Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Xung đột Ả Rập-Israel”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 43: Dòng 43:


Israel [[Tuyên bố thành lập nhà nước Israel|tuyên bố độc lập]] ngày [[14]] tháng 5 năm [[1948]]. Hầu như ngay lập tức, [[Ai Cập]], [[Liban]], [[Syria]], [[Transjordan]] và [[Iraq]] tuyên bố chiến tranh với nhà nước non trẻ. Tới cuối cuộc [[Chiến tranh Ả Rập-Israel 1948]], Israel đã mở rộng thêm khá nhiều biên giới của mình, và ký kết [[Những thỏa thuận đình chiến năm 1949|những thỏa thuận ngừng bắn]] với các nước Ả Rập láng giềng.<ref name="Encarta: Israel">"Israel." ''Encarta Encycolpedia.'' http://encarta.msn.com/encyclopedia_761575008_10____75/Israel_(country).html#s75</ref>
Israel [[Tuyên bố thành lập nhà nước Israel|tuyên bố độc lập]] ngày [[14]] tháng 5 năm [[1948]]. Hầu như ngay lập tức, [[Ai Cập]], [[Liban]], [[Syria]], [[Transjordan]] và [[Iraq]] tuyên bố chiến tranh với nhà nước non trẻ. Tới cuối cuộc [[Chiến tranh Ả Rập-Israel 1948]], Israel đã mở rộng thêm khá nhiều biên giới của mình, và ký kết [[Những thỏa thuận đình chiến năm 1949|những thỏa thuận ngừng bắn]] với các nước Ả Rập láng giềng.<ref name="Encarta: Israel">"Israel." ''Encarta Encycolpedia.'' http://encarta.msn.com/encyclopedia_761575008_10____75/Israel_(country).html#s75</ref>
Một số người sử dụng thuật ngữ "Xung đột Trung Đông" để chỉ vấn đề này; tuy nhiên, đây là vùng đã xảy ra nhiều cuộc xung đột không có sự tham gia của Israel (xem Danh sách những cuộc xung đột tại Trung Đông). Từ năm 1979, cuộc xung đột có thêm sự hiện diện của nước Cộng hòa Hồi giáo Iran (một quốc gia không Ả Rập, không nổi bật trên bản đồ).

Dù chỉ xảy ra trên một diện tích địa lý và với số lượng thương vong khá nhỏ, cuộc xung đột đã trở thành tâm điểm quan tâm của truyền thông quốc tế cũng như sự chú ý của giới ngoại giao trong nhiều thập kỷ, có lẽ bởi trữ lượng dầu mỏ to lớn trong vùng, dù thực tế rằng Israel thực tế không sở hữu bất kỳ nguồn tài nguyên dầu mỏ nào,[1] và cả Liban cũng như Chính quyền Palestine cũng không hề có[2]. Hơn nữa, nhiều quốc gia, cá nhân và các tổ chức phi chính phủ ở khắp nơi trên thế giới đều cảm thấy mình có liên quan tới cuộc xung đột này vì những lý do như quan hệ văn hóa và tôn giáo với Đạo Hồi, văn hóa Ả Rập, Thiên Chúa giáo, Do Thái giáo hay Văn hóa Do Thái, hay vì ý thức hệ, nhân quyền, chiến lược hay các lý do tài chính khác.

Vì Israel là một chế độ dân chủ với hệ thống báo chí tự do, truyền thông được phép tiếp cận cuộc xung đột và nhờ thế cuộc xung đột cũng được tường thuật nhiều hơn. Một số người coi cuộc xung đột Ả Rập-Israel là một phần của (hay là dấu hiệu cảnh báo trước của) một sự xung đột giữa các nền văn minh lớn hơn giữa Thế giới phương Tây và Ả Rập hay Thế giới Hồi giáo.[3][4] Những người khác cho rằng sự liên quan tôn giáo là một vấn đề khá mới trong cuộc xung đột này.[5] Cuộc xung đột này đã gây ra tình trạng thù địch và nhiều cuộc tấn công lẫn nhau từ phía những người ủng hộ (hay được cho là ủng hộ) từ phía các bên đối nghịch tại các quốc gia trên toàn thế giới.

Xem thêm: Lịch sử Trung Đông
Lịch sử cuộc xung đột
Bài chi tiết: Lịch sử cuộc Xung đột Ả Rập-Israel
Khởi đầu-1948
Cuộc di cư Do Thái vào Vùng đất Israel/Palestine dưới thời cầm quyền của Đế chế Ottoman và sau này dưới thời ủy trị Anh đã làm gia tăng căng thẳng giữa dân tộc Do Thái và các sắc dân Ả Rập trong vùng.[6]

Tới cuối Chiến tranh thế giới thứ hai, cuộc xung đột đã trở thành một vấn đề quốc tế lớn. Liên hiệp quốc, Hoa Kỳ và Liên bang Xô viết quyết tâm đưa ra một giải pháp hai quốc gia. Cuộc phân chia do Liên hiệp quốc ủy nhiệm được tiến hành năm 1948, nhưng bị người Palestine và nhiều quốc gia Ả Rập phản đối.[7]

Israel tuyên bố độc lập ngày 14 tháng 5 năm 1948. Hầu như ngay lập tức, Ai Cập, Liban, Syria, Transjordan và Iraq tuyên bố chiến tranh với nhà nước non trẻ. Tới cuối cuộc Chiến tranh Ả Rập-Israel 1948, Israel đã mở rộng thêm khá nhiều biên giới của mình, và ký kết những thỏa thuận ngừng bắn với các nước Ả Rập láng giềng.[8]

1949-11 tháng 6 năm 1967
Năm 1954, Ai Cập bắt đầu phong toả Eo Tiran, ngăn cản mọi con tàu tới Eilat.[9] Ngày 26 tháng 7 năm 1956, Ai Cập quốc hữu hóa Công ty Kênh đào Suez, và đóng cửa kênh đào này với tàu bè Israel.[10]

Israel trả đũa ngày 29 tháng 10 năm 1956, bằng cách xâm chiếm Bán đảo Sinai với sự hỗ trợ của Anh và Pháp. Trong cuộc Khủng hoảng kênh đào Suez, Israel đã chiếm Dải Gaza và Bán đảo Sinai. Hoa Kỳ và Liên hiệp quốc nhanh chóng gây sức ép buộc nước này ngừng chiến,[10][11] mở lại đường biển trong khu vực, hoàn thành việc rút hoàn toàn quân đội Israel khỏi lãnh thổ Ai Cập, và giải giáp hoàn toàn Sinai. Lực lượng Khẩn cấp Liên hiệp quốc (UNEF) được triển khai để giám sát việc giải giáp.[12]

Ngày 19 tháng 5 năm 1967, Ai Cập trục xuất các quan sát viên UNEF,[13] và triển khai 100.000 binh sĩ tại Bán đảo Sinai.[14] Sau đó nước này đóng cửa Eo Tiran đối với tàu bè Israel,[15][16] khiến tình hình khu vực quay trở lại như giai đoạn trước năm 1956. Ngày 30 tháng 5 năm 1967, Jordan tham gia một hiệp ước phòng vệ chung với Ai Cập và Syria. Tổng thống Nasser tuyên bố: "Mục tiêu căn bản của chúng ta là phá huỷ Israel. Người Ả Rập muốn chiến đấu."[17]

Để trả đũa, ngày 5 tháng 6 Israel tung hầu hết tất cả máy bay của mình vào một cuộc tấn công không quân phủ đầu vào Ai Cập. Không quân Israel (AIF) đã tiêu diệt hầu hết Không quân Ai Cập - vẫn đang bất ngờ trước cuộc tấn công, sau đó quay về phía đông tiêu diệt nốt các lực lượng không quân Jordan, Syria và Iraq.[18] Cuộc tấn công này là yếu tố chủ chốt dẫn tới chiến thắng của Israel trong cuộc Chiến tranh Sáu Ngày.[14][16]

12 tháng 6 năm 1967-1973
Mùa hè năm 1967, các lãnh đạo Ả Rập gặp mặt tại Khartoum về cuộc chiến tranh nhằm tìm ra một lập trường chung với Israel. Họ đạt đến đồng thuận như sau:

Không công nhận Nhà nước Israel.
Không có hòa bình với Israel.
Không đàm phán với Israel.[19]
Năm 1969, Ai Cập đưa ra sáng kiến Chiến tranh Tiêu hao, với mục tiêu làm kiệt quệ nhà nước Israel buộc họ đầu hàng tại Bán đảo Sinai.[20] Cuộc chiến tranh chấm dứt với cái chết của Nasser năm 1970.

Ngày 6 tháng 10 năm 1973, Syria và Ai Cập tấn công Israel vào ngày lễ Yom Kippur, lấn lướt lực lượng quân sự bất ngờ của Israel.[21][22] Cuộc Chiến tranh Yom Kippur ảnh hưởng tới sự đối đầu gián tiếp giữa Hoa Kỳ và Liên bang Xô viết. Khi Israel đã chiếm lại ưu thế trên chiến trường, Liên bang Xô viết đã đe dọa can thiệp quân sự. Hoa Kỳ, thận trọng với cuộc chiến tranh hạt nhân, đã giàn xếp một cuộc ngưng bắn ngày 25 tháng 10.[21][22]

1974-2000
Ai Cập
Sau Hiệp ước Trại David cuối thập kỷ 1970, Israel và Ai Cập đã ký kết một hiệp ước hòa bình vào tháng 3 năm 1979. Theo những điều khoản của nó, Bán đảo Sinai được trao trả lại cho Ai Cập, và Dải Gaza tiếp tục nằm dưới quyền kiểm soát của Israel, sẽ được gộp vào trong nhà nước Palestine tương lai.[23]

Jordan
Tháng 10 năm 1994, Israel và Jordan đã ký kết một hiệp ước hòa bình, quy định sự hợp tác song phương, một sự kết thúc những sự thù địch, và một giải pháp với những vấn đề còn chưa được giải quyết.[8]

Iraq
Tháng 6 năm 1981, Israel đã thành công trong việc tấn công phá hủy cơ sở hạt nhân mới được xây dựng của Iraq trong Chiến dịch Opera.

Trong Chiến tranh Vùng Vịnh, Iraq đã bắn 39 tên lửa vào Israel, với hy vọng thống nhất thế giới Ả Rập chống lại liên quân đang tìm cách giải phóng Kuwait. Trước yêu cầu của Hoa Kỳ, Israel đã không trả đũa các cuộc tấn công này nhằm ngăn chặn sự bùng phát thêm của cuộc chiến.[8]

Liban
Năm 1970, sau một cuộc nội chiến kéo dài, vua Hussein đã trục xuất PLO khỏi Jordan. PLO chuyển sang đóng tại Liban và từ đó tung ra các cuộc tấn công nhằm vào Israel. Năm 1981, Syria, đồng minh của PLO, bố trí tên lửa tại Liban. Tháng 6 năm 1982, Israel xâm chiếm Liban. Trong vòng 2 tháng, PLO đã đồng ý rút lui.

Tháng 3 năm 1983, Israel và Liban ký kết một thỏa thuận ngừng bắn. Tuy nhiên, Syria đã gây sức ép buộc Tổng thống Amine Gemayel phải hủy bỏ hiệp ước này vào tháng 3 năm 1984. Tới năm 1985, các lực lượng Israel hầu như đã rút toàn bộ khỏi Liban,[8] Israel đã hoàn thành việc rút quân vào tháng 5 năm 2000, để lại một khoảng trống quyền lực và Syria cùng Hezbollah đã nhanh chóng nắm lấy. [24]

Palestine
Năm 1987, Phong trào Intifada lần thứ nhất bắt đầu. PLO bị trục xuất khỏi các cuộc đàm phán để giải quyết vấn đề cho tới khi họ công nhận Israel và từ bỏ chủ nghĩa khủng bố trong năm sau đó. Năm 1993, Israel và PLO đã ký kết Hiệp ước hòa bình Oslo, và bản "Tuyên bố về các Nguyên tắc" của họ, cùng với Tiến trình hòa bình, đã được coi là kim chỉ nam cho những quan hệ Israel-Palestine từ đó tới nay. [8]

2000-hiện nay
Để chống lại al-Aqsa Intifada, Israel đã tung ra cái gọi là cuộc tấn công vào các cơ sở khủng bố tại các trung tâm đô thị chính ở Bờ Tây năm 2002. Bạo lực một lần nữa lại lan tràn trong vùng. Với hy vọng tái khởi động tiến trình hòa bình, thủ tướng Israel Ariel Sharon đã bắt đầu chương trình đơn phương rút quân khỏi Dải Gaza năm 2003. Chính sách này được thực thi toàn bộ vào tháng 8 năm 2005.[25]

Tháng 7 năm 2006, các chiến binh Hezbollah đã tấn công một đoàn xe quân sự Israel, bắt cóc hai binh sĩ và giết hại bảy người khác, dẫn tới cuộc Xung đột Israel-Liban năm 2006.[23] Một cuộc ngừng bắn được Liên hiệp quốc bảo trợ bắt đầu có hiệu lực ngày 14 tháng 8 năm 2006, chính thức chấm dứt cuộc xung đột.[26]

