Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nhân Hiếu Văn Hoàng hậu”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 41: Dòng 41:
Năm Kiến Văn thứ 4 ([[1402]]), [[tháng 7]] ÂL, Yên vương Chu Đệ tức vị, tức [[Minh Thành Tổ]]. Cùng năm ấy, vào [[tháng 11]] ÂL, Yên vương phi được sách lập làm [[Hoàng hậu]].
Năm Kiến Văn thứ 4 ([[1402]]), [[tháng 7]] ÂL, Yên vương Chu Đệ tức vị, tức [[Minh Thành Tổ]]. Cùng năm ấy, vào [[tháng 11]] ÂL, Yên vương phi được sách lập làm [[Hoàng hậu]].


Từ Hoàng hậu là người có học vấn, lễ độ, bà tương trợ rất nhiều cho Chu Đệ trong việc yên ổn nhân tâm, bà nói: [''"Mỗi năm nam bắc chinh chiến không ngừng, binh dân đều đã mỏi mệt bất kham, hiện tại nên vỗ về cho họ nghỉ ngơi"'']. Sau đó lại tiếp: [''"Hiền tài bây giờ đều là do Cao Hoàng đế thu nhận, bệ hạ đừng nên nghi người mới thân người cũ. Hơn nữa, Đế Nghiêu thi hành nhân trị, là từ thân nhân của chính mình mà bắt đầu"'']. Chu Đệ đối với tiến ngôn của bà luôn đánh giá cao và tiếp thu<ref>《明史》: 王即帝位,冊為皇后。言:「南北每年戰鬪,兵民疲敝,宜與休息。」又言:「當世賢才皆高皇帝所遺,陛下不宜以新舊間。」又言:「帝堯施仁自親始。」帝輒嘉納焉。</ref>. Cũng vào lúc Tĩnh Nam chi biến xảy ra, Từ gia chia thành hai phe. Đại ca của Từ thị là [[Từ Huy Tổ]] đứng về phe đối đầu với Chu Đệ bảo vệ Minh Huệ Đế, trong sự kiện Lý Cảnh Long công phá Bắc Bình còn có sự giúp đỡ của Huy Tổ. Vì muốn giúp chồng hoàn thành đại nghiệp, Từ thị đã đau đớn gạt bỏ tình thân đứng thế đối đầu với chính anh ruột mình, bỗng chốc từ anh em ruột trở thành kẻ địch. Sau khi Chu Đệ thành công soán vị, Huy Tổ không phục, bị giam cầm trong nhà.
Từ Hoàng hậu là người có học vấn, lễ độ, bà tương trợ rất nhiều cho Chu Đệ trong việc yên ổn nhân tâm, bà nói: [''"Mỗi năm nam bắc chinh chiến không ngừng, binh dân đều đã mỏi mệt bất kham, hiện tại nên vỗ về cho họ nghỉ ngơi"'']. Sau đó lại tiếp: [''"Hiền tài bây giờ đều là do Cao Hoàng đế thu nhận, bệ hạ đừng nên nghi người mới thân người cũ. Hơn nữa, Đế Nghiêu thi hành nhân trị, là từ thân nhân của chính mình mà bắt đầu"'']. Chu Đệ đối với tiến ngôn của bà luôn đánh giá cao và tiếp thu<ref>《明史》: 王即帝位,冊為皇后。言:「南北每年戰鬪,兵民疲敝,宜與休息。」又言:「當世賢才皆高皇帝所遺,陛下不宜以新舊間。」又言:「帝堯施仁自親始。」帝輒嘉納焉。</ref>. Cũng vào lúc Tĩnh Nam chi biến xảy ra, Từ gia chia thành hai phe. Đại ca của Từ thị là [[Từ Huy Tổ]] đứng về phe đối đầu với Chu Đệ bảo vệ Minh Huệ Đế, trong sự kiện Lý Cảnh Long công phá Bắc Bình còn có sự giúp đỡ của Huy Tổ. Vì muốn giúp chồng hoàn thành đại nghiệp, Từ thị đã đau đớn gạt bỏ tình thân đứng thế đối đầu với chính anh ruột mình, bỗng chốc từ anh em ruột trở thành kẻ địch. Sau khi Chu Đệ thành công soán vị, Huy Tổ không phục, bị giam cầm trong nhà. Em trai bà là [[Từ Tăng Thọ]], vì thường giúp Yên vương dò la tin tức nên bị hại chết. Sau khi Chu Đệ lên ngôi, đề nghị truy phong, bà không nhận, nhưng ông nhất quyết tặng làm ''Định Quốc công'' (定國公). Sự thành, Chu Đệ mới nói cho bà biết, bà nói: [''"Việc này không phải ý của thiếp"''], tỏ ý không vui<ref>《明史》: 初,后弟增壽常以國情輸之燕,為惠帝所誅,至是欲贈爵,后力言不可。帝不聽,竟封定國公,命其子景昌襲,乃以告后。后曰:「非妾志也。」終弗謝。</ref>.


