018

Adele

Adele đang cười
Adele trong chuyến lưu diễn Adele Live 2016 của cô, tháng 3 năm 2016
SinhAdele Laurie Blue Adkins[1]
5 tháng 5, 1988 (35 tuổi)
Tottenham, Luân Đôn, Anh
Trường lớpTrường BRIT
Nghề nghiệp
  • Ca sĩ
  • người viết bài hát
Phối ngẫu
Simon Konecki
(cưới 2016)
Con cái1
Sự nghiệp âm nhạc
Thể loại
Nhạc cụ
  • Hát
  • guitar
  • trống
  • bass
Năm hoạt động2006–nay
Hãng đĩa

Adele Laurie Blue Adkins[1] MBE (/əˈdɛl/; sinh ngày 5 tháng 5 năm 1988), được biết đến nhiều hơn với cái tên ngắn gọn là Adele, là một ca sĩ, nhạc sĩ người Anh. Adele được đề nghị ký hợp đồng thu âm với hãng thu âm XL Recordings sau khi một người bạn của Adele đăng một bản demo của cô lên Myspace vào năm 2006. Năm tiếp theo cô nhận giải "Sự lựa chọn của Nhà phê bình" trong lễ trao giải Brit Awards và đoạt giải Sound of 2008 của kênh BBC. Album đầu tay của cô, 19 được phát hành vào năm 2008 với nhiều thành công cả về thương mại lẫn các ý kiến phê bình tại Anh. 19 được chứng nhận đĩa bạch kim bốn lần tại Anh Quốc và hai đĩa bạch kim tại Hoa Kỳ.[4][5] Sự nghiệp của cô tại Mỹ thăng tiến mạnh mẽ sau sự xuất hiện của cô trong chương trình Saturday Night Live vào cuối năm 2008. Tại lễ trao giải Grammy năm 2009, Adele đã nhận được giải Nghệ sĩ mới xuất sắc nhấtTrình diễn giọng Pop nữ xuất sắc nhất.[6][7][8]

Adele phát hành album thứ hai của cô - 21 vào đầu năm 2011.[9][10] Album nhận được nhiều nhận xét tích cực từ giới phê bình và thành công hơn về mặt thương mại so với album đầu tay, đem lại cho cô nhiều giải thưởng trong năm 2012 trong đó có việc cân bằng kỉ lục giành 6 giải Grammy trong một đêm của Beyoncé.[11][12][13] 21 đã được chứng nhận đĩa bạch kim 16 lần tại Anh,[4] còn tại Mỹ album giữ vị trí dẫn đầu trên bảng xếp hạng lâu hơn bất kỳ album nào kể từ năm 1985.[14][15] Album đến nay đã bán ra trên 30 triệu bản trên toàn cầu.[16][17] Ước tính Adele đã bán ra 40 triệu album và 50 triệu đĩa đơn trên toàn thế giới.[18]

21 cũng giúp Adele được ghi danh trong Sách Kỷ lục Guinness.[19] Cô là nữ nghệ sĩ đầu tiên trong lịch sử Billboard Hot 100 có cùng một lúc ba đĩa đơn trong top 10, có hai album trong top 5 Billboard 200 và hai đĩa đơn trong top 5 Billboard Hot 100.[20] Adele cũng là nghệ sĩ nữ có album (21) giữ vị trí đầu bảng trong nhiều tuần nhất trên các bảng xếp hạng album của Vương quốc Anh và Hoa Kỳ.[21][22] Trong hai năm liên tiếp (2011 và 2012) Adele được Billboard bầu chọn là Nghệ sĩ của năm.[23]

Vào năm 2012, Adele đứng thứ năm trong danh sách 100 Người phụ nữ vĩ đại nhất trong âm nhạc của VH1 còn tạp chí Time cũng bầu chọn cô là một trong những nhân vật ảnh hưởng nhất trên thế giới. Tại lễ trao giải Oscar lần thứ 85, Adele đã trở thành một trong 6 ca sĩ trong lịch sử giành giải Oscar cho hạng mục Ca khúc trong phim hay nhất với "Skyfall", bài hát chủ đề trong bom tấn cùng tên về James Bond.[24]

Những năm đầu đời

Adele được sinh ra tại Tottenham, phía bắc Luân Đôn vào ngày 5 tháng 5 năm 1988. Mẹ cô, bà Penny Adkins (sinh khoảng năm 1970) là người Anh, còn cha cô, Mark Evans, là một người xứ Wales.[25] Evans rời bỏ gia đình khi Adele lên hai tuổi, để người vợ trẻ 20 tuổi tự thân nuôi Adele, và Adele đã nói rằng cô sẽ không bao giờ tha thứ cho ông.[26][27] Cô bắt đầu ca hát từ năm bốn tuổi và cô khẳng định mình lúc đó cô bị ám ảnh bởi những giọng ca.[28][29] Lớn lên Adele giành nhiều thời gian để ca hát hơn là đọc sách, nói rằng cuốn sách cuối cùng cô đọc từ hồi sáu tuổi là Matilda của Roald Dahl.[30] Adele khẳng định nhóm nhạc Spice Girls là nguồn cảm hứng lớn cho Adele và nói rằng, "họ giúp cho tôi có được như ngày hôm nay."[31] Adele cũng kể lại rằng cô thường đóng giả làm một trong các thành viên của Spice Girls ở các bữa tiệc tối khi còn nhỏ.[32] Cô kể rằng mình đã rất "đau khổ" khi thành viên Spice Girl yêu thích của cô, Geri Halliwell hay "Ginger Spice," rời nhóm.[33][34] Để làm cho Adele trông giống như ca sĩ R&B và urban đương đại người Anh Gabrielle thời bấy giờ, mẹ cô đã làm cho cô một kiểu mắt lấp lánh sequin giống hệt như ca sĩ ấy mà theo Adele điều đó làm cô thấy xấu hổ.[35]

Năm 1997, Adele và mẹ cô, người vào thời điểm đó kiếm được một công việc thiết kế nội thất và tổ chức các hoạt động học tập của người lớn, chuyển tới Brighton.[36] Hai năm sau, cô và mẹ mình quay về Luân Đôn; đầu tiên là đến Brixton, sau đó là quận láng giềng West Norwood, phía nam Luân Đôn.[37] West Norwood là chủ đề cho bản thu âm đầu tiên của Adele mang tựa đề "Hometown Glory", được sáng tác khi cô mới 16 tuổi.[38] Sau khi chuyển đến nam Luân Đôn, cô bắt đầu hâm mộ những nghệ sĩ R&B như Aaliyah, Destiny's ChildMary J. Blige.[39]

Adele cho biết một trong những khoảnh khắc quyết định cuộc đời cô là khi xem Pink biểu diễn tại Học viện Brixton. "Cô ấy hát bài Missundaztood, lúc đó tôi chỉ khoảng 13 hay 14. Tôi chưa bao giờ nghe một ai, đặc biệt khi biểu diễn trong nhà, hát live hay như thế […] Tôi nhớ cảm giác như tôi đang ở trong một cái hầm thông gió, giọng ca của cô ấy như thúc giục tôi. Thật là tuyệt vời."[40][41]