Chú thích
^ CIA World Factbook. Israel
^ “The Greening Of The Middle East: Oil for Feud”. Đã bỏ qua tham số không rõ |source= (trợ giúp)
^ Abdel Mahdi Abdallah (Dec. 2003), More specifically, author Edward Said affirms his belief that if a solution can be found in Israel, the global community may be able to follow this guideline, generating peace and understanding between the cultures of the East and West. "Causes of Anti-Americanism in the Arab World: A Socio-Political Perspective," Middle East Review of International Affairs (MERIA) 7.4, accessed January 9, 2007.
^ Section 2: "Clash of Civilizations," in Arab-Israeli Conflict: Role of religion, Israel Science and Technology ("the national database and directory of science and technology related sites in Israel"), (c) 1999-2007, accessed January 9, 2007.
^ Ibrahim Al-Khouli and Wafa Sultan (February 21, 2006), "Arab-American Psychiatrist Wafa Sultan: There is No Clash of Civilizations but a Clash between the Mentality of the Middle Ages and That of the 21st Century," Clip No. 1050, printable transcript of television interview with Sultan conducted by Al-Khouli, broadcast on Al Jazeera, online posting, Middle East Media Research Institute (MEMRI) February 22, 2006, accessed January 9, 2007.
^ Sela, Avraham. "Arab-Israeli Conflict." The Continuum Political Encyclopedia of the Middle East. Ed. Avraham Sela. New York: Continuum, 2002. pp. 58-121.
^ “The incredible shrinking Palestine”. Đã bỏ qua tham số không rõ |source= (trợ giúp)
^ a ă â b c "Israel." Encarta Encycolpedia. http://encarta.msn.com/encyclopedia_761575008_10____75/Israel_(country).html#s75
^ “Background Note: Israel”. US State Department. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2007.
^ a ă “1956: Egypt Seizes Suez Canal”. British Broadcasting Service. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2007.
^ “UN GA Resolution 997”. Mideast Web. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2007.
^ http://encarta.msn.com/encyclopedia_761575008_10/Israel.html
^ “UN: Middle East - UNEF I, Background”. United Nations. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2007.
^ a ă Lorch, Netanel. “The Arab-Israeli Wars”. Israeli Ministry of Foreign Affairs. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2007. Đã bỏ qua tham số không rõ |publishdate= (trợ giúp) Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “MFA: The Arab-Israeli Wars” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
^ 'Egypt Closes Gulf Of Aqaba To Israel Ships: Defiant move by Nasser raises Middle East tension', The Times, Tuesday, May 23, 1967; pg. 1; Issue 56948; col A.
^ a ă “The Disaster of 1967”. The Jordanian Government. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2007.
^ “1967: Egypt and Jordan Unite Against Israel”. British Broadcasting Service. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2007.
^ “Course of the Six Day War”. Palestine Facts. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2007.
^ “President Mubarak Interview with Israeli TV”. Egyptian State Information Service. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2007. Đã bỏ qua tham số không rõ |publishdate= (trợ giúp)
^ “Israel: The War of Attrition”. Encyclopedia Britannica. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2007.
^ a ă “Israel: The Yom Kippur War”. Encyclopedia Britannica. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2007.
^ a ă “Arab-Israeli War of 1973”. Encarta Encyclopedia. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2007. Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “Encarta: Arab-Israeli War of 1973” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
^ a ă "Israel." Encarta Encycolpedia. http://encarta.msn.com/encyclopedia_761575008_11/Israel.html Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “Encarta” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
^ "After the cease-fire." Brandeis University. http://my.brandeis.edu/news/item?news_item_id=105605&show_release_date=1
^ "Special Update: Disengagement - August 2005". Israeli Ministry of Foreign Affairs. http://www.mfa.gov.il/MFA/History/Modern+History/Historic+Events/Disengagement+-+August+2005.htm
^ CNN (2006). "Lebanon truce holds despite clashes". Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2006.
Đọc thêm

Lịch sử tổng quan
Bregman, Ahron (2002). Israel's Wars: A History Since 1947. Luân Đôn: Routledge. ISBN 0-415-28716-2
Bregman, Ahron Elusive Peace: How the Holy Land Defeated America.
Bard, Mitchell. The Complete Idiot's Guide to Middle East Conflict. 2nd ed. (Alpha, 2002), ISBN 0-02-864410-7
Bickerton, Ian J. and Carla L. Klausner. A Concise History of the Arab–Israeli Conflict. 4th ed. (Prentice Hall, 2001), ISBN 0-13-090303-5
Cohn-Sherbok, Dan. The Palestine-Israeli Conflict: A Beginner's Guide (Oneworld Publications, 2003), ISBN 1-85168-332-1
Cejka, Marek. Israel and Palestine - The past, present and Direction of the Middle Eastern Conflict (Barrister and Principal, 2005), ISBN 978-80-87029-16-9
David, Ron. Arabs & Israel for Beginners (Writers and Readers Publishing, Inc. 1996), ISBN 0-86316-161-8
Dowty, Alan. Israel/Palestine (Polity, 2005), ISBN 0-7456-3202-5
Eran, Oded. "Arab-Israel Peacemaking." The Continuum Political Encyclopedia of the Middle East. Ed. Avraham Sela. New York: Continuum, 2002.
Fraser, T. G. The Arab–Israeli Conflict. 2nd ed. (Palgrave Macmillan, 2004), ISBN 1-4039-1338-2
Gelvin, James L. The Israel-Palestine Conflict: One Hundred Years of War (Cambridge University Press, 2005), 0521618045
Harms, Gregory with Todd M. Ferry. The Palestine-Israel Conflict: A Basic Introduction (Pluto Press, 2005), ISBN 0-7453-2378-2
Hirst, David. The Gun and the Olive Branch. 3rd ed. (Nation Books, 2003), ISBN 1-56025-483-1
Hurewitz, J. C. The Struggle for Palestine (Shocken Books, 1976), [out of print]
Karsh, Efraim. Arafat's War: The Man and His Battle for Israeli Conquest. New York: Grove Press, 2003.
Khouri, Fred J. The Arab–Israeli Dilemma. 3rd ed. (Syracuse University Press, 1985), ISBN 0-8156-2340-2
Morris, Benny. Righteous Victims: A History of the Zionist–Arab Conflict, 1881–2001 (Vintage Books, 2001), ISBN 0-679-74475-4
Morris, Benny. 1948: The History of the First Arab-Israeli War. New Haven: Yale University Press, 2008.
Mandel, Neville J. The Arabs and Zionism Before World War I (University of California Press, 1976), [out of print]
Ovendale,Ritchie. The Origin of the Arab-Israeli Wars, (Pearson Education, Edinburgh (1984), 2004 4th revised ed.
Pappe, Ilan A History of Modern Palestine: One Nation, Two Peoples: Second Edition (Cambridge: Cambridge University Press, 2006)
Roraback, Amanda. Palestine in a Nutshell or Israel in a Nutshell (Enisen Publishing, 2004), ISBN 0-9702908-4-5
Safran, Nadav. Israel: The Embattled Ally (The Belknap Press, Harvard, 1978), [out of print]
Sela, Avraham. "Arab-Israeli Conflict." The Continuum Political Encyclopedia of the Middle East. Ed. Avraham Sela. New York: Continuum, 2002. pp. 58–121.
Shlaim, Avi. The Iron Wall: Israel and the Arab World (Luân Đôn: Penguin Books, 2000), ISBN 978-0-140-28870-4
Smith, Charles D. Palestine and the Arab–Israeli Conflict. 5th ed. (Bedford/St. Martin’s, 2004), ISBN 0-312-40408-5
Sykes, Christopher. Crossroads to Israel (Cleveland: The World Publishing Company, 1965), [out of print]
Tessler, Mark. A History of the Israeli–Palestinian Conflict (Indiana University Press, 1994), ISBN 0-253-20873-4
Thomas, Baylis. How Israel Was Won (Lexington Books, 1999), ISBN 0-7391-0064-5
Wasserstein, Bernard. Israelis and Palestinians (Yale University Press, 2003), ISBN 0-300-10172-4
Phân tích
Bard, Mitchell G. Will Israel Survive? New York: Palgrave Macmillan, 2007.
Carey, Roane, ed. The New Intifada: Resisting Israel's Apartheid (Verso, 2001), ISBN 1-85984-377-8
Catignani, Sergio Israeli Counter-Insurgency and the two Intifadas: Dilemmas of a Conventional Army (Luân Đôn: Routledge, 2008), ISBN 978-0-415-43388-4.
Barzilai, Gad. Wars, Internal Conflicts, and Political Order: A Jewish Democracy in the Middle East.(New York University Press), ISBN 0-7914-29431.
Chomsky, Noam. The Fateful Triangle: The United States, Israel and the Palestinians. Rev. ed. (South End Press, 1999), ISBN 0-89608-187-7.
Dershowitz, Alan. The Case for Peace: How the Arab-Israeli Conflict Can Be Resolved. Hoboken: John Wiley & Sons, Inc., 2005.
Dershowitz, Alan. The Case for Israel (John Wiley & Sons, 2004), ISBN 0-471-67952-6
Enderlin, Charles. Shattered Dreams: The Failure of the Peace Process in the Middle East, 1995-2002 (Other Press, 2003), ISBN 1-59051-060-7
Falk, Avner, Fratricide in the Holy Land: A Psychoanalytic View of the Arab-Israeli Conflict. University of Wisconsin Press, 2004, ISBN 0-299-20250-X
Finkelstein, Norman. Image and Reality of the Israel-Palestine Conflict. 2nd ed. (Verso, 2003), ISBN 1-85984-442-1 2nd ed. introduction
Finkelstein, Norman. Beyond Chutzpah: On the Misuse of Anti-Semitism and the Abuse of History. (University of California Press, 2005), ISBN 0-520-24598-9.
Flapan, Simha. The Birth of Israel: Myth and Realities (Pantheon Books, 1987),[out of print]
Flapan, Simha. Zionism and the Palestinians (Croom Helm, 1979), [out of print]
Gold, Dore. The Fight for Jerusalem: Radical Islam, the West, and the Future of the Holy City. Washington, DC: Regnery Publishing, Inc., 2007.
Goldberg, Jeffrey. Prisoners: A Story of Friendship and Terror. New York: Vintage Books, 2006.
Green, Stephen. Taking Sides: America's Secret Relations with a Militant Israel (William Morrow and Co., Inc., 1984), [out of print]
Maniscalco, Fabio. Protection, conservation and valorisation of Palestinian Cultural Patrimony (Massa Publisher, 2005), ISBN 88-87835-62-4
Martin, Dom. COEXISTENCE: Humanity's Wailing Wall TransGalactic Publications, 2006, ISBN 0-9616078-8-2
Pappe, Ilan, ed. The Israel/Palestine Question (Routledge, 1999), ISBN 0-415-16948-8
Pearlman, Wendy. Occupied Voices: Stories of Everyday Life from the Second Intifada (Nation Books, 2003), ISBN 1-56025-530-7
Quandt, William B. Peace Process. 3rd ed. (Brookings Institution Press, 2005), ISBN 0-520-24631-4
Reinhart, Tanya. Israel/Palestine: How to End the War of 1948 (Seven Stories Press, 2002), ISBN 1-58322-538-2
Ross, Dennis. The Missing Peace: The Inside Story of the Fight for Middle East Peace (Farrar, Straus and Giroux, 2005), ISBN 0-374-19973-6
Safran, Nadav. The United States and Israel, ISBN 0-674-92490-8 [out of print]
Said, Edward W. The Question of Palestine (Vintage Books, 1992), ISBN 0-679-73988-2
Salinas, Moises. Planting Hatred, Sowing Pain: The Psychology of the Israeli-Palestinian Conflict (Greenwood-Praeger Publishers, 2007), ISBN 0-275-99005-2
Selby, Jan (2003). Water, Power and Politics in the Middle East: The Other Israeli-Palestinian Conflict. I.B.Tauris. ISBN 1860649343
Shipler, David K. Arab and Jew: Wounded Spirits in a Promised Land. Rev. ed. (Penguin Books, 2002), ISBN 0-14-200229-1
Swisher, Clayton E. The Truth About Camp David (Nation Books, 2004), ISBN 1-56025-623-0
Tilley, Virginia. The One-State Solution, (University of Michigan Press, ngày 24 tháng 5 năm 2005), ISBN 0472115138
Wasserstein, Bernard. Israelis and Palestinians. Why Do They Fight? Can They Stop?, (Yale University Press,New Haven, 2001)
Hư cấu
Abulhawa, Susan. Mornings in Jenin, (Bloomsbury Publishing, 2010), ISBN 9781608190461
München. Dir. Steven Spielberg. Perf. Eric Bana, Daniel Craig, Marie-Josée Croze, Ciarán Hinds. DreamWorks, 2005. DVD.
Uris, Leon. Exodus, (Doubleday & Company, 1958)
You Don't Mess with the Zohan. Dir. Dennis Dugan. Perf. Adam Sandler, John Turturro, Emmanuelle Chriqui, Nick Swardson. Sony Pictures, 2008. DVD.

Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thư viện hình ảnh và phương tiện truyền tải về Xung đột Ả Rập-Israel
Chính phủ và các nguồn chính thức
Israel's Ministry of Foreign Affairs
Arab League Online
Palestinian Authority Ministry of Foreign Affairs
US State Department Mideast Peace information
United Nations on the Question of Palestine, and *Israel's UN mission's responses
Victims of Palestinian Violence and Terrorism since September 2000
Truyền thông khu vực
Israel
Israel News - Yedioth Aharonoth Israel's largest newspaper, centrist (Hebrew)
IsraelInsider Israel's Daily Online News Magazine
Jerusalem Post, Israel's oldest English newspaper, conservative
Ha'aretz Israeli newspaper, liberal
Jerusalem Newswire Christian-run Jerusalem-based news website, conservative
Ả rập
Lebanon Daily Star, largest English-circulation newspaper in the Arab world
Al Jazeera, pan-Arab news station (see also Al Jazeera)
Al Ahram, Egypt's largest newspaper (see also Al Ahram)
Palestine Chronicle, weekly electronic paper
Các nhóm cố vấn và Phân tích chiến lược
Jaffee Center for Strategic Studies at Tel Aviv University, influential centrist Israeli think tank specializing in military and strategic analysis
Palestinian Academic Society for the Study of International Affairs (PASSIA), Palestinian research organization
Israel/Palestine Center for Research and Information Joint Israeli-Palestinian think tank
Middle East Research and Information Project
analyses on the Middle East, from the Brookings Institute
Analyses on the Middle East, from Washington Institute for Near East Policy
Original analysis of current developments in the peace-process, from Middle East Media Research Institute
The Ariel Center for Policy Research
Những đề xuất hoà bình
Xem bài chính: Danh sách những đề xuất hoà bình Trung Đông

An historical summary of Middle East Peace Plans and Proposals
The Novel Catalyst for the Jerusalem Solution A website explaining why one school for the children of the Israeli and Palestinian governments might be the missing piece needed to achieve a lasting solution
"Geneva Accord" Alternative Version
Bản đồ
MideastWeb Middle East Map Collection
Israel's story in maps
FactsOfIsrael.com Maps, history, statistics, victims
University of Texas Map Collection
Các nguồn chung
Resources >Modern Period>20th Cent.>History of Israel>State of Israel The Jewish History Resource Center, Project of the Dinur Center for Research in Jewish History, The Hebrew University of Jerusalem
ProCon's solutions to the Israeli-Palestinian conflict
Israel and the Palestinians
Palestine Facts
Encarta Encyclopedia on the Arab-Israeli Conflict
Guide to the Arab-Israeli Conflict, includes links to historical sources, as well as sources representing the Arab and Israeli sides of the conflict.
The Guardian (UK) A Brief History of Arab-Israeli Conflict (flash)
Mideast: Land of Conflict from CNN
Open Directory Project - Israel-Palestine Conflict
University of Texas Center for Mideast Studies extensive collection of updated links
Diplomacy Monitor - Middle East
The Origin of the Palestine-Israel Conflict as viewed by Jews for Justice in the Middle East
Holy Land, Unholy War Independent coverage of the Middle East conflicts by the news agency Inter Press Service
satqwfet

Đây là một bài viết cơ bản. Nhấn vào đây để biết thêm thông tin.
Xung đột Ả Rập-Israel
Arab Israeli Conflict 5.png
Liên đoàn Ả Rập
Từng xảy ra chiến tranh với Israel
Israel
Dải Gaza và Bờ Tây
.
Thời gian 1948–1994 / nay
Địa điểm Trung Đông/Bắc Phi
Kết quả Đang diễn ra
Tham chiến
Israel Liên đoàn Ả Rập
Tổn thất
74.000 quân nhân chết, 18.000 dân thường thiệt mạng (1945–1995)
.
Cuộc Xung đột Ả Rập-Do Thái (tiếng Ả Rập: الصراع العربي الإسرائيلي‎, tiếng Do Thái: הסכסוך הישראלי ערבי‎) là những hành vi thù địch và căng thẳng chính trị đã kéo dài khoảng một thế kỷ. Nó liên quan tới sự thành lập Nhà nước Israel hiện đại, cũng như sự thành lập và độc lập của nhiều quốc gia Ả Rập trong cùng thời kỳ, và mối quan hệ giữa các nước Ả Rập và Israel (xem bài liên quan Xung đột Israel-Palestine).