Đối với nội trị của Chu Đệ, Từ Hoàng hậu đặc biệt quan tâm đối đãi các lão thần phò trợ ông, nên phần nào giúp Chu Đệ trong việc thu phục nhân tâm. Bà từng nói 2 con trai thứ là Hán vương cùng Triệu vương phẩm tính bất lương, nên chú ý chọn hiền tài. Có một ngày, bà hỏi: [''"Bệ hạ là cùng những quan viên nào trị lý quốc gia?"''], ông đáp: [''"Lục khanh quản lý chính vụ, còn Hàn Lâm viện là phác thảo công văn"'']. Từ Hoàng hậu nghe vậy, cho triệu các [[mệnh phụ]] là vợ của các quan viên vừa kể trên, ban thưởng cho họ và thường trò chuyện với họ, nói rằng: [''"Thê tử phụng dưỡng trượng phu, đâu chỉ là chuẩn bị đồ ăn, quần áo mà thôi, hẳn là còn có những vấn đề khác đáng lưu tâm. Bằng hữu nói, thì có thể thuận theo, cũng có thể vi phạm; nhưng mà vợ chồng nói với nhau, tắc uyển chuyển dễ nghe, dễ hạp lòng người. Ta sớm chiều phụng dưỡng Hoàng thượng, chỉ dốc lòng muốn vì bá tánh, các ngươi cũng nên cổ vũ trượng phu của mình như vậy"'']. Từ Hoàng hậu còn cho ban hành cả nước cuốn [[Nội huấn]] (內訓) gồm 20 thiên; còn cho trích lời gia huấn cổ nhân mà viết thành [[Khuyến thiện thư]] (勸善書), để giảng công đức cho phụ nữ khắp cả nước và truyền bá tư tưởng quy thiện cho nhân dân thiên hạ. Việc làm của bà giúp Chu Đệ lấy được nhân tâm, giúp đỡ xóa nhòa đi việc cướp ngôi của Chu Đệ<ref>《明史》: 嘗言漢、趙二王性不順,官僚宜擇廷臣兼署之。一日,問:「陛下誰與圖治者?」帝曰:「六卿理政務,翰林職論思。」后因請悉召見其命婦,賜冠服鈔幣。諭曰:「婦之事夫,奚止饋食衣服而已,必有助焉。朋友之言,有從有違,夫婦之言,婉順易入。吾旦夕侍上,惟以生民為念,汝曹勉之。」嘗採《女憲》、《女誡》作《內訓》二十篇,又類編古人嘉言善行,作《勸善書》,頒行天下。</ref>.
Năm Vĩnh Lạc thứ 2 ([[1403]]), Từ Hoàng hậu cho ban hành cả nước ''Nội huấn'' (内训) và ''Khuyến Thiện thư'' (劝善书), để giảng công đức cho phụ nữ khắp cả nước và truyền bá tư tưởng quy thiện cho nhân dân thiên hạ. Việc làm của bà giúp [[Minh Thành Tổ]] lấy được nhân tâm, giúp đỡ xóa nhòa đi việc cướp ngôi của [[Minh Thành Tổ]].


Năm Vĩnh Lạc thứ 5 ([[1407]]), [[tháng 7]] ÂL, Từ Hoàng hậu bệnh nặng. Trước khi lâm chung, bà khuyên bảo Chu Đệ yêu quý bá tánh, tìm kiếm hiền tài, đối Tôn Thất nên lấy ân lễ mà đãi, không cần kiêu dưỡng ngoại thích. Lại báo cho Hoàng thái tử Chu Cao Sí rằng: [''"Khi xưa các bá tánh thê nhi cùng ta tử thủ Bắc Bình. Ta hối tiếc chưa từng được cùng Hoàng thượng bắc tuần, nếu có thể con hãy thay ta chăm sóc cho họ"'']. Thế rồi vào ngày [[4 tháng 7]] (âm lịch) năm ấy, Từ Hoàng hậu qua đời, hưởng dương 46 tuổi. Chu Đệ cực kì bi thống, sai [[Linh Cốc tự]] và [[Thiên Hi tự]] vì bà mà làm đại lễ ăn chay cầu siêu, mệnh [[Quang lộc tự]] chuẩn bị tế điện vật phẩm. Ngày [[14 tháng 10]] (âm lịch) cùng năm, Chu Đệ quyết định [[thụy hiệu]] cho Đại Hành Hoàng hậu Từ thị là ['''Nhân Hiếu Hoàng hậu'''; 仁孝皇后]<ref>《明史》: 永樂五年七月,疾革,惟勸帝愛惜百姓,廣求賢才,恩禮宗室,毋驕畜外家。又告皇太子:「曩者北平將校妻為我荷戈城守,恨未獲隨皇帝北巡,一賚卹之也。」是月乙卯崩,年四十有六。帝悲慟,為薦大齋於靈谷、天禧二寺,聽群臣致祭,光祿為具物。十月甲午,諡曰「仁孝皇后」。</ref><ref>《明太宗實錄》卷69:后崩,上哭恸群臣奉慰,上曰皇后仁明贤淑,汉马氏唐长孙之伦也,虽处中宫其一念惟在仁民继今朕入宫不复闻直言矣</ref>.
Từ Hoàng hậu còn cho triệu các mệnh phụ phu nhân của các danh thần trong triều, ban thưởng cho họ và thường trò chuyện với họ. Bà đề cao sự hiền đức và tấm lòng giúp chồng trong sự nghiệp. Bà còn năng động khuyến khích [[Minh Thành Tổ]] áp dụng luật nhân từ, khuyến khích trọng dụng hiền tài, xóa bỏ hình cụ, lấy nhân từ mà cai trị.