Ở tuổi 14, Adele tình cờ biết đến Etta JamesElla Fitzgerald khi cô đi ngang qua dãy bán CD của các nghệ sĩ jazz tại một cửa hàng băng đĩa địa phương, và cô bị thu hút bởi hình ảnh của họ trên bìa đĩa nhạc.[38] Adele nói cô "bắt đầu nghe Etta James mỗi đêm một tiếng đồng hồ", và dần dần cô tự "khám phá ra giọng của chính mình".[38] Adele tốt nghiệp trường Biểu diễn nghệ thuật và Công nghệ BRIT tại Croydon vào tháng 5 năm 2006,[42], cũng là ngôi trường cô học chung với Leona LewisJessie J.[1][43] Adele tin rằng chính ngôi trường ấy đã nuôi dưỡng tài năng của mình[44] mặc dù vào thời điểm ấy, cô lại muốn học làm quản lý và phát hiện tài năng nghệ thuật, với mong muốn xây dựng sự nghiệp âm nhạc cho người khác.[1]

Sự nghiệp

2006–10: Những ngày đầu và album 19

Adele biểu diễn tại Kilburn, Luân Đôn vào năm 2007

Bốn tháng sau khi tốt nghiệp, cô phát hành hai ca khúc trong kỳ báo thứ tư của trang web âm nhạc Platforms Magazine.[45] Cô cũng thu âm một bản demo gồm 3 ca khúc cho một dự án ở lớp học và đưa cho một người bạn.[1] Chính người bạn này đã đăng nó lên mạng xã hội Myspace, nơi đưa cô đến những thành công bước đầu, đặc biệt là một cuộc gọi từ Richard Russell, ông bầu của hãng thu âm XL Recordings. Cô tỏ ra nghi ngờ về lời đề nghị hấp dẫn này bởi vì công ty thu âm duy nhất cô biết đến là Virgin Records, và cô quyết định dẫn theo người bạn đó cùng với mình đến buổi gặp mặt.[43]

Nick Huggett, người làm việc tại XL, giới thiệu người quản lý Jonathan Dickins tại công ty September Management cho Adele và vào tháng 6 năm 2006, Dickins trở thành người đại diện chính thức của cô.[46] Công ty September cũng đang quản lý Jamie T vào thời điểm ấy và đã lấy được niềm tin của Adele, vì cô cũng là một fan hâm mộ đối với Jamie T. Huggett sau đó đã ký hợp đồng với Adele và hãng XL vào tháng 9 năm 2006.[46] Adele góp giọng cho Jack Peñate trong ca khúc, "My Yvonne", nằm trong album đầu tay của anh, và đây cũng là thời điểm cô gặp gỡ nhà sản xuất Jim Abbiss, người đã nắm vai trò sản xuất phần lớn bài hát trong album đầu tay của cô - 19, và sau đó là album 21.[47] Bài hát bước ngoặt của Adele, "Hometown Glory", được phát hành vào tháng 10 năm 2007.[46] Adele đã hỗ trợ Will Young trong buổi hòa nhạc MENCAP Little Noise Sessions vào năm 2007, nhằm mục đích từ thiện cho Liên Đoàn công giáo tại Islington, Luân Đôn.

Vào năm 2008, cô được hát chính và biểu diễn acoustic với sự góp sức của Damien Rice.[48][49] Cô trở thành người đầu tiên nhận giải "Critics' Choice" của lễ trao giải BRIT và được bầu chọn là nghệ sĩ được dự đoán sẽ đột phá nhất năm 2008 của Sound of 2008, một cuộc bầu chọn thường niên của giới phê bình âm nhạc trên BBC.[50][51] 19, được đặt tên theo tuổi của Adele lúc cô viết các ca khúc trong album, xuất phát trên các bảng xếp hạng của Anh tại vị trí số 1. Bách khoa toàn thư Âm nhạc hiện đại của The Times gọi 19 là một bản ghi âm blue-eyed soul "căn bản".[52] Cô phát hành đĩa đơn thứ hai của mình mang tên "Chasing Pavements" vào ngày 14 tháng 1 năm 2008, hai tuần sau khi ra album đầu tay. Đĩa đơn đạt vị trí thứ hai trên bảng xếp hạng UK Singles Chart, và giữ nguyên vị trí này trong 4 tuần.[53] Adele được đề cử giải Mercury Prize năm 2008 cho album 19.[54] Cô cũng thắng một giải tại Urban Music Awards cho "Trình diễn Jazz hay nhất".[55] Cô đồng thời nhận một đề cử Q Awards trong hạng mục "Nghệ sĩ Đột phá"[56] và đề cử Music of Black Origin trong hạng mục Nữ ca sĩ Anh Quốc xuất sắc nhất.[57] Vào tháng 3 năm 2008, Adele ký hợp đồng với hãng Columbia Records và XL Recordings nhằm tấn công vào thị trường Mỹ.[58] Cô cũng bắt đầu một chuyến lưu diễn ngắn ngày tại Bắc Mỹ trong tháng này,[58] còn album 19 được phát hành tại Mỹ vào tháng 6.[44] Tạp chí Billboard nhận xét: "Adele thật sự có tiềm năng trở thành một trong những nghệ sĩ quốc tế đáng trân trọng và truyền cảm hứng nhất trong thế hệ của cô."[59] Chuyến lưu diễn toàn cầu An Evening with Adele bắt đầu từ tháng năm 2008 và kết thúc vào tháng 6 năm sau.

Adele biểu diễn trên sân khấu năm 2009

Cô sau đó hủy chuyến lưu diễn Mỹ năm 2008 để được ở cạnh bạn trai cũ. Cô nói với tạp chí Nylon vào tháng 6 năm 2009, "Tôi thấy là, 'Tôi không thể tin là mình lại làm vậy.' Có vẻ nó hơi vô tâm… Tôi đã uống hơi nhiều, và đó cũng là chuyện căn bản trong mối quan hệ giữa tôi và anh ta. Tôi không thể sống xa anh ấy, và tôi nghĩ, 'Thôi, OK, mình chỉ việc hủy mọi việc lại thôi'." Vào giữa tháng 10 năm 2008, có vẻ như nỗ lực của Adele tấn công vào thị trường Hoa Kỳ gần như thất bại.[60][61] Sau đó, cô hát với tư cách khách mời vào ngày 18 tháng 10 năm 2008 trong một tập của chương trình Saturday Night Live của đài NBC. Chương trình còn có sự xuất hiện của ứng viên phó tổng thống Mỹ Sarah Palin và tập này nhận được tỉ lệ xem cao nhất trong 14 năm với 17 triệu lượt xem. Adele đã biểu diễn 2 ca khúc "Chasing Pavements" và "Cold Shoulder",[62] và ngày hôm sau, album 19 đứng đầu bảng xếp hạng trên iTunes và xếp hạng 5 trên Amazon.com, trong khi đó bài hát "Chasing Pavements" leo lên đến hạng 25.[63] Album đạt vị trí 11 trên Billboard 200 tiếp theo đó, một bước nhảy đến 35 bậc so với tuần trước..[64]

Tháng 11 năm 2008, Adele chuyển đến Notting Hill sau khi rời nhà mẹ mình, một bước chuyển biến giúp cô dần từ bỏ rượu bia.[65] Album được chứng nhận vàng vào tháng 2 năm 2009 bởi Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ.[66] Đến tháng 7 năm 2009, album đã được bán 2,2 triệu bản trên toàn thế giới.[67]