Phạm vi cuộc xung đột
Một số người sử dụng thuật ngữ "Xung đột Trung Đông" để chỉ vấn đề này; tuy nhiên, đây là vùng đã xảy ra nhiều cuộc xung đột không có sự tham gia của Israel (xem Danh sách những cuộc xung đột tại Trung Đông). Từ năm 1979, cuộc xung đột có thêm sự hiện diện của nước Cộng hòa Hồi giáo Iran (một quốc gia không Ả Rập, không nổi bật trên bản đồ).

Dù chỉ xảy ra trên một diện tích địa lý và với số lượng thương vong khá nhỏ, cuộc xung đột đã trở thành tâm điểm quan tâm của truyền thông quốc tế cũng như sự chú ý của giới ngoại giao trong nhiều thập kỷ, có lẽ bởi trữ lượng dầu mỏ to lớn trong vùng, dù thực tế rằng Israel thực tế không sở hữu bất kỳ nguồn tài nguyên dầu mỏ nào,[1] và cả Liban cũng như Chính quyền Palestine cũng không hề có[2]. Hơn nữa, nhiều quốc gia, cá nhân và các tổ chức phi chính phủ ở khắp nơi trên thế giới đều cảm thấy mình có liên quan tới cuộc xung đột này vì những lý do như quan hệ văn hóa và tôn giáo với Đạo Hồi, văn hóa Ả Rập, Thiên Chúa giáo, Do Thái giáo hay Văn hóa Do Thái, hay vì ý thức hệ, nhân quyền, chiến lược hay các lý do tài chính khác.

Vì Israel là một chế độ dân chủ với hệ thống báo chí tự do, truyền thông được phép tiếp cận cuộc xung đột và nhờ thế cuộc xung đột cũng được tường thuật nhiều hơn. Một số người coi cuộc xung đột Ả Rập-Israel là một phần của (hay là dấu hiệu cảnh báo trước của) một sự xung đột giữa các nền văn minh lớn hơn giữa Thế giới phương Tây và Ả Rập hay Thế giới Hồi giáo.[3][4] Những người khác cho rằng sự liên quan tôn giáo là một vấn đề khá mới trong cuộc xung đột này.[5] Cuộc xung đột này đã gây ra tình trạng thù địch và nhiều cuộc tấn công lẫn nhau từ phía những người ủng hộ (hay được cho là ủng hộ) từ phía các bên đối nghịch tại các quốc gia trên toàn thế giới.

Xem thêm: Lịch sử Trung Đông
Lịch sử cuộc xung đột
Bài chi tiết: Lịch sử cuộc Xung đột Ả Rập-Israel
Khởi đầu-1948
Cuộc di cư Do Thái vào Vùng đất Israel/Palestine dưới thời cầm quyền của Đế chế Ottoman và sau này dưới thời ủy trị Anh đã làm gia tăng căng thẳng giữa dân tộc Do Thái và các sắc dân Ả Rập trong vùng.[6]

Tới cuối Chiến tranh thế giới thứ hai, cuộc xung đột đã trở thành một vấn đề quốc tế lớn. Liên hiệp quốc, Hoa Kỳ và Liên bang Xô viết quyết tâm đưa ra một giải pháp hai quốc gia. Cuộc phân chia do Liên hiệp quốc ủy nhiệm được tiến hành năm 1948, nhưng bị người Palestine và nhiều quốc gia Ả Rập phản đối.[7]

Israel tuyên bố độc lập ngày 14 tháng 5 năm 1948. Hầu như ngay lập tức, Ai Cập, Liban, Syria, Transjordan và Iraq tuyên bố chiến tranh với nhà nước non trẻ. Tới cuối cuộc Chiến tranh Ả Rập-Israel 1948, Israel đã mở rộng thêm khá nhiều biên giới của mình, và ký kết những thỏa thuận ngừng bắn với các nước Ả Rập láng giềng.[8]

1949-11 tháng 6 năm 1967
Năm 1954, Ai Cập bắt đầu phong toả Eo Tiran, ngăn cản mọi con tàu tới Eilat.[9] Ngày 26 tháng 7 năm 1956, Ai Cập quốc hữu hóa Công ty Kênh đào Suez, và đóng cửa kênh đào này với tàu bè Israel.[10]

Israel trả đũa ngày 29 tháng 10 năm 1956, bằng cách xâm chiếm Bán đảo Sinai với sự hỗ trợ của Anh và Pháp. Trong cuộc Khủng hoảng kênh đào Suez, Israel đã chiếm Dải Gaza và Bán đảo Sinai. Hoa Kỳ và Liên hiệp quốc nhanh chóng gây sức ép buộc nước này ngừng chiến,[10][11] mở lại đường biển trong khu vực, hoàn thành việc rút hoàn toàn quân đội Israel khỏi lãnh thổ Ai Cập, và giải giáp hoàn toàn Sinai. Lực lượng Khẩn cấp Liên hiệp quốc (UNEF) được triển khai để giám sát việc giải giáp.[12]

Ngày 19 tháng 5 năm 1967, Ai Cập trục xuất các quan sát viên UNEF,[13] và triển khai 100.000 binh sĩ tại Bán đảo Sinai.[14] Sau đó nước này đóng cửa Eo Tiran đối với tàu bè Israel,[15][16] khiến tình hình khu vực quay trở lại như giai đoạn trước năm 1956. Ngày 30 tháng 5 năm 1967, Jordan tham gia một hiệp ước phòng vệ chung với Ai Cập và Syria. Tổng thống Nasser tuyên bố: "Mục tiêu căn bản của chúng ta là phá huỷ Israel. Người Ả Rập muốn chiến đấu."[17]

Để trả đũa, ngày 5 tháng 6 Israel tung hầu hết tất cả máy bay của mình vào một cuộc tấn công không quân phủ đầu vào Ai Cập. Không quân Israel (AIF) đã tiêu diệt hầu hết Không quân Ai Cập - vẫn đang bất ngờ trước cuộc tấn công, sau đó quay về phía đông tiêu diệt nốt các lực lượng không quân Jordan, Syria và Iraq.[18] Cuộc tấn công này là yếu tố chủ chốt dẫn tới chiến thắng của Israel trong cuộc Chiến tranh Sáu Ngày.[14][16]

12 tháng 6 năm 1967-1973
Mùa hè năm 1967, các lãnh đạo Ả Rập gặp mặt tại Khartoum về cuộc chiến tranh nhằm tìm ra một lập trường chung với Israel. Họ đạt đến đồng thuận như sau:

Không công nhận Nhà nước Israel.
Không có hòa bình với Israel.
Không đàm phán với Israel.[19]
Năm 1969, Ai Cập đưa ra sáng kiến Chiến tranh Tiêu hao, với mục tiêu làm kiệt quệ nhà nước Israel buộc họ đầu hàng tại Bán đảo Sinai.[20] Cuộc chiến tranh chấm dứt với cái chết của Nasser năm 1970.

Ngày 6 tháng 10 năm 1973, Syria và Ai Cập tấn công Israel vào ngày lễ Yom Kippur, lấn lướt lực lượng quân sự bất ngờ của Israel.[21][22] Cuộc Chiến tranh Yom Kippur ảnh hưởng tới sự đối đầu gián tiếp giữa Hoa Kỳ và Liên bang Xô viết. Khi Israel đã chiếm lại ưu thế trên chiến trường, Liên bang Xô viết đã đe dọa can thiệp quân sự. Hoa Kỳ, thận trọng với cuộc chiến tranh hạt nhân, đã giàn xếp một cuộc ngưng bắn ngày 25 tháng 10.[21][22]

1974-2000
Ai Cập
Sau Hiệp ước Trại David cuối thập kỷ 1970, Israel và Ai Cập đã ký kết một hiệp ước hòa bình vào tháng 3 năm 1979. Theo những điều khoản của nó, Bán đảo Sinai được trao trả lại cho Ai Cập, và Dải Gaza tiếp tục nằm dưới quyền kiểm soát của Israel, sẽ được gộp vào trong nhà nước Palestine tương lai.[23]

Jordan
Tháng 10 năm 1994, Israel và Jordan đã ký kết một hiệp ước hòa bình, quy định sự hợp tác song phương, một sự kết thúc những sự thù địch, và một giải pháp với những vấn đề còn chưa được giải quyết.[8]

Iraq
Tháng 6 năm 1981, Israel đã thành công trong việc tấn công phá hủy cơ sở hạt nhân mới được xây dựng của Iraq trong Chiến dịch Opera.

Trong Chiến tranh Vùng Vịnh, Iraq đã bắn 39 tên lửa vào Israel, với hy vọng thống nhất thế giới Ả Rập chống lại liên quân đang tìm cách giải phóng Kuwait. Trước yêu cầu của Hoa Kỳ, Israel đã không trả đũa các cuộc tấn công này nhằm ngăn chặn sự bùng phát thêm của cuộc chiến.[8]

Liban
Năm 1970, sau một cuộc nội chiến kéo dài, vua Hussein đã trục xuất PLO khỏi Jordan. PLO chuyển sang đóng tại Liban và từ đó tung ra các cuộc tấn công nhằm vào Israel. Năm 1981, Syria, đồng minh của PLO, bố trí tên lửa tại Liban. Tháng 6 năm 1982, Israel xâm chiếm Liban. Trong vòng 2 tháng, PLO đã đồng ý rút lui.

Tháng 3 năm 1983, Israel và Liban ký kết một thỏa thuận ngừng bắn. Tuy nhiên, Syria đã gây sức ép buộc Tổng thống Amine Gemayel phải hủy bỏ hiệp ước này vào tháng 3 năm 1984. Tới năm 1985, các lực lượng Israel hầu như đã rút toàn bộ khỏi Liban,[8] Israel đã hoàn thành việc rút quân vào tháng 5 năm 2000, để lại một khoảng trống quyền lực và Syria cùng Hezbollah đã nhanh chóng nắm lấy. [24]

Palestine
Năm 1987, Phong trào Intifada lần thứ nhất bắt đầu. PLO bị trục xuất khỏi các cuộc đàm phán để giải quyết vấn đề cho tới khi họ công nhận Israel và từ bỏ chủ nghĩa khủng bố trong năm sau đó. Năm 1993, Israel và PLO đã ký kết Hiệp ước hòa bình Oslo, và bản "Tuyên bố về các Nguyên tắc" của họ, cùng với Tiến trình hòa bình, đã được coi là kim chỉ nam cho những quan hệ Israel-Palestine từ đó tới nay. [8]

2000-hiện nay
Để chống lại al-Aqsa Intifada, Israel đã tung ra cái gọi là cuộc tấn công vào các cơ sở khủng bố tại các trung tâm đô thị chính ở Bờ Tây năm 2002. Bạo lực một lần nữa lại lan tràn trong vùng. Với hy vọng tái khởi động tiến trình hòa bình, thủ tướng Israel Ariel Sharon đã bắt đầu chương trình đơn phương rút quân khỏi Dải Gaza năm 2003. Chính sách này được thực thi toàn bộ vào tháng 8 năm 2005.[25]

Tháng 7 năm 2006, các chiến binh Hezbollah đã tấn công một đoàn xe quân sự Israel, bắt cóc hai binh sĩ và giết hại bảy người khác, dẫn tới cuộc Xung đột Israel-Liban năm 2006.[23] Một cuộc ngừng bắn được Liên hiệp quốc bảo trợ bắt đầu có hiệu lực ngày 14 tháng 8 năm 2006, chính thức chấm dứt cuộc xung đột.[26]