Vào năm 2010, Adele nhận được một đề cử Grammy cho Giọng nữ Pop xuất sắc nhất với ca khúc "Hometown Glory".[68] Vào tháng 4, bài hát "My Same" của cô lọt vào bảng xếp hạng đĩa đơn của Đức sau khi được Lena Meyer-Landrut biểu diễn trong một chương trình tìm kiếm tài năng Unser Star für Oslo (Our Star for Oslo), chương trình để Đức chọn người cho cuộc thi Eurovision Song Contest 2010.[69][70] Vào cuối tháng 9, sau khi biểu diễn trên The X Factor, phiên bản "Make You Feel My Love" của Adele (bản gốc của Bob Dylan) tiếp tục lọt vào bảng xếp hạng đĩa đơn của Anh ở vị trí số 4.[71] Trong chương trình đặc biệt vào năm 2010 của CMT Artists of the Year, Adele biểu diễn song ca bài hát "Need You Now" của Lady Antebellum cùng Darius Rucker.[72] Màn trình diễn này sau đó được đề cử tại CMT Music Awards.[73]

2011–13: 21 và danh tiếng trên toàn thế giới

Adele biểu diễn tại Seattle, Washington vào ngày 12 thắng năm 2011

Adele phát hành album phòng thu thứ hai, 21, vào ngày 24 tháng 1 năm 2011 tại Anh và vào ngày 22 tháng 2 tại Hoa Kỳ.[74][75] Adele tiết lộ rằng album lấy cảm hứng từ cuộc tình đã lỡ với người bạn trai cũ.[27] Âm điệu của album được miêu tả là nhạc đồng quê cổ điển và đương đại cùng folk. Sự thay đổi này so với album đầu tiên đến từ lần Adele tình cờ nghe thấy người lái xe buýt bật nhạc đương đại từ Nashville khi đang lưu diễn tại miền Nam nước Mỹ. Tên của album cũng chỉ ra sự chuyển mình mà cô trải qua đã diễn ra hai năm trước khi album phát hành.[75] Adele nói trên tạp chí Spin: "Tôi thấy điều đó thật thú vị vì tôi chưa bao giờ lớn lên cùng [thứ âm nhạc ấy]."[9] 21 đạt vị trí số một tại 26 quốc gia, trong đó có Anh và Hoa Kỳ.[76][77][78]

Màn trình diễn đầy cảm xúc bài hát "Someone Like You" tại BRIT Awards 2011 vào ngày 15 tháng 2 năm 2011 góp phần đưa bài hát vươn lên vị trí số một tại Vương quốc Anh.[79] Album đầu tay 19 trở lại trên UK Albums Chart cùng 21 trong khi hai đĩa đơn "Rolling in the Deep" và "Someone Like You" có mặt trong top 5 UK Singles Chart, đưa Adele trở thành nghệ sĩ còn sống đầu tiên có hai bản thu trong top năm Official Singles Chart và Official Albums Chart cùng một lúc kể từ thời của The Beatles năm 1964.[80] Cả hai bài hát đều dẫn đầu tại nhiều thị trường và phá vỡ nhiều kỉ lục về doanh thu. Sau màn biểu diễn "Someone Like You" tại MTV Video Music Awards 2011, bài hát trở thành đĩa đơn quán quân thứ hai của Adele trên Billboard Hot 100.[81] Cho tới tháng 12 năm 2011, 21 đã bán ra 3,4 triệu bản tại Anh Quốc, trở thành album bán chạy nhất thế kỷ XXI, vượt qua Back to Black của Amy Winehouse,[82][83] còn Adele trở thành nghệ sĩ đầu tiên bán được ba triệu album tại Anh Quốc trong một năm.[84][85] "Set Fire to the Rain" trở thành đĩa đơn quán quân thứ ba của Adele trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100, giúp Adele trở thành nghệ sĩ đầu tiên có album vừa giữ vị trí quán quân trên Billboard 200 cùng lúc với ba đĩa đơn quán quân.[86]

Để quảng bá album, Adele khởi động chuyến lưu diễn "Adele Live" với đợt diễn tại Bắc Mỹ cháy vé hoàn toàn.[87] Vào tháng 10 năm 2011, Adele buộc phải hủy hai chuyến lưu diễn vì lý do xuất huyết dây thanh quản. Cô thông báo rằng mình cần phải nghỉ ngơi một thời gian dài để tránh tổn thương dài hạn tới giọng hát của cô.[88] Trong tuần đầu tiên của tháng 11 năm 2011, Steven M. Zeitels, giám đốc Trung tâm Phẫu thuật Thanh quản và Phục hồi giọng nói của Bệnh viện Tổng hợp Massachusetts, Boston đã thực hiện ca phẫu thuật hiển vi laser cắt bỏ một khối u lành khỏi dây thanh quản của Adele.[89][90][91]

Một bản thu cho chuyến lưu diễn của cô mang tên Live at the Royal Albert Hall được phát hành vào tháng 11 năm 2011, ra mắt ở Hoa Kỳ tại vị trí số một với 96.000 bản được tiêu thụ. Đây là lượng doanh thu cao nhất cho một DVD trong vòng bốn năm trở lại đây, và trở thành DVD âm nhạc bán chạy nhất năm 2011.[92] Adele là nghệ sĩ đầu tiên trong lịch sử Nielsen SoundScan có album quán quân của năm (21), đĩa đơn quán quân của năm ("Rolling in the Deep") và video âm nhạc số một của năm.[93] Tại American Music Awards 2011 vào ngày 20 tháng 11, Adele chiến thắng ba giải bao gồm Nghệ sĩ Nữ Pop/Rock Yêu thích, Nghệ sĩ Adult Contemporary Yêu thích, và Album Pop/Rock Yêu thích cho 21.[94] Vào ngày 9 tháng 12, Billboard chọn Adele là Nghệ sĩ của năm, Album Billboard 200 của năm (21) và Bài hát Billboard Hot 100 của năm ("Rolling in the Deep"), trở thành người phụ nữ đầu tiên đứng đầu cả ba hạng mục.[95][96]

Sau cuộc phẫu thuật thanh quản, Adele trở lại trên sân khấu vào tháng 2 năm 2012 tại Giải Grammy lần thứ 54.[97] Cô giành chiến thắng ở cả sáu hạng mục được đề cử, trở thành nghệ sĩ nữ thứ hai trong lịch sử giải Grammy sau Beyoncé giành chiến thắng lớn đến vậy trong một đêm.[98] Sau thành công này, 21 đạt lượng tăng doanh số bán ra hàng tuần cao nhất sau chiến thắng tại giải Grammy kể từ khi Nielsen SoundScan bắt đầu lưu trữ dữ liệu vào năm 1991.[99][100]

Adele nhận Giải Brit cho hạng mục Nghệ sĩ Solo Nữ Anh Xuất sắc nhất và Album Anh của năm được trao bởi George Michael.[101][102] Sau Giải Brit, 21 lần thứ 21 không lien tiếp đạt vị trí thứ nhất tại Anh Quốc.[103] Album đã bán ra trên 4,5 triệu bản tại Anh và là album bán chạy thứ bốn mọi thời đại.[104] Vào tháng 11 album vượt qua cột mốc 10 triệu bản tại Hoa Kỳ.[15][105][106] Adele là nghệ sĩ duy nhất trong mười năm nhận được chứng nhận kim cương từ Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ cho một album một đĩa trong khoảng thời gian chưa tới hai năm kể từ khi phát hành album đó.[105]

Vào tháng 10 năm 2012, Adele xác nhận rằng cô đang viết lời, sáng tác nhạc và thu âm bài hát chủ đề của Skyfall, bộ phim thứ hai mươi ba về James Bond.[107][108] Bài hát "Skyfall" được sáng tác cùng nhà sản xuất Paul Epworth, thu âm tại Abbey Road Studios và được phối nhạc giao hưởng bởi J. A. C. Redford.[109] Adele nói rằng được thu âm "Skyfall" là "một trong những kỉ niềm tự hào nhất đời tôi." Vào ngày 14 tháng 10, "Skyfall" vươn lên vị trí thứ 2 trên UK Singles Chart nhờ lượng bán ra 92.000 bản đưa tổng doanh thu lên con số 176.000. Điều này giúp "Skyfall" san bằng thành tích bài hát chủ đề phim James Bond xếp hạng cao nhất trên UK Singles Chart với "A View to a Kill" của Duran Duran.[110] Bài hát đứng thứ 8 trên Billboard Hot 100, tiêu thụ 261.000 trong ba ngày đầu tại Hoa Kỳ.[111] "Skyfall" đã bán ra hơn hai triệu bản trên toàn cầu[112] và mang về cho Adele Giải Quả cầu vàng cho Ca khúc nhạc phim hay nhất[113]Giải Oscar cho Ca khúc nhạc phim hay nhất.[114] Vào tháng 12 năm 2012, Adele được Billboard chọn là Nghệ sĩ của năm, còn 21 là Album của năm, giúp cô trở thành nghệ sĩ đầu tiên nhận cả hai danh hiệu trong hai năm liên tiếp.[115] Associated Press chọn Adele là Nghệ sĩ giải trí của năm 2012.[116] Tại Giải Grammy lần thứ 55 phần thể hiện trực tiếp bài hát "Set Fire to the Rain" của Adele giành Giải Grammy cho Trình diễn đơn ca pop xuất sắc nhất, đưa tổng số giải Grammy của cô lên con số 9.[117]

2013–2014: Vắng bóng

Vào ngày 3 tháng 4 năm 2012, Adele xác nhận rằng album thứ ba của cô sẽ chỉ có thể ra mắt sau hai năm nữa và nói rằng "Tôi cần dành thời gian và sống một chút. Khoảng thời gian hai năm giữa album thứ nhất và thứ hai từng diễn ra khá tốt đẹp, cho nên lần này vẫn sẽ thế thôi." Cô nói rằng mình vẫn sẽ tự sáng tác các sản phẩm âm nhạc.[118] Tại giải Grammy năm 2013, Adele khẳng định cô vẫn đang thực hiện những giai đoạn đầu tiên của album thứ ba cũng như có các buổi gặp mặt trong thời gian tại Los Angeles dự giải Oscar, mặc dù trước đó từng phủ nhận các tin đồn.[119][120] Cô cũng cho biết rất có khả năng Paul Epworth và cô sẽ tiếp tục hợp tác lần nữa.[119] Ngoài ra Kid Harpoon, James Ford, Damon Albarn, Phil Collins, Ryan TedderDiane Warren cũng là những cái tên có khả năng sẽ tham gia vào album.[121][122][123][124][125]

Vào tháng 9 năm 2013, Wiz Khalifa xác nhận anh và Adele đã cùng anh hợp tác trong một bài hát cho album chuẩn bị ra mắt Blacc Hollywood, mặc dù vậy nó đã không có mặt trong album như dự kiến.[126] Vào tháng 1 năm 2014, Adele nhận Giải Grammy thứ 10 với "Skyfall" ở hạng mục Ca khúc nhạc phim hay nhất tại Giải Grammy lần thứ 56.[127] Vào sinh nhật lần thứ 26 của cô vào tháng 5 năm 2014, Adele đăng tải một thông điệp đầy ẩn ý thông qua tài khoản Twitter của cô khiến giới truyền thông bắt đầu đưa tin về album tiếp theo của nữ ca sĩ người Anh. Tweet của Adele có nội dung "Bye bye 25... See you again later in the year," (Tạm dịch: "Tạm biệt 25 nhé... Hẹn gặp lại lần nữa vào năm sau") được một số báo như Daily MailCapital FM hiểu là tên album tiếp theo của cô sẽ mang tên 25 và sẽ phát hành năm sau.[128][129] Adele được đề cử 9 giải tại World Music Awards.[130] Vào đầu tháng 8 cùng năm, Paul Moss phát biểu rằng một album sẽ được phát hành vào năm 2014 hoặc 2015.[131]

2015–nay: Album phòng thu thứ ba

Cuối tháng 8 năm 2015, Billboard đưa tin hãng thu âm của Adele chuẩn bị phát hành album phòng thu thư ba của cô vào tháng 11.[132]

Ngày 20 tháng 10, năm 2015, album phòng thu thứ ba đã được hé lộ gồm 11 bài hát. "Hello" đánh dấu sự trở lại đầy ngoạn mục của Adele. Với những kỷ lục như, video đạt nhiều lượt xem nhất trong vòng 24 giờ trên YouTube (với 27,7 triệu lượt xem, vượt qua MV "Bad Blood" của Taylor Swift), là MV cán mốc 100 triệu lượt xem nhanh nhất trong vòng hơn 4 ngày (kỉ lục trước do Miley Cirus cùng với MV Wrecking Ball, mất 6 ngày để đạt được). Album với tên 25 đã được lên kệ và ra mắt toàn công chúng vào ngày 21 tháng 11 năm 2015, trong vòng chưa đầy một tuần, album này đã phá vỡ nhiều kỷ lục được tạo bởi các nghệ sĩ danh tiếng khác. Là album bán chạy nhất mọi thời đại tại Mỹ với hơn 3 triệu bảng được tiêu thụ trong 5 ngày đầu tiên, phá vỡ kỉ lục của NSYNC và Britney Spears lập ra cách đây 15 năm. Là album bán chạy nhất mọi thời đại tại UK với số lượng phát hành trên 700 nghìn bản tiêu thụ (vượt qua album Be Here Now, Oasis). Trong vòng một tuần sau khi phát hành, 25 phá vỡ kỉ lục thế giới của Utada Hikaru, trở thành album bán chạy nhất mọi thời đại trong vòng một tuần, với số liệu thống kê của Nielsen Music, 25 đã tẩu tán được 3,38 triệu bảng trong tuần đầu tiền ra mắt công chúng. 25 chính thức ghi tên mình vào sách kỉ lục thế giới: 25 - The All Time 1 Week Sales Record For Any Territory.