Chú thích
^ CIA World Factbook. Israel
^ “The Greening Of The Middle East: Oil for Feud”. Đã bỏ qua tham số không rõ |source= (trợ giúp)
^ Abdel Mahdi Abdallah (Dec. 2003), More specifically, author Edward Said affirms his belief that if a solution can be found in Israel, the global community may be able to follow this guideline, generating peace and understanding between the cultures of the East and West. "Causes of Anti-Americanism in the Arab World: A Socio-Political Perspective," Middle East Review of International Affairs (MERIA) 7.4, accessed January 9, 2007.
^ Section 2: "Clash of Civilizations," in Arab-Israeli Conflict: Role of religion, Israel Science and Technology ("the national database and directory of science and technology related sites in Israel"), (c) 1999-2007, accessed January 9, 2007.
^ Ibrahim Al-Khouli and Wafa Sultan (February 21, 2006), "Arab-American Psychiatrist Wafa Sultan: There is No Clash of Civilizations but a Clash between the Mentality of the Middle Ages and That of the 21st Century," Clip No. 1050, printable transcript of television interview with Sultan conducted by Al-Khouli, broadcast on Al Jazeera, online posting, Middle East Media Research Institute (MEMRI) February 22, 2006, accessed January 9, 2007.
^ Sela, Avraham. "Arab-Israeli Conflict." The Continuum Political Encyclopedia of the Middle East. Ed. Avraham Sela. New York: Continuum, 2002. pp. 58-121.
^ “The incredible shrinking Palestine”. Đã bỏ qua tham số không rõ |source= (trợ giúp)
^ a ă â b c "Israel." Encarta Encycolpedia. http://encarta.msn.com/encyclopedia_761575008_10____75/Israel_(country).html#s75
^ “Background Note: Israel”. US State Department. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2007.
^ a ă “1956: Egypt Seizes Suez Canal”. British Broadcasting Service. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2007.
^ “UN GA Resolution 997”. Mideast Web. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2007.
^ http://encarta.msn.com/encyclopedia_761575008_10/Israel.html
^ “UN: Middle East - UNEF I, Background”. United Nations. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2007.
^ a ă Lorch, Netanel. “The Arab-Israeli Wars”. Israeli Ministry of Foreign Affairs. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2007. Đã bỏ qua tham số không rõ |publishdate= (trợ giúp) Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “MFA: The Arab-Israeli Wars” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
^ 'Egypt Closes Gulf Of Aqaba To Israel Ships: Defiant move by Nasser raises Middle East tension', The Times, Tuesday, May 23, 1967; pg. 1; Issue 56948; col A.
^ a ă “The Disaster of 1967”. The Jordanian Government. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2007.
^ “1967: Egypt and Jordan Unite Against Israel”. British Broadcasting Service. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2007.
^ “Course of the Six Day War”. Palestine Facts. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2007.
^ “President Mubarak Interview with Israeli TV”. Egyptian State Information Service. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2007. Đã bỏ qua tham số không rõ |publishdate= (trợ giúp)
^ “Israel: The War of Attrition”. Encyclopedia Britannica. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2007.
^ a ă “Israel: The Yom Kippur War”. Encyclopedia Britannica. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2007.
^ a ă “Arab-Israeli War of 1973”. Encarta Encyclopedia. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2007. Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “Encarta: Arab-Israeli War of 1973” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
^ a ă "Israel." Encarta Encycolpedia. http://encarta.msn.com/encyclopedia_761575008_11/Israel.html Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “Encarta” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
^ "After the cease-fire." Brandeis University. http://my.brandeis.edu/news/item?news_item_id=105605&show_release_date=1
^ "Special Update: Disengagement - August 2005". Israeli Ministry of Foreign Affairs. http://www.mfa.gov.il/MFA/History/Modern+History/Historic+Events/Disengagement+-+August+2005.htm
^ CNN (2006). "Lebanon truce holds despite clashes". Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2006.
Đọc thêm

Lịch sử tổng quan
Bregman, Ahron (2002). Israel's Wars: A History Since 1947. Luân Đôn: Routledge. ISBN 0-415-28716-2
Bregman, Ahron Elusive Peace: How the Holy Land Defeated America.
Bard, Mitchell. The Complete Idiot's Guide to Middle East Conflict. 2nd ed. (Alpha, 2002), ISBN 0-02-864410-7
Bickerton, Ian J. and Carla L. Klausner. A Concise History of the Arab–Israeli Conflict. 4th ed. (Prentice Hall, 2001), ISBN 0-13-090303-5
Cohn-Sherbok, Dan. The Palestine-Israeli Conflict: A Beginner's Guide (Oneworld Publications, 2003), ISBN 1-85168-332-1
Cejka, Marek. Israel and Palestine - The past, present and Direction of the Middle Eastern Conflict (Barrister and Principal, 2005), ISBN 978-80-87029-16-9
David, Ron. Arabs & Israel for Beginners (Writers and Readers Publishing, Inc. 1996), ISBN 0-86316-161-8
Dowty, Alan. Israel/Palestine (Polity, 2005), ISBN 0-7456-3202-5
Eran, Oded. "Arab-Israel Peacemaking." The Continuum Political Encyclopedia of the Middle East. Ed. Avraham Sela. New York: Continuum, 2002.
Fraser, T. G. The Arab–Israeli Conflict. 2nd ed. (Palgrave Macmillan, 2004), ISBN 1-4039-1338-2
Gelvin, James L. The Israel-Palestine Conflict: One Hundred Years of War (Cambridge University Press, 2005), 0521618045
Harms, Gregory with Todd M. Ferry. The Palestine-Israel Conflict: A Basic Introduction (Pluto Press, 2005), ISBN 0-7453-2378-2
Hirst, David. The Gun and the Olive Branch. 3rd ed. (Nation Books, 2003), ISBN 1-56025-483-1
Hurewitz, J. C. The Struggle for Palestine (Shocken Books, 1976), [out of print]
Karsh, Efraim. Arafat's War: The Man and His Battle for Israeli Conquest. New York: Grove Press, 2003.
Khouri, Fred J. The Arab–Israeli Dilemma. 3rd ed. (Syracuse University Press, 1985), ISBN 0-8156-2340-2
Morris, Benny. Righteous Victims: A History of the Zionist–Arab Conflict, 1881–2001 (Vintage Books, 2001), ISBN 0-679-74475-4
Morris, Benny. 1948: The History of the First Arab-Israeli War. New Haven: Yale University Press, 2008.
Mandel, Neville J. The Arabs and Zionism Before World War I (University of California Press, 1976), [out of print]
Ovendale,Ritchie. The Origin of the Arab-Israeli Wars, (Pearson Education, Edinburgh (1984), 2004 4th revised ed.
Pappe, Ilan A History of Modern Palestine: One Nation, Two Peoples: Second Edition (Cambridge: Cambridge University Press, 2006)
Roraback, Amanda. Palestine in a Nutshell or Israel in a Nutshell (Enisen Publishing, 2004), ISBN 0-9702908-4-5
Safran, Nadav. Israel: The Embattled Ally (The Belknap Press, Harvard, 1978), [out of print]
Sela, Avraham. "Arab-Israeli Conflict." The Continuum Political Encyclopedia of the Middle East. Ed. Avraham Sela. New York: Continuum, 2002. pp. 58–121.
Shlaim, Avi. The Iron Wall: Israel and the Arab World (Luân Đôn: Penguin Books, 2000), ISBN 978-0-140-28870-4
Smith, Charles D. Palestine and the Arab–Israeli Conflict. 5th ed. (Bedford/St. Martin’s, 2004), ISBN 0-312-40408-5
Sykes, Christopher. Crossroads to Israel (Cleveland: The World Publishing Company, 1965), [out of print]
Tessler, Mark. A History of the Israeli–Palestinian Conflict (Indiana University Press, 1994), ISBN 0-253-20873-4
Thomas, Baylis. How Israel Was Won (Lexington Books, 1999), ISBN 0-7391-0064-5
Wasserstein, Bernard. Israelis and Palestinians (Yale University Press, 2003), ISBN 0-300-10172-4
Phân tích
Bard, Mitchell G. Will Israel Survive? New York: Palgrave Macmillan, 2007.
Carey, Roane, ed. The New Intifada: Resisting Israel's Apartheid (Verso, 2001), ISBN 1-85984-377-8
Catignani, Sergio Israeli Counter-Insurgency and the two Intifadas: Dilemmas of a Conventional Army (Luân Đôn: Routledge, 2008), ISBN 978-0-415-43388-4.
Barzilai, Gad. Wars, Internal Conflicts, and Political Order: A Jewish Democracy in the Middle East.(New York University Press), ISBN 0-7914-29431.
Chomsky, Noam. The Fateful Triangle: The United States, Israel and the Palestinians. Rev. ed. (South End Press, 1999), ISBN 0-89608-187-7.
Dershowitz, Alan. The Case for Peace: How the Arab-Israeli Conflict Can Be Resolved. Hoboken: John Wiley & Sons, Inc., 2005.
Dershowitz, Alan. The Case for Israel (John Wiley & Sons, 2004), ISBN 0-471-67952-6
Enderlin, Charles. Shattered Dreams: The Failure of the Peace Process in the Middle East, 1995-2002 (Other Press, 2003), ISBN 1-59051-060-7
Falk, Avner, Fratricide in the Holy Land: A Psychoanalytic View of the Arab-Israeli Conflict. University of Wisconsin Press, 2004, ISBN 0-299-20250-X
Finkelstein, Norman. Image and Reality of the Israel-Palestine Conflict. 2nd ed. (Verso, 2003), ISBN 1-85984-442-1 2nd ed. introduction
Finkelstein, Norman. Beyond Chutzpah: On the Misuse of Anti-Semitism and the Abuse of History. (University of California Press, 2005), ISBN 0-520-24598-9.
Flapan, Simha. The Birth of Israel: Myth and Realities (Pantheon Books, 1987),[out of print]
Flapan, Simha. Zionism and the Palestinians (Croom Helm, 1979), [out of print]
Gold, Dore. The Fight for Jerusalem: Radical Islam, the West, and the Future of the Holy City. Washington, DC: Regnery Publishing, Inc., 2007.
Goldberg, Jeffrey. Prisoners: A Story of Friendship and Terror. New York: Vintage Books, 2006.
Green, Stephen. Taking Sides: America's Secret Relations with a Militant Israel (William Morrow and Co., Inc., 1984), [out of print]
Maniscalco, Fabio. Protection, conservation and valorisation of Palestinian Cultural Patrimony (Massa Publisher, 2005), ISBN 88-87835-62-4
Martin, Dom. COEXISTENCE: Humanity's Wailing Wall TransGalactic Publications, 2006, ISBN 0-9616078-8-2
Pappe, Ilan, ed. The Israel/Palestine Question (Routledge, 1999), ISBN 0-415-16948-8
Pearlman, Wendy. Occupied Voices: Stories of Everyday Life from the Second Intifada (Nation Books, 2003), ISBN 1-56025-530-7
Quandt, William B. Peace Process. 3rd ed. (Brookings Institution Press, 2005), ISBN 0-520-24631-4
Reinhart, Tanya. Israel/Palestine: How to End the War of 1948 (Seven Stories Press, 2002), ISBN 1-58322-538-2
Ross, Dennis. The Missing Peace: The Inside Story of the Fight for Middle East Peace (Farrar, Straus and Giroux, 2005), ISBN 0-374-19973-6
Safran, Nadav. The United States and Israel, ISBN 0-674-92490-8 [out of print]
Said, Edward W. The Question of Palestine (Vintage Books, 1992), ISBN 0-679-73988-2
Salinas, Moises. Planting Hatred, Sowing Pain: The Psychology of the Israeli-Palestinian Conflict (Greenwood-Praeger Publishers, 2007), ISBN 0-275-99005-2
Selby, Jan (2003). Water, Power and Politics in the Middle East: The Other Israeli-Palestinian Conflict. I.B.Tauris. ISBN 1860649343
Shipler, David K. Arab and Jew: Wounded Spirits in a Promised Land. Rev. ed. (Penguin Books, 2002), ISBN 0-14-200229-1
Swisher, Clayton E. The Truth About Camp David (Nation Books, 2004), ISBN 1-56025-623-0
Tilley, Virginia. The One-State Solution, (University of Michigan Press, ngày 24 tháng 5 năm 2005), ISBN 0472115138
Wasserstein, Bernard. Israelis and Palestinians. Why Do They Fight? Can They Stop?, (Yale University Press,New Haven, 2001)
Hư cấu
Abulhawa, Susan. Mornings in Jenin, (Bloomsbury Publishing, 2010), ISBN 9781608190461
München. Dir. Steven Spielberg. Perf. Eric Bana, Daniel Craig, Marie-Josée Croze, Ciarán Hinds. DreamWorks, 2005. DVD.
Uris, Leon. Exodus, (Doubleday & Company, 1958)
You Don't Mess with the Zohan. Dir. Dennis Dugan. Perf. Adam Sandler, John Turturro, Emmanuelle Chriqui, Nick Swardson. Sony Pictures, 2008. DVD.

Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thư viện hình ảnh và phương tiện truyền tải về Xung đột Ả Rập-Israel
Chính phủ và các nguồn chính thức
Israel's Ministry of Foreign Affairs
Arab League Online
Palestinian Authority Ministry of Foreign Affairs
US State Department Mideast Peace information
United Nations on the Question of Palestine, and *Israel's UN mission's responses
Victims of Palestinian Violence and Terrorism since September 2000
Truyền thông khu vực
Israel
Israel News - Yedioth Aharonoth Israel's largest newspaper, centrist (Hebrew)
IsraelInsider Israel's Daily Online News Magazine
Jerusalem Post, Israel's oldest English newspaper, conservative
Ha'aretz Israeli newspaper, liberal
Jerusalem Newswire Christian-run Jerusalem-based news website, conservative
Ả rập
Lebanon Daily Star, largest English-circulation newspaper in the Arab world
Al Jazeera, pan-Arab news station (see also Al Jazeera)
Al Ahram, Egypt's largest newspaper (see also Al Ahram)
Palestine Chronicle, weekly electronic paper
Các nhóm cố vấn và Phân tích chiến lược
Jaffee Center for Strategic Studies at Tel Aviv University, influential centrist Israeli think tank specializing in military and strategic analysis
Palestinian Academic Society for the Study of International Affairs (PASSIA), Palestinian research organization
Israel/Palestine Center for Research and Information Joint Israeli-Palestinian think tank
Middle East Research and Information Project
analyses on the Middle East, from the Brookings Institute
Analyses on the Middle East, from Washington Institute for Near East Policy
Original analysis of current developments in the peace-process, from Middle East Media Research Institute
The Ariel Center for Policy Research
Những đề xuất hoà bình
Xem bài chính: Danh sách những đề xuất hoà bình Trung Đông

An historical summary of Middle East Peace Plans and Proposals
The Novel Catalyst for the Jerusalem Solution A website explaining why one school for the children of the Israeli and Palestinian governments might be the missing piece needed to achieve a lasting solution
"Geneva Accord" Alternative Version
Bản đồ
MideastWeb Middle East Map Collection
Israel's story in maps
FactsOfIsrael.com Maps, history, statistics, victims
University of Texas Map Collection
Các nguồn chung
Resources >Modern Period>20th Cent.>History of Israel>State of Israel The Jewish History Resource Center, Project of the Dinur Center for Research in Jewish History, The Hebrew University of Jerusalem
ProCon's solutions to the Israeli-Palestinian conflict
Israel and the Palestinians
Palestine Facts
Encarta Encyclopedia on the Arab-Israeli Conflict
Guide to the Arab-Israeli Conflict, includes links to historical sources, as well as sources representing the Arab and Israeli sides of the conflict.
The Guardian (UK) A Brief History of Arab-Israeli Conflict (flash)
Mideast: Land of Conflict from CNN
Open Directory Project - Israel-Palestine Conflict
University of Texas Center for Mideast Studies extensive collection of updated links
Diplomacy Monitor - Middle East
The Origin of the Palestine-Israel Conflict as viewed by Jews for Justice in the Middle East
Holy Land, Unholy War Independent coverage of the Middle East conflicts by the news agency Inter Press Service
Thể loại: Xung đột Ả Rập-IsraelXung đột Israel-Palestine
Trình đơn chuyển hướng
Hack kes1981
Tin nhắn (0)
Thông báo (2)
Tin nhắnViết nhápTùy chọnBetaTrang theo dõiĐóng gópĐăng xuấtBài viếtThảo luậnĐọcSửa đổiSửa mã nguồnXem lịch sửTheo dõi
Khác
Tìm kiếm

Tìm kiếm Wikipedia
Trang Chính
Bài viết chọn lọc
Tin tức
Bài viết ngẫu nhiên
Thay đổi gần đây
Phản hồi lỗi
Quyên góp
Tương tác
Hướng dẫn
Giới thiệu Wikipedia
Cộng đồng
Thảo luận chung
Giúp sử dụng
Liên lạc
Gõ tiếng Việt
Trợ giúp
Tự động [F9]
Telex (?)
VNI (?)
VIQR (?)
VIQR*
Tắt [F12]
Bỏ dấu kiểu cũ [F7]
Đúng chính tả [F8]
Công cụ
Các liên kết đến đây
Thay đổi liên quan
Các trang đặc biệt
Liên kết thường trực
Thông tin trang
Khoản mục Wikidata
Trích dẫn trang này
In/xuất ra
Tạo một quyển sách
Tải về dưới dạng PDF
Bản để in ra
Tại dự án khác
Wikimedia Commons

Ngôn ngữ khác
العربية
English
Français
हिन्दी
Hrvatski
עברית
Македонски
اردو
中文
73 nữa
Sửa liên kết
Trang này được sửa đổi lần cuối vào ngày 17 tháng 1 năm 2019 lúc 10:12.
Văn bản được phát hành theo Giấy phép Creative Commons Ghi công–Chia sẻ tương tự; có thể áp dụng điều khoản bổ sung. Với việc sử dụng trang web này, bạn chấp nhận Điều khoản Sử dụng và Quy định quyền riêng tư.
Wikipedia® là thương hiệu đã đăng ký của Wikimedia Foundation, Inc., một tổ chức phi lợi nhuận.


=== 1949-11 tháng 6 năm 1967 ===
=== 1949-11 tháng 6 năm 1967 ===

Phiên bản lúc 10:14, ngày 17 tháng 1 năm 2019

Xung đột Ả Rập-Israel

  Liên đoàn Ả Rập
  Từng xảy ra chiến tranh với Israel
  Israel
  Dải Gaza và Bờ Tây
Thời gian1948–1994 / nay
Địa điểm
Trung Đông/Bắc Phi
Kết quả Đang diễn ra
Tham chiến
 Israel  Liên đoàn Ả Rập
Thương vong và tổn thất
74.000 quân nhân chết, 18.000 dân thường thiệt mạng (1945–1995)

Cuộc Xung đột Ả Rập-Do Thái (tiếng Ả Rập: الصراع العربي الإسرائيلي‎, tiếng Hebrew: הסכסוך הישראלי ערבי‎) là những hành vi thù địch và căng thẳng chính trị đã kéo dài khoảng một thế kỷ. Nó liên quan tới sự thành lập Nhà nước Israel hiện đại, cũng như sự thành lập và độc lập của nhiều quốc gia Ả Rập trong cùng thời kỳ, và mối quan hệ giữa các nước Ả Rập và Israel (xem bài liên quan Xung đột Israel-Palestine).

Phạm vi cuộc xung đột

Một số người sử dụng thuật ngữ "Xung đột Trung Đông" để chỉ vấn đề này; tuy nhiên, đây là vùng đã xảy ra nhiều cuộc xung đột không có sự tham gia của Israel (xem Danh sách những cuộc xung đột tại Trung Đông). Từ năm 1979, cuộc xung đột có thêm sự hiện diện của nước Cộng hòa Hồi giáo Iran (một quốc gia không Ả Rập, không nổi bật trên bản đồ).

Dù chỉ xảy ra trên một diện tích địa lý và với số lượng thương vong khá nhỏ, cuộc xung đột đã trở thành tâm điểm quan tâm của truyền thông quốc tế cũng như sự chú ý của giới ngoại giao trong nhiều thập kỷ, có lẽ bởi trữ lượng dầu mỏ to lớn trong vùng, dù thực tế rằng Israel thực tế không sở hữu bất kỳ nguồn tài nguyên dầu mỏ nào,[1] và cả Liban cũng như Chính quyền Palestine cũng không hề có[2]. Hơn nữa, nhiều quốc gia, cá nhân và các tổ chức phi chính phủ ở khắp nơi trên thế giới đều cảm thấy mình có liên quan tới cuộc xung đột này vì những lý do như quan hệ văn hóatôn giáo với Đạo Hồi, văn hóa Ả Rập, Thiên Chúa giáo, Do Thái giáo hay Văn hóa Do Thái, hay vì ý thức hệ, nhân quyền, chiến lược hay các lý do tài chính khác.

Vì Israel là một chế độ dân chủ với hệ thống báo chí tự do, truyền thông được phép tiếp cận cuộc xung đột và nhờ thế cuộc xung đột cũng được tường thuật nhiều hơn. Một số người coi cuộc xung đột Ả Rập-Israel là một phần của (hay là dấu hiệu cảnh báo trước của) một sự xung đột giữa các nền văn minh lớn hơn giữa Thế giới phương TâyẢ Rập hay Thế giới Hồi giáo.[3][4] Những người khác cho rằng sự liên quan tôn giáo là một vấn đề khá mới trong cuộc xung đột này.[5] Cuộc xung đột này đã gây ra tình trạng thù địch và nhiều cuộc tấn công lẫn nhau từ phía những người ủng hộ (hay được cho là ủng hộ) từ phía các bên đối nghịch tại các quốc gia trên toàn thế giới.

Lịch sử cuộc xung đột

Khởi đầu-1948

Cuộc di cư Do Thái vào Vùng đất Israel/Palestine dưới thời cầm quyền của Đế chế Ottoman và sau này dưới thời ủy trị Anh đã làm gia tăng căng thẳng giữa dân tộc Do Thái và các sắc dân Ả Rập trong vùng.[6]

Tới cuối Chiến tranh thế giới thứ hai, cuộc xung đột đã trở thành một vấn đề quốc tế lớn. Liên hiệp quốc, Hoa KỳLiên bang Xô viết quyết tâm đưa ra một giải pháp hai quốc gia. Cuộc phân chia do Liên hiệp quốc ủy nhiệm được tiến hành năm 1948, nhưng bị người Palestine và nhiều quốc gia Ả Rập phản đối.[7]

Israel tuyên bố độc lập ngày 14 tháng 5 năm 1948. Hầu như ngay lập tức, Ai Cập, Liban, Syria, TransjordanIraq tuyên bố chiến tranh với nhà nước non trẻ. Tới cuối cuộc Chiến tranh Ả Rập-Israel 1948, Israel đã mở rộng thêm khá nhiều biên giới của mình, và ký kết những thỏa thuận ngừng bắn với các nước Ả Rập láng giềng.[8] Một số người sử dụng thuật ngữ "Xung đột Trung Đông" để chỉ vấn đề này; tuy nhiên, đây là vùng đã xảy ra nhiều cuộc xung đột không có sự tham gia của Israel (xem Danh sách những cuộc xung đột tại Trung Đông). Từ năm 1979, cuộc xung đột có thêm sự hiện diện của nước Cộng hòa Hồi giáo Iran (một quốc gia không Ả Rập, không nổi bật trên bản đồ).

Dù chỉ xảy ra trên một diện tích địa lý và với số lượng thương vong khá nhỏ, cuộc xung đột đã trở thành tâm điểm quan tâm của truyền thông quốc tế cũng như sự chú ý của giới ngoại giao trong nhiều thập kỷ, có lẽ bởi trữ lượng dầu mỏ to lớn trong vùng, dù thực tế rằng Israel thực tế không sở hữu bất kỳ nguồn tài nguyên dầu mỏ nào,[1] và cả Liban cũng như Chính quyền Palestine cũng không hề có[2]. Hơn nữa, nhiều quốc gia, cá nhân và các tổ chức phi chính phủ ở khắp nơi trên thế giới đều cảm thấy mình có liên quan tới cuộc xung đột này vì những lý do như quan hệ văn hóa và tôn giáo với Đạo Hồi, văn hóa Ả Rập, Thiên Chúa giáo, Do Thái giáo hay Văn hóa Do Thái, hay vì ý thức hệ, nhân quyền, chiến lược hay các lý do tài chính khác.

Vì Israel là một chế độ dân chủ với hệ thống báo chí tự do, truyền thông được phép tiếp cận cuộc xung đột và nhờ thế cuộc xung đột cũng được tường thuật nhiều hơn. Một số người coi cuộc xung đột Ả Rập-Israel là một phần của (hay là dấu hiệu cảnh báo trước của) một sự xung đột giữa các nền văn minh lớn hơn giữa Thế giới phương Tây và Ả Rập hay Thế giới Hồi giáo.[3][4] Những người khác cho rằng sự liên quan tôn giáo là một vấn đề khá mới trong cuộc xung đột này.[5] Cuộc xung đột này đã gây ra tình trạng thù địch và nhiều cuộc tấn công lẫn nhau từ phía những người ủng hộ (hay được cho là ủng hộ) từ phía các bên đối nghịch tại các quốc gia trên toàn thế giới.

Xem thêm: Lịch sử Trung Đông Lịch sử cuộc xung đột Bài chi tiết: Lịch sử cuộc Xung đột Ả Rập-Israel Khởi đầu-1948 Cuộc di cư Do Thái vào Vùng đất Israel/Palestine dưới thời cầm quyền của Đế chế Ottoman và sau này dưới thời ủy trị Anh đã làm gia tăng căng thẳng giữa dân tộc Do Thái và các sắc dân Ả Rập trong vùng.[6]

Tới cuối Chiến tranh thế giới thứ hai, cuộc xung đột đã trở thành một vấn đề quốc tế lớn. Liên hiệp quốc, Hoa Kỳ và Liên bang Xô viết quyết tâm đưa ra một giải pháp hai quốc gia. Cuộc phân chia do Liên hiệp quốc ủy nhiệm được tiến hành năm 1948, nhưng bị người Palestine và nhiều quốc gia Ả Rập phản đối.[7]

Israel tuyên bố độc lập ngày 14 tháng 5 năm 1948. Hầu như ngay lập tức, Ai Cập, Liban, Syria, Transjordan và Iraq tuyên bố chiến tranh với nhà nước non trẻ. Tới cuối cuộc Chiến tranh Ả Rập-Israel 1948, Israel đã mở rộng thêm khá nhiều biên giới của mình, và ký kết những thỏa thuận ngừng bắn với các nước Ả Rập láng giềng.[8]

1949-11 tháng 6 năm 1967 Năm 1954, Ai Cập bắt đầu phong toả Eo Tiran, ngăn cản mọi con tàu tới Eilat.[9] Ngày 26 tháng 7 năm 1956, Ai Cập quốc hữu hóa Công ty Kênh đào Suez, và đóng cửa kênh đào này với tàu bè Israel.[10]

Israel trả đũa ngày 29 tháng 10 năm 1956, bằng cách xâm chiếm Bán đảo Sinai với sự hỗ trợ của Anh và Pháp. Trong cuộc Khủng hoảng kênh đào Suez, Israel đã chiếm Dải Gaza và Bán đảo Sinai. Hoa Kỳ và Liên hiệp quốc nhanh chóng gây sức ép buộc nước này ngừng chiến,[10][11] mở lại đường biển trong khu vực, hoàn thành việc rút hoàn toàn quân đội Israel khỏi lãnh thổ Ai Cập, và giải giáp hoàn toàn Sinai. Lực lượng Khẩn cấp Liên hiệp quốc (UNEF) được triển khai để giám sát việc giải giáp.[12]

Ngày 19 tháng 5 năm 1967, Ai Cập trục xuất các quan sát viên UNEF,[13] và triển khai 100.000 binh sĩ tại Bán đảo Sinai.[14] Sau đó nước này đóng cửa Eo Tiran đối với tàu bè Israel,[15][16] khiến tình hình khu vực quay trở lại như giai đoạn trước năm 1956. Ngày 30 tháng 5 năm 1967, Jordan tham gia một hiệp ước phòng vệ chung với Ai Cập và Syria. Tổng thống Nasser tuyên bố: "Mục tiêu căn bản của chúng ta là phá huỷ Israel. Người Ả Rập muốn chiến đấu."[17]

Để trả đũa, ngày 5 tháng 6 Israel tung hầu hết tất cả máy bay của mình vào một cuộc tấn công không quân phủ đầu vào Ai Cập. Không quân Israel (AIF) đã tiêu diệt hầu hết Không quân Ai Cập - vẫn đang bất ngờ trước cuộc tấn công, sau đó quay về phía đông tiêu diệt nốt các lực lượng không quân Jordan, Syria và Iraq.[18] Cuộc tấn công này là yếu tố chủ chốt dẫn tới chiến thắng của Israel trong cuộc Chiến tranh Sáu Ngày.[14][16]

12 tháng 6 năm 1967-1973 Mùa hè năm 1967, các lãnh đạo Ả Rập gặp mặt tại Khartoum về cuộc chiến tranh nhằm tìm ra một lập trường chung với Israel. Họ đạt đến đồng thuận như sau:

Không công nhận Nhà nước Israel. Không có hòa bình với Israel. Không đàm phán với Israel.[19] Năm 1969, Ai Cập đưa ra sáng kiến Chiến tranh Tiêu hao, với mục tiêu làm kiệt quệ nhà nước Israel buộc họ đầu hàng tại Bán đảo Sinai.[20] Cuộc chiến tranh chấm dứt với cái chết của Nasser năm 1970.