Đời tư cá nhân

Vào tháng 1 năm 2012 Adele được xác nhận hẹn hò với doanh nhân từ thiện và cựu học sinh Trường Eton Simon Konecki từ hè 2011.[133] Vào tháng 6 năm 2012, Adele thông báo cô và Konecki chuẩn bị đón đứa con đầu lòng.[134][135] Con trai của họ, Angelo, được sinh hạ vào ngày 19 tháng 10 năm 2012.[136] Adele và Konecki đã kiện thành công một cơ quan lưu trữ ảnh có trụ sở tại Anh vì vi phạm quyền riêng tư khi đã đăng những bức ảnh của con trai họ chụp vào năm 2013.[137][138]

Adele bị phê bình bởi một số người nổi tiếng như Karl Lagerfeld[139] hay Joan Rivers[140] vì cân nặng và thân hình của cô, nhưng ngược lại cũng nhận được sự ủng hộ của nhiều nghệ sĩ khác, trong khi chính Adele tuyên bố cô vẫn hạnh phúc với cân nặng của mình và sẽ chỉ thay đổi nếu nó ảnh hưởng tới sức khỏe hoặc đời sống tình dục.[141] Trong buổi phỏng vấn vào năm 2009, Adele nói rằng: "Tôi thích mình trông ưa nhìn, nhưng tôi luôn tìm thấy sự thỏa mãn về mặt thời trang. Tôi không nghĩ mấy cô gầy hấp dẫn đâu; phải vui vẻ và khỏe mạnh. Tôi chẳng hề gặp một vấn đề nào với vẻ ngoài của bản thân cả. Tôi thà đi ăn trưa với bạn tôi hơn là tới phòng tập thể thao."[30]

Về mặt chính trị, Adele ủng hộ Công đảng khi từng nói vào năm 2011 rằng cô là một "cô gái Công đảng chính hiệu"[142] Vào tháng 5 năm 2011, báo chí đưa tin về những bất đồng của cô về hệ thống thu thuế.[143] Sau thành công cùng album đầu tiên, Adele mua một ngôi nhà tại Notting Hill, Luân Đôn vào năm 2009.[144] Vào tháng 2 năm 2012, Adele và Konecki chuyển tới một khu biệt thự 10 phòng ngủ trị giá 7 triệu bảng trong khuôn khổ 25 mẫu đất ở West Sussex.[144] Sinh ra tại Tottenham, cô là cổ động viên của câu lạc bộ Tottenham Hotspur.[145]

Phong cách

Thời gian đầu, giới phê bình cho rằng giọng hát của cô phát triển và ấn tượng khả năng sáng tác, điều mà chính Adele cũng đồng tình.[147] Cô từng bày tỏ: "Tôi tự học cách hát từ việc nghe ở Ella Fitzgerald sự chính xác (acrobatics) và định lượng, ở Etta James sự nhiệt huyết và Roberta Flack sự kiểm soát."[148] Album đầu tay của Adele theo thể loại soul, với lời bài hát miêu tả nỗi buồn về chuyện tình cảm.[44] Thành công của cô đến giữa lúc có nhiều nghệ sĩ soul Anh Quốc khác, trong khi đó truyền thông Anh gọi cô là một Amy Winehouse mới.[1] Điều này được coi là Cuộc xâm lăng âm nhạc Anh Quốc thứ ba vào Hoa Kỳ.[43] Tuy nhiên Adele coi những sự so sánh cô với các nghệ sĩ soul khác là vô tâm và phản bác rằng "chúng tôi là một giới, không phải một thể loại".[44][60][149] AllMusic cho rằng "Adele đơn giản là quá ảo diệu để so sánh cô với ai khác."[38]

Adele nói Etta James là người có ảnh hưởng lớn nhất tới âm nhạc của cô.[150] Cô nói rằng trong quá trình trưởng thành cô nghe nhạc của Spice Girls,[151] The Cure,[152] Dusty Springfield,[153] Céline Dion,[154] Annie Lennox,[155]Pink.[156][157] Cô khẳng định mẹ cô, người vô cùng thân thiết với cô, đã truyền cho cô cảm hứng âm nhạc của Lauryn Hill, Mary J. BligeAlicia Keys.[158]

Ảnh hưởng

Sau khi album 19 ra mắt, Kanye WestBeyoncé là hai trong số các nghệ sĩ khen ngợi âm nhạc của Adele.[44] Beyoncé coi Adele là người có ảnh hưởng tới album của cô, 4.[159] Madonna bày tỏ mong muốn cộng tác với Adele và cô thổ lộ rằng: "Tôi nghĩ cô ấy thật xuất chúng, Tôi yêu cô ấy".

Celine Dion đã thể hiện ca khúc "Rolling in the Deep" tại buổi diễn của cô tại The Colosseum ở Caesars Palace sau khi nói với khán giả rằng "Tôi rất yêu mến Adele. Cô ấy thật đáng kinh ngạc."[160] Dave Grohl của Foo FightersNirvana liên tục dành nhưng lời tán dương Adele trong các cuộc phỏng vấn.[161][162] Slash, cựu thành viên của Guns N' Roses nói: "Cô ấy thật tuyệt vời. Cô ấy là liều thuốc tốt cho nền công nghiệp này. Cô ấy viết thứ âm nhạc không hề giả tạo một chút nào của chính mình. Và cô ấy bán được rất nhiều bản thu và giúp cô ấy trở thành một ví dụ tuyệt vời cho các nghệ sĩ trẻ."[163]

Stevie Nicks, giọng ca của nhóm Fleetwood Mac, phát biểu về Adele trong một buổi diễn của nhóm rằng "Cô ấy là một nhạc sĩ tuyệt vời... Tôi từng nói với cô ấy rằng 'em sẽ là tôi trong vòng 40 năm nữa, em sẽ vẫn lên sân khấu và thể hiện những gì em đang làm nhờ khả năng sáng tác của em'."[164] Vào năm 2015, Pharrell Williams khen ngợi tài sáng tác của Adele trong buổi phỏng vấn tại lễ hội Cannes Lions: "Tôi nghĩ cô ấy là một nhạc sĩ đầy quyền năng, khi bạn lắng tai nghe album của cô, nó sống động và truyền ra hơi thở."[165]