Ngày 6 tháng 10 năm 1973, Syria và Ai Cập tấn công Israel vào ngày lễ Yom Kippur, lấn lướt lực lượng quân sự bất ngờ của Israel.[21][22] Cuộc Chiến tranh Yom Kippur ảnh hưởng tới sự đối đầu gián tiếp giữa Hoa Kỳ và Liên bang Xô viết. Khi Israel đã chiếm lại ưu thế trên chiến trường, Liên bang Xô viết đã đe dọa can thiệp quân sự. Hoa Kỳ, thận trọng với cuộc chiến tranh hạt nhân, đã giàn xếp một cuộc ngưng bắn ngày 25 tháng 10.[21][22]

1974-2000 Ai Cập Sau Hiệp ước Trại David cuối thập kỷ 1970, Israel và Ai Cập đã ký kết một hiệp ước hòa bình vào tháng 3 năm 1979. Theo những điều khoản của nó, Bán đảo Sinai được trao trả lại cho Ai Cập, và Dải Gaza tiếp tục nằm dưới quyền kiểm soát của Israel, sẽ được gộp vào trong nhà nước Palestine tương lai.[23]

Jordan Tháng 10 năm 1994, Israel và Jordan đã ký kết một hiệp ước hòa bình, quy định sự hợp tác song phương, một sự kết thúc những sự thù địch, và một giải pháp với những vấn đề còn chưa được giải quyết.[8]

Iraq Tháng 6 năm 1981, Israel đã thành công trong việc tấn công phá hủy cơ sở hạt nhân mới được xây dựng của Iraq trong Chiến dịch Opera.

Trong Chiến tranh Vùng Vịnh, Iraq đã bắn 39 tên lửa vào Israel, với hy vọng thống nhất thế giới Ả Rập chống lại liên quân đang tìm cách giải phóng Kuwait. Trước yêu cầu của Hoa Kỳ, Israel đã không trả đũa các cuộc tấn công này nhằm ngăn chặn sự bùng phát thêm của cuộc chiến.[8]

Liban Năm 1970, sau một cuộc nội chiến kéo dài, vua Hussein đã trục xuất PLO khỏi Jordan. PLO chuyển sang đóng tại Liban và từ đó tung ra các cuộc tấn công nhằm vào Israel. Năm 1981, Syria, đồng minh của PLO, bố trí tên lửa tại Liban. Tháng 6 năm 1982, Israel xâm chiếm Liban. Trong vòng 2 tháng, PLO đã đồng ý rút lui.

Tháng 3 năm 1983, Israel và Liban ký kết một thỏa thuận ngừng bắn. Tuy nhiên, Syria đã gây sức ép buộc Tổng thống Amine Gemayel phải hủy bỏ hiệp ước này vào tháng 3 năm 1984. Tới năm 1985, các lực lượng Israel hầu như đã rút toàn bộ khỏi Liban,[8] Israel đã hoàn thành việc rút quân vào tháng 5 năm 2000, để lại một khoảng trống quyền lực và Syria cùng Hezbollah đã nhanh chóng nắm lấy. [24]

Palestine Năm 1987, Phong trào Intifada lần thứ nhất bắt đầu. PLO bị trục xuất khỏi các cuộc đàm phán để giải quyết vấn đề cho tới khi họ công nhận Israel và từ bỏ chủ nghĩa khủng bố trong năm sau đó. Năm 1993, Israel và PLO đã ký kết Hiệp ước hòa bình Oslo, và bản "Tuyên bố về các Nguyên tắc" của họ, cùng với Tiến trình hòa bình, đã được coi là kim chỉ nam cho những quan hệ Israel-Palestine từ đó tới nay. [8]

2000-hiện nay Để chống lại al-Aqsa Intifada, Israel đã tung ra cái gọi là cuộc tấn công vào các cơ sở khủng bố tại các trung tâm đô thị chính ở Bờ Tây năm 2002. Bạo lực một lần nữa lại lan tràn trong vùng. Với hy vọng tái khởi động tiến trình hòa bình, thủ tướng Israel Ariel Sharon đã bắt đầu chương trình đơn phương rút quân khỏi Dải Gaza năm 2003. Chính sách này được thực thi toàn bộ vào tháng 8 năm 2005.[25]

Tháng 7 năm 2006, các chiến binh Hezbollah đã tấn công một đoàn xe quân sự Israel, bắt cóc hai binh sĩ và giết hại bảy người khác, dẫn tới cuộc Xung đột Israel-Liban năm 2006.[23] Một cuộc ngừng bắn được Liên hiệp quốc bảo trợ bắt đầu có hiệu lực ngày 14 tháng 8 năm 2006, chính thức chấm dứt cuộc xung đột.[26]

Chú thích ^ CIA World Factbook. Israel ^ “The Greening Of The Middle East: Oil for Feud”. Đã bỏ qua tham số không rõ |source= (trợ giúp) ^ Abdel Mahdi Abdallah (Dec. 2003), More specifically, author Edward Said affirms his belief that if a solution can be found in Israel, the global community may be able to follow this guideline, generating peace and understanding between the cultures of the East and West. "Causes of Anti-Americanism in the Arab World: A Socio-Political Perspective," Middle East Review of International Affairs (MERIA) 7.4, accessed January 9, 2007. ^ Section 2: "Clash of Civilizations," in Arab-Israeli Conflict: Role of religion, Israel Science and Technology ("the national database and directory of science and technology related sites in Israel"), (c) 1999-2007, accessed January 9, 2007. ^ Ibrahim Al-Khouli and Wafa Sultan (February 21, 2006), "Arab-American Psychiatrist Wafa Sultan: There is No Clash of Civilizations but a Clash between the Mentality of the Middle Ages and That of the 21st Century," Clip No. 1050, printable transcript of television interview with Sultan conducted by Al-Khouli, broadcast on Al Jazeera, online posting, Middle East Media Research Institute (MEMRI) February 22, 2006, accessed January 9, 2007. ^ Sela, Avraham. "Arab-Israeli Conflict." The Continuum Political Encyclopedia of the Middle East. Ed. Avraham Sela. New York: Continuum, 2002. pp. 58-121. ^ “The incredible shrinking Palestine”. Đã bỏ qua tham số không rõ |source= (trợ giúp) ^ a ă â b c "Israel." Encarta Encycolpedia. http://encarta.msn.com/encyclopedia_761575008_10____75/Israel_(country).html#s75 ^ “Background Note: Israel”. US State Department. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2007. ^ a ă “1956: Egypt Seizes Suez Canal”. British Broadcasting Service. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2007. ^ “UN GA Resolution 997”. Mideast Web. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2007. ^ http://encarta.msn.com/encyclopedia_761575008_10/Israel.html ^ “UN: Middle East - UNEF I, Background”. United Nations. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2007. ^ a ă Lorch, Netanel. “The Arab-Israeli Wars”. Israeli Ministry of Foreign Affairs. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2007. Đã bỏ qua tham số không rõ |publishdate= (trợ giúp) Lỗi chú thích: Thẻ Lỗi chú thích: Không có </ref> để đóng thẻ <ref> Ngày 26 tháng 7 năm 1956, Ai Cập quốc hữu hóa Công ty Kênh đào Suez, và đóng cửa kênh đào này với tàu bè Israel.[9]

Israel trả đũa ngày 29 tháng 10 năm 1956, bằng cách xâm chiếm Bán đảo Sinai với sự hỗ trợ của Anh và Pháp. Trong cuộc Khủng hoảng kênh đào Suez, Israel đã chiếm Dải Gaza và Bán đảo Sinai. Hoa KỳLiên hiệp quốc nhanh chóng gây sức ép buộc nước này ngừng chiến,[9][10] mở lại đường biển trong khu vực, hoàn thành việc rút hoàn toàn quân đội Israel khỏi lãnh thổ Ai Cập, và giải giáp hoàn toàn Sinai. Lực lượng Khẩn cấp Liên hiệp quốc (UNEF) được triển khai để giám sát việc giải giáp.[11]

Ngày 19 tháng 5 năm 1967, Ai Cập trục xuất các quan sát viên UNEF,[12] và triển khai 100.000 binh sĩ tại Bán đảo Sinai.[13] Sau đó nước này đóng cửa Eo Tiran đối với tàu bè Israel,[14][15] khiến tình hình khu vực quay trở lại như giai đoạn trước năm 1956. Ngày 30 tháng 5 năm 1967, Jordan tham gia một hiệp ước phòng vệ chung với Ai Cập và Syria. Tổng thống Nasser tuyên bố: "Mục tiêu căn bản của chúng ta là phá huỷ Israel. Người Ả Rập muốn chiến đấu."[16]

Để trả đũa, ngày 5 tháng 6 Israel tung hầu hết tất cả máy bay của mình vào một cuộc tấn công không quân phủ đầu vào Ai Cập. Không quân Israel (AIF) đã tiêu diệt hầu hết Không quân Ai Cập - vẫn đang bất ngờ trước cuộc tấn công, sau đó quay về phía đông tiêu diệt nốt các lực lượng không quân Jordan, Syria và Iraq.[17] Cuộc tấn công này là yếu tố chủ chốt dẫn tới chiến thắng của Israel trong cuộc Chiến tranh Sáu Ngày.[13][15]

12 tháng 6 năm 1967-1973

Mùa hè năm 1967, các lãnh đạo Ả Rập gặp mặt tại Khartoum về cuộc chiến tranh nhằm tìm ra một lập trường chung với Israel. Họ đạt đến đồng thuận như sau:

  • Không công nhận Nhà nước Israel.
  • Không có hòa bình với Israel.
  • Không đàm phán với Israel.[18]

Năm 1969, Ai Cập đưa ra sáng kiến Chiến tranh Tiêu hao, với mục tiêu làm kiệt quệ nhà nước Israel buộc họ đầu hàng tại Bán đảo Sinai.[19] Cuộc chiến tranh chấm dứt với cái chết của Nasser năm 1970.

Ngày 6 tháng 10 năm 1973, Syria và Ai Cập tấn công Israel vào ngày lễ Yom Kippur, lấn lướt lực lượng quân sự bất ngờ của Israel.[20][21] Cuộc Chiến tranh Yom Kippur ảnh hưởng tới sự đối đầu gián tiếp giữa Hoa Kỳ và Liên bang Xô viết. Khi Israel đã chiếm lại ưu thế trên chiến trường, Liên bang Xô viết đã đe dọa can thiệp quân sự. Hoa Kỳ, thận trọng với cuộc chiến tranh hạt nhân, đã giàn xếp một cuộc ngưng bắn ngày 25 tháng 10.[20][21]

1974-2000

Ai Cập

Sau Hiệp ước Trại David cuối thập kỷ 1970, Israel và Ai Cập đã ký kết một hiệp ước hòa bình vào tháng 3 năm 1979. Theo những điều khoản của nó, Bán đảo Sinai được trao trả lại cho Ai Cập, và Dải Gaza tiếp tục nằm dưới quyền kiểm soát của Israel, sẽ được gộp vào trong nhà nước Palestine tương lai.[22]

Jordan

Tháng 10 năm 1994, Israel và Jordan đã ký kết một hiệp ước hòa bình, quy định sự hợp tác song phương, một sự kết thúc những sự thù địch, và một giải pháp với những vấn đề còn chưa được giải quyết.[8]

Iraq

Tháng 6 năm 1981, Israel đã thành công trong việc tấn công phá hủy cơ sở hạt nhân mới được xây dựng của Iraq trong Chiến dịch Opera.

Trong Chiến tranh Vùng Vịnh, Iraq đã bắn 39 tên lửa vào Israel, với hy vọng thống nhất thế giới Ả Rập chống lại liên quân đang tìm cách giải phóng Kuwait. Trước yêu cầu của Hoa Kỳ, Israel đã không trả đũa các cuộc tấn công này nhằm ngăn chặn sự bùng phát thêm của cuộc chiến.[8]

Liban

Năm 1970, sau một cuộc nội chiến kéo dài, vua Hussein đã trục xuất PLO khỏi Jordan. PLO chuyển sang đóng tại Liban và từ đó tung ra các cuộc tấn công nhằm vào Israel. Năm 1981, Syria, đồng minh của PLO, bố trí tên lửa tại Liban. Tháng 6 năm 1982, Israel xâm chiếm Liban. Trong vòng 2 tháng, PLO đã đồng ý rút lui.

Tháng 3 năm 1983, Israel và Liban ký kết một thỏa thuận ngừng bắn. Tuy nhiên, Syria đã gây sức ép buộc Tổng thống Amine Gemayel phải hủy bỏ hiệp ước này vào tháng 3 năm 1984. Tới năm 1985, các lực lượng Israel hầu như đã rút toàn bộ khỏi Liban,[8] Israel đã hoàn thành việc rút quân vào tháng 5 năm 2000, để lại một khoảng trống quyền lực và Syria cùng Hezbollah đã nhanh chóng nắm lấy. [23]

Palestine

Năm 1987, Phong trào Intifada lần thứ nhất bắt đầu. PLO bị trục xuất khỏi các cuộc đàm phán để giải quyết vấn đề cho tới khi họ công nhận Israel và từ bỏ chủ nghĩa khủng bố trong năm sau đó. Năm 1993, Israel và PLO đã ký kết Hiệp ước hòa bình Oslo, và bản "Tuyên bố về các Nguyên tắc" của họ, cùng với Tiến trình hòa bình, đã được coi là kim chỉ nam cho những quan hệ Israel-Palestine từ đó tới nay. [8]

2000-hiện nay

Để chống lại al-Aqsa Intifada, Israel đã tung ra cái gọi là cuộc tấn công vào các cơ sở khủng bố tại các trung tâm đô thị chính ở Bờ Tây năm 2002. Bạo lực một lần nữa lại lan tràn trong vùng. Với hy vọng tái khởi động tiến trình hòa bình, thủ tướng Israel Ariel Sharon đã bắt đầu chương trình đơn phương rút quân khỏi Dải Gaza năm 2003. Chính sách này được thực thi toàn bộ vào tháng 8 năm 2005.[24]

Tháng 7 năm 2006, các chiến binh Hezbollah đã tấn công một đoàn xe quân sự Israel, bắt cóc hai binh sĩ và giết hại bảy người khác, dẫn tới cuộc Xung đột Israel-Liban năm 2006.[22] Một cuộc ngừng bắn được Liên hiệp quốc bảo trợ bắt đầu có hiệu lực ngày 14 tháng 8 năm 2006, chính thức chấm dứt cuộc xung đột.[25]

Chú thích

  1. ^ CIA World Factbook. Israel
  2. ^ “The Greening Of The Middle East: Oil for Feud”. Đã bỏ qua tham số không rõ |source= (trợ giúp)
  3. ^ Abdel Mahdi Abdallah (Dec. 2003), More specifically, author Edward Said affirms his belief that if a solution can be found in Israel, the global community may be able to follow this guideline, generating peace and understanding between the cultures of the East and West. "Causes of Anti-Americanism in the Arab World: A Socio-Political Perspective," Middle East Review of International Affairs (MERIA) 7.4, accessed January 9, 2007.
  4. ^ Section 2: "Clash of Civilizations," in Arab-Israeli Conflict: Role of religion, Israel Science and Technology ("the national database and directory of science and technology related sites in Israel"), (c) 1999-2007, accessed January 9, 2007.
  5. ^ Ibrahim Al-Khouli and Wafa Sultan (February 21, 2006), "Arab-American Psychiatrist Wafa Sultan: There is No Clash of Civilizations but a Clash between the Mentality of the Middle Ages and That of the 21st Century," Clip No. 1050, printable transcript of television interview with Sultan conducted by Al-Khouli, broadcast on Al Jazeera, online posting, Middle East Media Research Institute (MEMRI) February 22, 2006, accessed January 9, 2007.
  6. ^ Sela, Avraham. "Arab-Israeli Conflict." The Continuum Political Encyclopedia of the Middle East. Ed. Avraham Sela. New York: Continuum, 2002. pp. 58-121.
  7. ^ “The incredible shrinking Palestine”. Đã bỏ qua tham số không rõ |source= (trợ giúp)
  8. ^ a b c d e "Israel." Encarta Encycolpedia. http://encarta.msn.com/encyclopedia_761575008_10____75/Israel_(country).html#s75
  9. ^ a b “1956: Egypt Seizes Suez Canal”. British Broadcasting Service. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2007.
  10. ^ “UN GA Resolution 997”. Mideast Web. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2007.
  11. ^ http://encarta.msn.com/encyclopedia_761575008_10/Israel.html
  12. ^ “UN: Middle East - UNEF I, Background”. United Nations. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2007.
  13. ^ a b Lorch, Netanel. “The Arab-Israeli Wars”. Israeli Ministry of Foreign Affairs. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2007. Đã bỏ qua tham số không rõ |publishdate= (trợ giúp) Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “MFA: The Arab-Israeli Wars” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
  14. ^ 'Egypt Closes Gulf Of Aqaba To Israel Ships: Defiant move by Nasser raises Middle East tension', The Times, Tuesday, May 23, 1967; pg. 1; Issue 56948; col A.
  15. ^ a b “The Disaster of 1967”. The Jordanian Government. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2007.
  16. ^ “1967: Egypt and Jordan Unite Against Israel”. British Broadcasting Service. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2007.
  17. ^ “Course of the Six Day War”. Palestine Facts. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2007.
  18. ^ “President Mubarak Interview with Israeli TV”. Egyptian State Information Service. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2007. Đã bỏ qua tham số không rõ |publishdate= (trợ giúp)
  19. ^ “Israel: The War of Attrition”. Encyclopedia Britannica. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2007.
  20. ^ a b “Israel: The Yom Kippur War”. Encyclopedia Britannica. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2007.
  21. ^ a b “Arab-Israeli War of 1973”. Encarta Encyclopedia. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2007. Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “Encarta: Arab-Israeli War of 1973” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
  22. ^ a b "Israel." Encarta Encycolpedia. http://encarta.msn.com/encyclopedia_761575008_11/Israel.html Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “Encarta” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
  23. ^ "After the cease-fire." Brandeis University. http://my.brandeis.edu/news/item?news_item_id=105605&show_release_date=1
  24. ^ "Special Update: Disengagement - August 2005". Israeli Ministry of Foreign Affairs. http://www.mfa.gov.il/MFA/History/Modern+History/Historic+Events/Disengagement+-+August+2005.htm
  25. ^ CNN (2006). "Lebanon truce holds despite clashes". Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2006.

Đọc thêm

Lịch sử tổng quan

  • Bregman, Ahron (2002). Israel's Wars: A History Since 1947. Luân Đôn: Routledge. ISBN 0-415-28716-2
  • Bregman, Ahron Elusive Peace: How the Holy Land Defeated America.
  • Bard, Mitchell. The Complete Idiot's Guide to Middle East Conflict. 2nd ed. (Alpha, 2002), ISBN 0-02-864410-7
  • Bickerton, Ian J. and Carla L. Klausner. A Concise History of the Arab–Israeli Conflict. 4th ed. (Prentice Hall, 2001), ISBN 0-13-090303-5
  • Cohn-Sherbok, Dan. The Palestine-Israeli Conflict: A Beginner's Guide (Oneworld Publications, 2003), ISBN 1-85168-332-1
  • Cejka, Marek. Israel and Palestine - The past, present and Direction of the Middle Eastern Conflict (Barrister and Principal, 2005), ISBN 978-80-87029-16-9
  • David, Ron. Arabs & Israel for Beginners (Writers and Readers Publishing, Inc. 1996), ISBN 0-86316-161-8
  • Dowty, Alan. Israel/Palestine (Polity, 2005), ISBN 0-7456-3202-5
  • Eran, Oded. "Arab-Israel Peacemaking." The Continuum Political Encyclopedia of the Middle East. Ed. Avraham Sela. New York: Continuum, 2002.
  • Fraser, T. G. The Arab–Israeli Conflict. 2nd ed. (Palgrave Macmillan, 2004), ISBN 1-4039-1338-2
  • Gelvin, James L. The Israel-Palestine Conflict: One Hundred Years of War (Cambridge University Press, 2005), 0521618045
  • Harms, Gregory with Todd M. Ferry. The Palestine-Israel Conflict: A Basic Introduction (Pluto Press, 2005), ISBN 0-7453-2378-2
  • Hirst, David. The Gun and the Olive Branch. 3rd ed. (Nation Books, 2003), ISBN 1-56025-483-1
  • Hurewitz, J. C. The Struggle for Palestine (Shocken Books, 1976), [out of print]
  • Karsh, Efraim. Arafat's War: The Man and His Battle for Israeli Conquest. New York: Grove Press, 2003.
  • Khouri, Fred J. The Arab–Israeli Dilemma. 3rd ed. (Syracuse University Press, 1985), ISBN 0-8156-2340-2
  • Morris, Benny. Righteous Victims: A History of the Zionist–Arab Conflict, 1881–2001 (Vintage Books, 2001), ISBN 0-679-74475-4
  • Morris, Benny. 1948: The History of the First Arab-Israeli War. New Haven: Yale University Press, 2008.
  • Mandel, Neville J. The Arabs and Zionism Before World War I (University of California Press, 1976), [out of print]
  • Ovendale,Ritchie. The Origin of the Arab-Israeli Wars, (Pearson Education, Edinburgh (1984), 2004 4th revised ed.
  • Pappe, Ilan A History of Modern Palestine: One Nation, Two Peoples: Second Edition (Cambridge: Cambridge University Press, 2006)
  • Roraback, Amanda. Palestine in a Nutshell or Israel in a Nutshell (Enisen Publishing, 2004), ISBN 0-9702908-4-5
  • Safran, Nadav. Israel: The Embattled Ally (The Belknap Press, Harvard, 1978), [out of print]
  • Sela, Avraham. "Arab-Israeli Conflict." The Continuum Political Encyclopedia of the Middle East. Ed. Avraham Sela. New York: Continuum, 2002. pp. 58–121.
  • Shlaim, Avi. The Iron Wall: Israel and the Arab World (Luân Đôn: Penguin Books, 2000), ISBN 978-0-140-28870-4
  • Smith, Charles D. Palestine and the Arab–Israeli Conflict. 5th ed. (Bedford/St. Martin’s, 2004), ISBN 0-312-40408-5
  • Sykes, Christopher. Crossroads to Israel (Cleveland: The World Publishing Company, 1965), [out of print]
  • Tessler, Mark. A History of the Israeli–Palestinian Conflict (Indiana University Press, 1994), ISBN 0-253-20873-4
  • Thomas, Baylis. How Israel Was Won (Lexington Books, 1999), ISBN 0-7391-0064-5
  • Wasserstein, Bernard. Israelis and Palestinians (Yale University Press, 2003), ISBN 0-300-10172-4

Phân tích

Hư cấu

Liên kết ngoài

Chính phủ và các nguồn chính thức

Truyền thông khu vực

Israel
Ả rập

Các nhóm cố vấn và Phân tích chiến lược

Những đề xuất hoà bình

Xem bài chính: Danh sách những đề xuất hoà bình Trung Đông

Bản đồ

Các nguồn chung

satqwfet

Xung đột Ả Rập-Israel

  Liên đoàn Ả Rập
  Từng xảy ra chiến tranh với Israel
  Israel
  Dải Gaza và Bờ Tây
Thời gian1948–1994 / nay
Địa điểm
Trung Đông/Bắc Phi
Kết quả Đang diễn ra
Tham chiến
 Israel  Liên đoàn Ả Rập
Thương vong và tổn thất
74.000 quân nhân chết, 18.000 dân thường thiệt mạng (1945–1995)

Cuộc Xung đột Ả Rập-Do Thái (tiếng Ả Rập: الصراع العربي الإسرائيلي‎, tiếng Hebrew: הסכסוך הישראלי ערבי‎) là những hành vi thù địch và căng thẳng chính trị đã kéo dài khoảng một thế kỷ. Nó liên quan tới sự thành lập Nhà nước Israel hiện đại, cũng như sự thành lập và độc lập của nhiều quốc gia Ả Rập trong cùng thời kỳ, và mối quan hệ giữa các nước Ả Rập và Israel (xem bài liên quan Xung đột Israel-Palestine).

Phạm vi cuộc xung đột

Một số người sử dụng thuật ngữ "Xung đột Trung Đông" để chỉ vấn đề này; tuy nhiên, đây là vùng đã xảy ra nhiều cuộc xung đột không có sự tham gia của Israel (xem Danh sách những cuộc xung đột tại Trung Đông). Từ năm 1979, cuộc xung đột có thêm sự hiện diện của nước Cộng hòa Hồi giáo Iran (một quốc gia không Ả Rập, không nổi bật trên bản đồ).

Dù chỉ xảy ra trên một diện tích địa lý và với số lượng thương vong khá nhỏ, cuộc xung đột đã trở thành tâm điểm quan tâm của truyền thông quốc tế cũng như sự chú ý của giới ngoại giao trong nhiều thập kỷ, có lẽ bởi trữ lượng dầu mỏ to lớn trong vùng, dù thực tế rằng Israel thực tế không sở hữu bất kỳ nguồn tài nguyên dầu mỏ nào,[1] và cả Liban cũng như Chính quyền Palestine cũng không hề có[2]. Hơn nữa, nhiều quốc gia, cá nhân và các tổ chức phi chính phủ ở khắp nơi trên thế giới đều cảm thấy mình có liên quan tới cuộc xung đột này vì những lý do như quan hệ văn hóatôn giáo với Đạo Hồi, văn hóa Ả Rập, Thiên Chúa giáo, Do Thái giáo hay Văn hóa Do Thái, hay vì ý thức hệ, nhân quyền, chiến lược hay các lý do tài chính khác.

Vì Israel là một chế độ dân chủ với hệ thống báo chí tự do, truyền thông được phép tiếp cận cuộc xung đột và nhờ thế cuộc xung đột cũng được tường thuật nhiều hơn. Một số người coi cuộc xung đột Ả Rập-Israel là một phần của (hay là dấu hiệu cảnh báo trước của) một sự xung đột giữa các nền văn minh lớn hơn giữa Thế giới phương TâyẢ Rập hay Thế giới Hồi giáo.[3][4] Những người khác cho rằng sự liên quan tôn giáo là một vấn đề khá mới trong cuộc xung đột này.[5] Cuộc xung đột này đã gây ra tình trạng thù địch và nhiều cuộc tấn công lẫn nhau từ phía những người ủng hộ (hay được cho là ủng hộ) từ phía các bên đối nghịch tại các quốc gia trên toàn thế giới.

Lịch sử cuộc xung đột

Khởi đầu-1948

Cuộc di cư Do Thái vào Vùng đất Israel/Palestine dưới thời cầm quyền của Đế chế Ottoman và sau này dưới thời ủy trị Anh đã làm gia tăng căng thẳng giữa dân tộc Do Thái và các sắc dân Ả Rập trong vùng.[6]

Tới cuối Chiến tranh thế giới thứ hai, cuộc xung đột đã trở thành một vấn đề quốc tế lớn. Liên hiệp quốc, Hoa KỳLiên bang Xô viết quyết tâm đưa ra một giải pháp hai quốc gia. Cuộc phân chia do Liên hiệp quốc ủy nhiệm được tiến hành năm 1948, nhưng bị người Palestine và nhiều quốc gia Ả Rập phản đối.[7]

Israel tuyên bố độc lập ngày 14 tháng 5 năm 1948. Hầu như ngay lập tức, Ai Cập, Liban, Syria, TransjordanIraq tuyên bố chiến tranh với nhà nước non trẻ. Tới cuối cuộc Chiến tranh Ả Rập-Israel 1948, Israel đã mở rộng thêm khá nhiều biên giới của mình, và ký kết những thỏa thuận ngừng bắn với các nước Ả Rập láng giềng.[8]

1949-11 tháng 6 năm 1967

Năm 1954, Ai Cập bắt đầu phong toả Eo Tiran, ngăn cản mọi con tàu tới Eilat.[9] Ngày 26 tháng 7 năm 1956, Ai Cập quốc hữu hóa Công ty Kênh đào Suez, và đóng cửa kênh đào này với tàu bè Israel.[10]

Israel trả đũa ngày 29 tháng 10 năm 1956, bằng cách xâm chiếm Bán đảo Sinai với sự hỗ trợ của Anh và Pháp. Trong cuộc Khủng hoảng kênh đào Suez, Israel đã chiếm Dải Gaza và Bán đảo Sinai. Hoa KỳLiên hiệp quốc nhanh chóng gây sức ép buộc nước này ngừng chiến,[10][11] mở lại đường biển trong khu vực, hoàn thành việc rút hoàn toàn quân đội Israel khỏi lãnh thổ Ai Cập, và giải giáp hoàn toàn Sinai. Lực lượng Khẩn cấp Liên hiệp quốc (UNEF) được triển khai để giám sát việc giải giáp.[12]

Ngày 19 tháng 5 năm 1967, Ai Cập trục xuất các quan sát viên UNEF,[13] và triển khai 100.000 binh sĩ tại Bán đảo Sinai.[14] Sau đó nước này đóng cửa Eo Tiran đối với tàu bè Israel,[15][16] khiến tình hình khu vực quay trở lại như giai đoạn trước năm 1956. Ngày 30 tháng 5 năm 1967, Jordan tham gia một hiệp ước phòng vệ chung với Ai Cập và Syria. Tổng thống Nasser tuyên bố: "Mục tiêu căn bản của chúng ta là phá huỷ Israel. Người Ả Rập muốn chiến đấu."[17]

Để trả đũa, ngày 5 tháng 6 Israel tung hầu hết tất cả máy bay của mình vào một cuộc tấn công không quân phủ đầu vào Ai Cập. Không quân Israel (AIF) đã tiêu diệt hầu hết Không quân Ai Cập - vẫn đang bất ngờ trước cuộc tấn công, sau đó quay về phía đông tiêu diệt nốt các lực lượng không quân Jordan, Syria và Iraq.[18] Cuộc tấn công này là yếu tố chủ chốt dẫn tới chiến thắng của Israel trong cuộc Chiến tranh Sáu Ngày.[14][16]

12 tháng 6 năm 1967-1973

Mùa hè năm 1967, các lãnh đạo Ả Rập gặp mặt tại Khartoum về cuộc chiến tranh nhằm tìm ra một lập trường chung với Israel. Họ đạt đến đồng thuận như sau:

  • Không công nhận Nhà nước Israel.
  • Không có hòa bình với Israel.
  • Không đàm phán với Israel.[19]

Năm 1969, Ai Cập đưa ra sáng kiến Chiến tranh Tiêu hao, với mục tiêu làm kiệt quệ nhà nước Israel buộc họ đầu hàng tại Bán đảo Sinai.[20] Cuộc chiến tranh chấm dứt với cái chết của Nasser năm 1970.