Danh sách đĩa nhạc

Lưu diễn

Giải thưởng

Tham khảo

  1. ^ a b c d e f Frehsée, Nicole (22 tháng 1 năm 2009). “Meet Adele, the U.K.'s Newest Soul Star” (PDF). Rolling Stone. tr. 26. Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “nicole” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
  2. ^ Cairns, Dan (1 tháng 2 năm 2009). “Blue-eyed soul: Encyclopedia of Modern Music”. The Sunday Times. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 6 năm 2011.
  3. ^ “Adele: New Record is 'Quite Different'. Spin. 2 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2011.
  4. ^ a b “Certified Awards Search”. British Phonographic Industry. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2011.
  5. ^ “Recording Industry Association of America”. RIAA. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2013.
  6. ^ “Brits on top: Duffy, Adele and Coldplay clinch top awards as they lead British winners at Grammys”. Daily Mail. Luân Đôn: Associated Newspapers. ngày 9 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2011.
  7. ^ Coldplay, Robert Plant, Radiohead, Duffy and Adele win at Grammy Awards, Daily Mirror, Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2011
  8. ^ “Grammys 2009: Selected winners”. BBC News. ngày 9 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2014.
  9. ^ a b “Adele: New Record is 'Quite Different'. Spin Magazine. ngày 2 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2011.
  10. ^ “Adele to Release '21' Sophomore Album in February Billboard ngày 2 tháng 11 năm 2010”. Billboard. ngày 14 tháng 9 năm 2009. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2011.
  11. ^ “Grammy Awards 2012: Adele wins six awards tying with Beyoncé for most trophies won in one night”. Telegraph. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2012.
  12. ^ “Grammys 2012 winners: Adele wins SIX Awards as music world remembers Whitney Houston | Mail Online”. Dailymail.co.uk. ngày 14 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2012.
  13. ^ “British soul singer Adele preps summer U.S. tour”. Los Angeles Times. ngày 8 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2011.
  14. ^ Caulfield, Keith (ngày 29 tháng 2 năm 2012). “Adele's '21': Longest-Running No. 1 Album Since 'Purple Rain'. Billboard. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2012.
  15. ^ a b Keith Caulfield (27 tháng 11 năm 2012). "Adele's '21' Hits 10 Million in U.S. Sales". Billboard.
  16. ^ Forde, Eamonn (ngày 9 tháng 7 năm 2014). “From Robin Thicke to Mariah and Mick: five blockbuster albums that bombed”. The Guardian. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2014.
  17. ^ Brandle, Lars (ngày 16 tháng 7 năm 2014). “Adele's Next Album and World Tour Confirmed? 'No Truth' in New Rumor”. Billboard. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2014.
  18. ^ “Our Beloved Adele The Legendary Singer!”. Arash. Beach-news.com. ngày 29 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2015.
  19. ^ Kaufman, Gil (ngày 14 tháng 9 năm 2011). “Adele, Lady Gaga, Justin Bieber Land New Guinness Records”. MTV. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2011.
  20. ^ Trust, Gary (ngày 23 tháng 2 năm 2012). “Analysis: How Adele Scored Two Titles Each in the Hot 100 & Billboard 200's Top Five”. Billboard. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2012.
  21. ^ “CBBC – Newsround – Adele makes music history again with album chart record”. BBC News. ngày 4 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2012.
  22. ^ 23 tháng 2 năm 2012/adele-breaks-whitney-record/3846972 “Adele breaks Houston's chart record” Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). Australian Broadcasting Corporation. ngày 23 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2012.
  23. ^ Caulfield, Keith (ngày 13 tháng 1 năm 2015). “Billboard's Artists of the Year: 1981-2014” (ngày 23 tháng 6 năm 2015). Billboard.
  24. ^ “2013 Oscars Nominees”. oscars. tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2013.
  25. ^ Patterson, Sylvia (ngày 27 tháng 1 năm 2008). “Mad about the girl”. The Guardian. Luân Đôn. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  26. ^ Haines, Chris. “Adele's Welsh father Mark Evans reveals his heartache over 'letting down' six-time Grammy Awards winner – Wales News – News”. WalesOnline. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2012.
  27. ^ a b Van, Jonathan. “Adele: One and Only – Magazine”. Vogue. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2012.
  28. ^ “Grammy-nominated Adele taking fame in stride”. The Baltimore Sun. ngày 15 tháng 1 năm 2009.
  29. ^ Otiji, Adaora (ngày 15 tháng 1 năm 2009). “Singing Stronger Every Day: Adele”. Express Night Out. Washington Post. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2012.
  30. ^ a b “Adele: 'I have all the say; I have power over everything I do'. Daily Mail. Luân Đôn. ngày 15 tháng 7 năm 2015.
  31. ^ Walker, Marie. “Adele: I Love the Spice Girls!”. Now Magazine. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2011.
  32. ^ “Chasing Adele”. Minneapolis Star Tribune. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2009.
  33. ^ "Adele: Geri Halliwell broke my heart". Now Magazine. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2015
  34. ^ Matt Doeden (2013). "Adele: Soul Music’s Magical Voice." p. 32. Twenty-First Century Books
  35. ^ Husband, Stuart (ngày 25 tháng 4 năm 2008). “Adele: young soul rebel”. The Daily Telegraph. Luân Đôn. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
  36. ^ Sylvia Patterson (ngày 27 tháng 1 năm 2008). “Interview: Adele Atkins, singer”. The Observer. Luân Đôn. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2011.
  37. ^ Heawood, Sophie (ngày 28 tháng 12 năm 2007). “Adele-ation starts here”. The Times. Luân Đôn.
  38. ^ a b c d Newman, Melinda (ngày 1 tháng 2 năm 2009). “Amy Who? Now, Adele's the One With the Buzz”. The Washington Post. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
  39. ^ “ADELE: Up close and personal”. Bluesandsoul.com. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2011. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  40. ^ “Adele – Defining Moments”. Spinner. ngày 23 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2012.
  41. ^ “Adele Says Hearing Pink Sing Changed Her Life”. Socialite Life. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2012.
  42. ^ Youngs, Ian (ngày 4 tháng 1 năm 2008). “Soul singers top new talent list”. BBC News. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2010.
  43. ^ a b c Collis, Clark (ngày 19 tháng 12 năm 2008), "Spotlight on... Adele". Entertainment Weekly. (1026):62
  44. ^ a b c d e “Interview: Adele—Singer and Songwriter—Blogcritics Music”. Blogcritics.org. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2011.
  45. ^ “Platform 04”. Platformsmagazine.com. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2011. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  46. ^ a b c “Interview with Jonathan Dickins”. HitQuarters. ngày 14 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2011.
  47. ^ Jones, Damian (ngày 6 tháng 4 năm 2009). “Peñate collaborates with Adele”. BBC News. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2011.
  48. ^ “Q&A: Adele's charity acoustic set BBC Radio 1”. BBC News. ngày 12 tháng 11 năm 2008. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2010.
  49. ^ “Adele hits the big time”. ITN. ngày 12 tháng 11 năm 2008.[liên kết hỏng]
  50. ^ Youngs, Ian (ngày 4 tháng 1 năm 2008). “Entertainment | Sound of 2008: Adele”. BBC News. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2012.
  51. ^ “Adele Wins Brits Critics Choice Award”. Billboard.com. ngày 14 tháng 9 năm 2009. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2012.
  52. ^ Cairns, Dan (ngày 1 tháng 2 năm 2009). “Blue-eyed soul: Encyclopedia of Modern Music The Times”. Luân Đôn. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
  53. ^ “This Week's Releases: ngày 21 tháng 1 năm 2008”. NME. UK. ngày 21 tháng 1 năm 2008.
  54. ^ Jade Wright (ngày 23 tháng 7 năm 2008). “Views & Blogs—Columnists—Echo columnists—Last Shadow Puppets tipped for Nationwide Mercury music prize”. Liverpool Echo. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2011.
  55. ^ “Winners for 6th Annual Urban Music Awards 2008 Announced”. Urban Music Awards. ngày 16 tháng 11 năm 2008. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2012.
  56. ^ “Duffy nominated for Q awards double Wales Online”. ngày 3 tháng 9 năm 2008.
  57. ^ “Estelle And Leona Lewis Lead 2008 Mobo Nominations”. Gigwise. ngày 11 tháng 9 năm 2008. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2011.
  58. ^ a b “Adele Inks U.S. Deal With Columbia”. Billboard. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2011.
  59. ^ Billboard – Google Books. Books.google.com. ngày 7 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2012.
  60. ^ a b 23 tháng 10 năm 2008-0002.html “The Richmond Times Dispatch” Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). ngày 23 tháng 10 năm 2008.[liên kết hỏng]
  61. ^ Reed, James (ngày 12 tháng 1 năm 2009). '19' going on superstar”. The Boston Globe.
  62. ^ “Saturday Night Live Season 34 Josh Brolin/Adele”. The New York Times. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2011.
  63. ^ “Adele enjoys an "SNL" bump”. Newsday. ngày 20 tháng 10 năm 2008.
  64. ^ “AC/DC Debuts At No. 1 With 784,000”. Billboard. ngày 29 tháng 10 năm 2008.
  65. ^ “Adele Explains Booze & Love Meltdown”. Contactmusic. ngày 8 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2011.
  66. ^ “Perry's Platinum Pucker”. RIAA. ngày 23 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2011.
  67. ^ “Adele 'puts career on hold for dog”. Digital Spy. ngày 21 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2011.
  68. ^ “TWO-TIME GRAMMY AWARD WINNER ADELE TO PERFORM ON CBS INTERACTIVE MUSIC GROUP'S "LIVE ON LETTERMAN" WEBCAST SERIES” (Thông cáo báo chí). CBS. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2012.
  69. ^ Klier, Marcus (ngày 2 tháng 2 năm 2010). “Live: First heat in Germany”. ESCToday. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2011.
  70. ^ (tiếng Đức)“Musicline.de – Chartverfolgung – Adele – My Same”. Media Control Charts. ngày 21 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2011.
  71. ^ “Oasis, Radiohead and Adele set for chart re-entries thanks to 'The X Factor'?”. NME. UK. ngày 29 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2011.
  72. ^ “Adele and Darius Rucker perform Need You Now on CMT Artists of the Year”. Kncifm.radio.com. ngày 16 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2011.
  73. ^ “2011 CMT Music Awards Nominees Revealed”. Country Music Television. 2011. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2011. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
  74. ^ “Adele to Release '21' Sophomore Album in February”. Billboard. ngày 2 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2011.
  75. ^ a b Levine, Nick (ngày 2 tháng 11 năm 2010). “Adele announces second album details”. Digital Spy. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2010. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  76. ^ Nick Clark (ngày 20 tháng 3 năm 2012). “Adele surges past The Dark Side of the Moon on inexorable voyage to stardom”. The Independent. Luân Đôn. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2012.
  77. ^ “ChartArchive – Adele – 21”. Chartstats.com. ngày 25 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2012.
  78. ^ Kaufman, Gil (ngày 16 tháng 3 năm 2011). “Lupe Fiasco's Lasers Blasts To Top Of Billboard 200”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2011. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  79. ^ “Adele's 'Someone Like You' Tops UK Singles Chart | Adele | News | MTV UK”. Mtv.co.uk. ngày 21 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2012.
  80. ^ Sean Michaels (22 tháng 2 năm 2024). “Adele matches the Beatles in latest chart success”. The Guardian. Luân Đôn. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2012. line feed character trong |date= tại ký tự số 13 (trợ giúp)
  81. ^ “Adele's 'Someone Like You' Soars To No. 1 On Hot 100”. Billboard. ngày 14 tháng 9 năm 2009. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2012.
  82. ^ Jones, Alan (ngày 4 tháng 12 năm 2011). “Official Album Chart analysis: Olly Murs becomes 10th X-Factor No.1”. Music Week. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2011.
  83. ^ “Adele's album is century's biggest”. MSN.co.uk. ngày 5 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2011.
  84. ^ Smirke, Richard (ngày 7 tháng 9 năm 2011). “Adele Makes U.K. Chart History: First Artist To Sell 3 Million Albums In Same Year”. Billboard.biz. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2012.
  85. ^ “07/09/2011 – Adele breaks Official Charts history with 3 million album sales”. Official Charts Company. ngày 7 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2012.
  86. ^ “Adele Makes Billboard History After 'Set Fire To The Rain' Tops US Chart”. Capital FM. ngày 27 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2012.
  87. ^ Jones, Anthony (ngày 15 tháng 12 năm 2010). “Adele Announces European Tour In Support Of "21". All Headline News. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2011.
  88. ^ Benjy Eisen (ngày 4 tháng 10 năm 2011). “Adele Cancels U.S. Tour Due to Illness”. Rolling Stone. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2012.
  89. ^ Colapinto, John (ngày 4 tháng 3 năm 2013), “Giving Voice: A Surgeon Pioneers Methods to Help Singers Sing Again”, The New Yorker: 48 to 57
  90. ^ “Adele: 'Throat Operation Was a Success'. Capital FM. ngày 14 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2012.
  91. ^ “MGH: Adele To Make Full Recovery After Vocal Surgery « CBS Boston”. Boston.cbslocal.com. ngày 7 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2012.
  92. ^ “Adele's New DVD "Live at the Royal Albert Hall" Is Best-Selling Music Video of 2011 – Music News – ABC News Radio”. Abcnewsradioonline.com. ngày 8 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2012.
  93. ^ “Week Ending Dec. 4, 2011. Albums: Headed for a Triple Crown”. Yahoo! Music.
  94. ^ “Adele and Taylor Swift rule at American Music Awards”. BBC. ngày 21 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2012.
  95. ^ Keith Caulfield (ngày 9 tháng 12 năm 2011). “The Year in Pop: Adele Makes History”. Billboard. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2012.
  96. ^ Sinha, Piya (ngày 10 tháng 12 năm 2011). “Adele makes Billboard history, named 2011 top artist”. Reuters. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2012.
  97. ^ “Adele to make comeback at Grammys after throat surgery”. Newsbeat. BBC. ngày 31 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2012.
  98. ^ “Grammy Awards 2012: Adele wins six awards tying with Beyoncé for most trophies won in one night”. The Daily Telegraph. Luân Đôn. ngày 13 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2012.
  99. ^ “Adele's '21' Earns Biggest Sales Gain In SoundScan History”. Billboard. ngày 14 tháng 9 năm 2009. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2012.
  100. ^ Kaufman, Gil (ngày 22 tháng 2 năm 2012). “Adele Breaks Record By Selling 730,000 After Grammys – Music, Celebrity, Artist News”. MTV.com. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2012.
  101. ^ “Brit Awards 2012: List of winners”. BBC. ngày 21 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2012.
  102. ^ Matthew Perpetua (ngày 12 tháng 1 năm 2012). “Adele, Coldplay Lead BRIT Award Nominations | Music News”. Rolling Stone. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2012.
  103. ^ “Adele overtakes Michael Jackson in all-time biggest selling albums cha”. Theofficialcharts.com. ngày 28 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2012.
  104. ^ “Adele overtakes Oasis to become the fourth biggest selling album of all-time”. ngày 29 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2012.
  105. ^ a b “RIAA – Adele Earns RIAA Diamond for "21". ngày 28 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2012.
  106. ^ Gein, Paul (ngày 28 tháng 11 năm 2012). “Chart Watch Extra: Adele Tops 10 Million”. Yahoo! Music. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2012.
  107. ^ "Adele confirms Skyfall Bond theme song" BBC Newsbeat, retrieved ngày 1 tháng 10 năm 2012
  108. ^ "1 tháng 10 năm 2012/adele-to-sing-theme-to-new-james-bond-film-skyfall/ Adele to sing theme to new James Bond film Skyfall". ITV.com. Truy cập 1 tháng 10 năm 2012
  109. ^ “SKYFALL OFFICIAL THEME SONG NEWS RELEASE TO COINCIDE WITH BOND'S 50TH ANNIVERSARY”. 007.com. ngày 1 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2012.
  110. ^ “Swedish House Mafia deny Adele a Number 1 single for a second week”. The Official Charts Company. ngày 14 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2012.