Ngày 6 tháng 10 năm 1973, Syria và Ai Cập tấn công Israel vào ngày lễ Yom Kippur, lấn lướt lực lượng quân sự bất ngờ của Israel.[21][22] Cuộc Chiến tranh Yom Kippur ảnh hưởng tới sự đối đầu gián tiếp giữa Hoa Kỳ và Liên bang Xô viết. Khi Israel đã chiếm lại ưu thế trên chiến trường, Liên bang Xô viết đã đe dọa can thiệp quân sự. Hoa Kỳ, thận trọng với cuộc chiến tranh hạt nhân, đã giàn xếp một cuộc ngưng bắn ngày 25 tháng 10.[21][22]

1974-2000

Ai Cập

Sau Hiệp ước Trại David cuối thập kỷ 1970, Israel và Ai Cập đã ký kết một hiệp ước hòa bình vào tháng 3 năm 1979. Theo những điều khoản của nó, Bán đảo Sinai được trao trả lại cho Ai Cập, và Dải Gaza tiếp tục nằm dưới quyền kiểm soát của Israel, sẽ được gộp vào trong nhà nước Palestine tương lai.[23]

Jordan

Tháng 10 năm 1994, Israel và Jordan đã ký kết một hiệp ước hòa bình, quy định sự hợp tác song phương, một sự kết thúc những sự thù địch, và một giải pháp với những vấn đề còn chưa được giải quyết.[8]

Iraq

Tháng 6 năm 1981, Israel đã thành công trong việc tấn công phá hủy cơ sở hạt nhân mới được xây dựng của Iraq trong Chiến dịch Opera.

Trong Chiến tranh Vùng Vịnh, Iraq đã bắn 39 tên lửa vào Israel, với hy vọng thống nhất thế giới Ả Rập chống lại liên quân đang tìm cách giải phóng Kuwait. Trước yêu cầu của Hoa Kỳ, Israel đã không trả đũa các cuộc tấn công này nhằm ngăn chặn sự bùng phát thêm của cuộc chiến.[8]

Liban

Năm 1970, sau một cuộc nội chiến kéo dài, vua Hussein đã trục xuất PLO khỏi Jordan. PLO chuyển sang đóng tại Liban và từ đó tung ra các cuộc tấn công nhằm vào Israel. Năm 1981, Syria, đồng minh của PLO, bố trí tên lửa tại Liban. Tháng 6 năm 1982, Israel xâm chiếm Liban. Trong vòng 2 tháng, PLO đã đồng ý rút lui.

Tháng 3 năm 1983, Israel và Liban ký kết một thỏa thuận ngừng bắn. Tuy nhiên, Syria đã gây sức ép buộc Tổng thống Amine Gemayel phải hủy bỏ hiệp ước này vào tháng 3 năm 1984. Tới năm 1985, các lực lượng Israel hầu như đã rút toàn bộ khỏi Liban,[8] Israel đã hoàn thành việc rút quân vào tháng 5 năm 2000, để lại một khoảng trống quyền lực và Syria cùng Hezbollah đã nhanh chóng nắm lấy. [24]

Palestine

Năm 1987, Phong trào Intifada lần thứ nhất bắt đầu. PLO bị trục xuất khỏi các cuộc đàm phán để giải quyết vấn đề cho tới khi họ công nhận Israel và từ bỏ chủ nghĩa khủng bố trong năm sau đó. Năm 1993, Israel và PLO đã ký kết Hiệp ước hòa bình Oslo, và bản "Tuyên bố về các Nguyên tắc" của họ, cùng với Tiến trình hòa bình, đã được coi là kim chỉ nam cho những quan hệ Israel-Palestine từ đó tới nay. [8]

2000-hiện nay

Để chống lại al-Aqsa Intifada, Israel đã tung ra cái gọi là cuộc tấn công vào các cơ sở khủng bố tại các trung tâm đô thị chính ở Bờ Tây năm 2002. Bạo lực một lần nữa lại lan tràn trong vùng. Với hy vọng tái khởi động tiến trình hòa bình, thủ tướng Israel Ariel Sharon đã bắt đầu chương trình đơn phương rút quân khỏi Dải Gaza năm 2003. Chính sách này được thực thi toàn bộ vào tháng 8 năm 2005.[25]

Tháng 7 năm 2006, các chiến binh Hezbollah đã tấn công một đoàn xe quân sự Israel, bắt cóc hai binh sĩ và giết hại bảy người khác, dẫn tới cuộc Xung đột Israel-Liban năm 2006.[23] Một cuộc ngừng bắn được Liên hiệp quốc bảo trợ bắt đầu có hiệu lực ngày 14 tháng 8 năm 2006, chính thức chấm dứt cuộc xung đột.[26]

Chú thích

  1. ^ CIA World Factbook. Israel
  2. ^ “The Greening Of The Middle East: Oil for Feud”. Đã bỏ qua tham số không rõ |source= (trợ giúp)
  3. ^ Abdel Mahdi Abdallah (Dec. 2003), More specifically, author Edward Said affirms his belief that if a solution can be found in Israel, the global community may be able to follow this guideline, generating peace and understanding between the cultures of the East and West. "Causes of Anti-Americanism in the Arab World: A Socio-Political Perspective," Middle East Review of International Affairs (MERIA) 7.4, accessed January 9, 2007.
  4. ^ Section 2: "Clash of Civilizations," in Arab-Israeli Conflict: Role of religion, Israel Science and Technology ("the national database and directory of science and technology related sites in Israel"), (c) 1999-2007, accessed January 9, 2007.
  5. ^ Ibrahim Al-Khouli and Wafa Sultan (February 21, 2006), "Arab-American Psychiatrist Wafa Sultan: There is No Clash of Civilizations but a Clash between the Mentality of the Middle Ages and That of the 21st Century," Clip No. 1050, printable transcript of television interview with Sultan conducted by Al-Khouli, broadcast on Al Jazeera, online posting, Middle East Media Research Institute (MEMRI) February 22, 2006, accessed January 9, 2007.
  6. ^ Sela, Avraham. "Arab-Israeli Conflict." The Continuum Political Encyclopedia of the Middle East. Ed. Avraham Sela. New York: Continuum, 2002. pp. 58-121.
  7. ^ “The incredible shrinking Palestine”. Đã bỏ qua tham số không rõ |source= (trợ giúp)
  8. ^ a b c d e "Israel." Encarta Encycolpedia. http://encarta.msn.com/encyclopedia_761575008_10____75/Israel_(country).html#s75
  9. ^ “Background Note: Israel”. US State Department. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2007.
  10. ^ a b “1956: Egypt Seizes Suez Canal”. British Broadcasting Service. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2007.
  11. ^ “UN GA Resolution 997”. Mideast Web. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2007.
  12. ^ http://encarta.msn.com/encyclopedia_761575008_10/Israel.html
  13. ^ “UN: Middle East - UNEF I, Background”. United Nations. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2007.
  14. ^ a b Lorch, Netanel. “The Arab-Israeli Wars”. Israeli Ministry of Foreign Affairs. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2007. Đã bỏ qua tham số không rõ |publishdate= (trợ giúp) Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “MFA: The Arab-Israeli Wars” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
  15. ^ 'Egypt Closes Gulf Of Aqaba To Israel Ships: Defiant move by Nasser raises Middle East tension', The Times, Tuesday, May 23, 1967; pg. 1; Issue 56948; col A.
  16. ^ a b “The Disaster of 1967”. The Jordanian Government. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2007.
  17. ^ “1967: Egypt and Jordan Unite Against Israel”. British Broadcasting Service. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2007.
  18. ^ “Course of the Six Day War”. Palestine Facts. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2007.
  19. ^ “President Mubarak Interview with Israeli TV”. Egyptian State Information Service. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2007. Đã bỏ qua tham số không rõ |publishdate= (trợ giúp)
  20. ^ “Israel: The War of Attrition”. Encyclopedia Britannica. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2007.
  21. ^ a b “Israel: The Yom Kippur War”. Encyclopedia Britannica. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2007.
  22. ^ a b “Arab-Israeli War of 1973”. Encarta Encyclopedia. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2007. Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “Encarta: Arab-Israeli War of 1973” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
  23. ^ a b "Israel." Encarta Encycolpedia. http://encarta.msn.com/encyclopedia_761575008_11/Israel.html Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “Encarta” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
  24. ^ "After the cease-fire." Brandeis University. http://my.brandeis.edu/news/item?news_item_id=105605&show_release_date=1
  25. ^ "Special Update: Disengagement - August 2005". Israeli Ministry of Foreign Affairs. http://www.mfa.gov.il/MFA/History/Modern+History/Historic+Events/Disengagement+-+August+2005.htm
  26. ^ CNN (2006). "Lebanon truce holds despite clashes". Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2006.

Đọc thêm

Lịch sử tổng quan

  • Bregman, Ahron (2002). Israel's Wars: A History Since 1947. Luân Đôn: Routledge. ISBN 0-415-28716-2
  • Bregman, Ahron Elusive Peace: How the Holy Land Defeated America.
  • Bard, Mitchell. The Complete Idiot's Guide to Middle East Conflict. 2nd ed. (Alpha, 2002), ISBN 0-02-864410-7
  • Bickerton, Ian J. and Carla L. Klausner. A Concise History of the Arab–Israeli Conflict. 4th ed. (Prentice Hall, 2001), ISBN 0-13-090303-5
  • Cohn-Sherbok, Dan. The Palestine-Israeli Conflict: A Beginner's Guide (Oneworld Publications, 2003), ISBN 1-85168-332-1
  • Cejka, Marek. Israel and Palestine - The past, present and Direction of the Middle Eastern Conflict (Barrister and Principal, 2005), ISBN 978-80-87029-16-9
  • David, Ron. Arabs & Israel for Beginners (Writers and Readers Publishing, Inc. 1996), ISBN 0-86316-161-8
  • Dowty, Alan. Israel/Palestine (Polity, 2005), ISBN 0-7456-3202-5
  • Eran, Oded. "Arab-Israel Peacemaking." The Continuum Political Encyclopedia of the Middle East. Ed. Avraham Sela. New York: Continuum, 2002.
  • Fraser, T. G. The Arab–Israeli Conflict. 2nd ed. (Palgrave Macmillan, 2004), ISBN 1-4039-1338-2
  • Gelvin, James L. The Israel-Palestine Conflict: One Hundred Years of War (Cambridge University Press, 2005), 0521618045
  • Harms, Gregory with Todd M. Ferry. The Palestine-Israel Conflict: A Basic Introduction (Pluto Press, 2005), ISBN 0-7453-2378-2
  • Hirst, David. The Gun and the Olive Branch. 3rd ed. (Nation Books, 2003), ISBN 1-56025-483-1
  • Hurewitz, J. C. The Struggle for Palestine (Shocken Books, 1976), [out of print]
  • Karsh, Efraim. Arafat's War: The Man and His Battle for Israeli Conquest. New York: Grove Press, 2003.
  • Khouri, Fred J. The Arab–Israeli Dilemma. 3rd ed. (Syracuse University Press, 1985), ISBN 0-8156-2340-2
  • Morris, Benny. Righteous Victims: A History of the Zionist–Arab Conflict, 1881–2001 (Vintage Books, 2001), ISBN 0-679-74475-4
  • Morris, Benny. 1948: The History of the First Arab-Israeli War. New Haven: Yale University Press, 2008.
  • Mandel, Neville J. The Arabs and Zionism Before World War I (University of California Press, 1976), [out of print]
  • Ovendale,Ritchie. The Origin of the Arab-Israeli Wars, (Pearson Education, Edinburgh (1984), 2004 4th revised ed.
  • Pappe, Ilan A History of Modern Palestine: One Nation, Two Peoples: Second Edition (Cambridge: Cambridge University Press, 2006)
  • Roraback, Amanda. Palestine in a Nutshell or Israel in a Nutshell (Enisen Publishing, 2004), ISBN 0-9702908-4-5
  • Safran, Nadav. Israel: The Embattled Ally (The Belknap Press, Harvard, 1978), [out of print]
  • Sela, Avraham. "Arab-Israeli Conflict." The Continuum Political Encyclopedia of the Middle East. Ed. Avraham Sela. New York: Continuum, 2002. pp. 58–121.
  • Shlaim, Avi. The Iron Wall: Israel and the Arab World (Luân Đôn: Penguin Books, 2000), ISBN 978-0-140-28870-4
  • Smith, Charles D. Palestine and the Arab–Israeli Conflict. 5th ed. (Bedford/St. Martin’s, 2004), ISBN 0-312-40408-5
  • Sykes, Christopher. Crossroads to Israel (Cleveland: The World Publishing Company, 1965), [out of print]
  • Tessler, Mark. A History of the Israeli–Palestinian Conflict (Indiana University Press, 1994), ISBN 0-253-20873-4
  • Thomas, Baylis. How Israel Was Won (Lexington Books, 1999), ISBN 0-7391-0064-5
  • Wasserstein, Bernard. Israelis and Palestinians (Yale University Press, 2003), ISBN 0-300-10172-4

Phân tích

Hư cấu

Liên kết ngoài

Chính phủ và các nguồn chính thức

Truyền thông khu vực

Israel
Ả rập

Các nhóm cố vấn và Phân tích chiến lược

Những đề xuất hoà bình

Xem bài chính: Danh sách những đề xuất hoà bình Trung Đông

Bản đồ

Các nguồn chung