  111. ^ “Adele's 'Skyfall' Not a Lock for U.K. No. 1”. Billboard. ngày 10 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2012.
  112. ^ “Adele Sets New Record For US Album Sales”. Sky News. British Sky Broadcasting. ngày 29 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2014.
  113. ^ “The 70th Annual Golden Globe Awards, Winners List”. HFPA. ngày 14 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2013.
  114. ^ “Adele Skyfall wins best song Oscar”. BBC News. ngày 25 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2013.
  115. ^ “Adele named Billboard top artist of 2012”. BBC News. ngày 16 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2014.
  116. ^ “Adele Named AP Entertainer of the Year”. Billboard. ngày 20 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2012.
  117. ^ “Grammys: Adele Wins Best Pop Solo Performance”. Sky News. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2013.
  118. ^ Kaufman, Gil. (3 tháng 4 năm 2012) "Adele To Release New Single This Year". MTV. Truy cập 19 tháng 10 năm 2012
  119. ^ a b “Adele Talks New Music in Los Angeles”. Billboard. ngày 19 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2013.
  120. ^ “Adele says she'll record a new album when she 'has something to sing about'. NME. ngày 2 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2014.
  121. ^ “Adele back in the studio recording the follow-up to '21'?”. NME. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2013.
  122. ^ “Adele, Phil Collins Working on New Music Together”. Billboard. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2014.
  123. ^ “Adele is working on a new album and she's sounding 'even better than before'. Cosmopolitan UK. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2013.
  124. ^ “Interview: William Orbit”. m-magazine. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2013.
  125. ^ Myers, Justin (ngày 18 tháng 1 năm 2014). “21 things to get excited about in 2014”. Official Charts Company. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2014.
  126. ^ “Wiz Khalifa scraps his collaboration with Adele”. NME. ngày 24 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2014.
  127. ^ “56th Annual GRAMMY Awards Nominees”. Grammy. ngày 6 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2013.
  128. ^ Leyfield, James (ngày 5 tháng 5 năm 2014). “Adele drops biggest hint yet she is to release a third album imminently”. Daily Mail. Luân Đôn. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2014.
  129. ^ “Adele Teases New Album '25' On Twitter”. Capital FM. ngày 5 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2014.
  130. ^ “World Music Awards Nominations 2014”. Awards & Winners. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2014.
  131. ^ Frank, Alex (ngày 11 tháng 9 năm 2014). “Waiting for New Albums From Rihanna, Adele, Frank Ocean, and Robyn”. Vogue. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2014.
  132. ^ Rayne, Naja (ngày 27 tháng 8 năm 2015). “Adele's New Album Due Out in November": Report”. People. Time Inc. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2015.
  133. ^ “Adele Is Pregnant!”. Us Weekly. ngày 29 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2012.
  134. ^ Adele (ngày 29 tháng 6 năm 2012). “I've got some news...”. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2012.
  135. ^ “Adele pregnant with first child”. Belfast Telegraph. ngày 29 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2012.
  136. ^ Malec, Brett (ngày 26 tháng 6 năm 2013). “Adele's Baby Boy Angelo: See Photos of His Adorable Face!”. E!. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2014.
  137. ^ “Adele's son gets payout in privacy case”. The Guardian. ngày 23 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2014.
  138. ^ “Singer Adele wins damages over paparazzi photos of son”. BBC News. ngày 23 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2014.
  139. ^ Marcus, Stephanie (ngày 9 tháng 2 năm 2012). “Adele Responds To Karl Lagerfeld's 'Fat' Remark”. The Huffington Post. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2013.
  140. ^ Johnson, Zach (ngày 31 tháng 3 năm 2013). “Joan Rivers Calls Adele 'Chubby,' Says the Singer Should 'Lose Weight'. Us Weekly. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2013.
  141. ^ Johnson, Zach (ngày 9 tháng 11 năm 2012). “Adele: 'I Would Only Lose Weight If It Affected My Health or Sex Life'. Us Weekly. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2013.
  142. ^ “Adele slams David Cameron as a Wally”. Daily Mirror (ngày 29 tháng 5 năm 2011). ngày 5 tháng 5 năm 2015.
  143. ^ Fitzpatrick, Rob (ngày 25 tháng 5 năm 2011). “Adele's tax grievances won't resonate with fans”. The Guardian. Luân Đôn. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2014.
  144. ^ a b "A home triumph for gifted Adele: From dingy flat to £7M mansion for music megastar". Daily Mail. Truy cập 13 tháng 7 năm 2012
  145. ^ Smart, Gordon (ngày 13 tháng 1 năm 2011). “Adele: Harry Redknapp, P Diddy and Sarah Palin... I've made a fool of myself in front of them all”. The Sun. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2012.
  146. ^ Murphy, John (ngày 24 tháng 1 năm 2011). “Adele: 21 Review”. MusicOMH. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2011.
  147. ^ 22 tháng 1 năm 2009/music/despite-four-grammy-nominations-adele-is-figuring-out-how-to-be-herself/ “Despite four Grammy nominations, Adele is figuring out how to be herself Westworld ngày 21 tháng 1 năm 2009” Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp).
  148. ^ “Adele Bio”. Myplay.com. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2014.
  149. ^ Pool, Hannah (ngày 11 tháng 12 năm 2008). “Adele Guardian Interview”. The Guardian. Luân Đôn. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
  150. ^ “ADELE: Up close and personal”. Bluesandsoul.com. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2013.
  151. ^ “Hot 100: Adele on the Spice Girls”. Billboard. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2013.
  152. ^ Matt Doeden (2013). "Adele: Soul Music’s Magical Voice". tr. 72. Twenty-First Century Books.
  153. ^ “The Highlighter presents – Musical Influences: Adele”. Nyunews.com. ngày 14 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2013.
  154. ^ Patterson, Sylvia (ngày 27 tháng 1 năm 2008). “Mad about the girl”. The Observer. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2014.
  155. ^ "Providing soundtrack to our lives: Annie Lennox feted by Tutu, Elton, Adele". Sunday Herald. Truy cập 12 tháng 11 năm 2014
  156. ^ “Adele – Defining Moments”. Spinner. ngày 23 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2012.
  157. ^ “Adele Says Hearing Pink Sing Changed Her Life”. Socialite Life. ngày 23 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2012.
  158. ^ Toure (ngày 28 tháng 4 năm 2011). “Adele Opens Up About Her Inspirations, Looks and Stage Fright: Pop's biggest voice of 2011 runs on cigarettes, red wine and high-octane heartbreak”. Rolling Stone. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2013.
  159. ^ “Beyonce inspired by Adele and Florence And The Machine on new album '4'. NME. ngày 3 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2011.
  160. ^ Greenwald, David (ngày 12 tháng 6 năm 2012). “Celine Dion Covers Adele at Vegas Show”. Billboard. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2012.
  161. ^ “Foo Fighters' Dave Grohl: 'I'm glad we're competing with Adele at Grammys'. NME. ngày 8 tháng 2 năm 2012.
  162. ^ Halperin, Shirley (ngày 10 tháng 2 năm 2012). “Grammys 2012: Dave Grohl and Butch Vig Reflect on Nirvana, Adele and the State of the Music Business (Q&A)”. The Hollywood Reporter.
  163. ^ “Slash: 'Adele is a shot in the arm for music”. NME. ngày 1 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2014.
  164. ^ “Stevie Nicks dedicates 'Landslide' to Adele on opening night of Fleetwood Mac's UK tour”. NME. ngày 1 tháng 6 năm 2015.
  165. ^ “CANNES LIONS: 'Without a doubt Adele': Pharrell Williams says British singer is the main artist is the world 'getting it right'. Daily Mail. ngày 23 tháng 6 năm 2015.

Liên kết ngoài

Giải thưởng và thành tích
Tiền nhiệm:
Amy Winehouse
Giải Grammy cho Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất
2009
Kế nhiệm:
Zac Brown Band
Tiền nhiệm:
Mika
Sound of... (BBC)
2008
Kế nhiệm:
Little Boots
Tiền nhiệm:
Jack WhiteAlicia Keys
"Another Way to Die", 2008
Bài hát chính phim James Bond
"Skyfall", 2012
Kế nhiệm:
Sam Smith
"Writing's on the Wall", 2015