Năm Vĩnh Lạc thứ 7 ([[1409]]), Chu Đệ bắc tuần, có ý quyết dời đô. Cũng tại đây, Chu Đệ quyết định núi [[Thiên Thọ Sơn]] thuộc chọn huyện [[Xương Bình]] làm lăng khu cấm địa, dự định xây lăng mộ và táng Từ Hoàng hậu tại đây. Năm thứ 11 ([[1413]]), địa cung hoàn thành, kim quan của Từ Hoàng hậu được chuyển từ Nam Kinh đến Bắc Kinh để đưa vào an táng, tức [[Minh Trường lăng|Trường lăng]] (長陵). Bà là người đầu tiên được táng trong [[Minh thập tam lăng]] (明十三陵)<ref>Vì [[Minh Hiếu lăng]] của Minh Thái Tổ và Mã Hoàng hậu nằm tại Nam Kinh, không thuộc Bắc Kinh Minh lăng Thiên Thọ Sơn.</ref>.
Năm Vĩnh Lạc thứ 5 ([[1407]]), ngày [[22 tháng 7]] âm lịch, Từ Hoàng hậu qua đời, thọ 46 tuổi. Sau khi qua đời, thụy hiệu của bà là '''Nhân Hiếu Từ Ý Thành Minh Trang Hiến Phối Thiên Tề Thánh Văn Hoàng hậu''' (仁孝慈懿誠明庄獻配天齊聖文皇后).

Sau khi Chu Cao lên ngôi, tức [[Minh Nhân Tông]], thụy hiệu của bà được dâng là '''Nhân Hiếu Từ Ý Thành Minh Trang Hiến Phối Thiên Tề Thánh Văn Hoàng hậu''' (仁孝慈懿誠明庄獻配天齊聖文皇后). Phối hưởng [[Thái miếu]].


== Hậu duệ ==
== Hậu duệ ==
'''Nhân Hiếu Văn Hoàng hậu''' hạ sinh cho [[Minh Thành Tổ]] 3 [[Hoàng tử]] và 4 [[Hoàng nữ]]:
Nhân Hiếu Văn Hoàng hậu hạ sinh cho [[Minh Thành Tổ]] được 3 [[Hoàng tử]] và 4 [[Hoàng nữ]]:
# [[Minh Nhân Tông]] Chu Cao Sí (朱高炽; [[16 tháng 8]], [[1378]] - [[29 tháng 5]], [[1425]]), đích trưởng tử của [[Minh Thành Tổ]].
# [[Minh Nhân Tông]] Chu Cao Sí [朱高炽], hoàng đích trưởng tử.
# Vĩnh An công chúa (永安公主; [[1377]] - [[1417]]), hạ giá lấy Quảng Bình hầu ''Viên Dung'' (袁容).
# [[Vĩnh An công chúa]] [永安公主; 1377 - 1417], hoàng đích trưởng nữ, tên ''Ngọc Anh'' (玉英), hạ giá lấy Quảng Bình hầu [[Viên Dung]] (袁容).
# Vĩnh Bình công chúa (永平公主; [[1379]] - [[1444]]), hạ giá lấy Phú Dương hầu ''Lý Phượng'' (李让).
# [[Vĩnh Bình công chúa]] [永平公主; 1379 - 1444], hoàng đích thứ nữ, hạ giá lấy Phú Dương hầu [[Lý Phượng]] (李让).
# [[Chu Cao Hú]] (朱高煦; [[30 tháng 12]], [[1380]] - [[6 tháng 10]], [[1426]]), hoàng nhị tử của [[Minh Thành Tổ]], tước phong là '''Cao Dương quận vương''' (高阳郡王), về sau cải thành '''Hán vương''' (王). Sinh thời ông cường tráng anh tuấn, giỏi cung kị, rất được [[Minh Thành Tổ]] coi trọng, từng có ý được lập [[Thái tử]]. Nhưng [[Minh Thành Tổ]] quyết định lập đích trưởng tử là [[Chu Cao Sí]], khiến ông bất mãn, từ đó nuôi ý noi gương [[Minh Thành Tổ]] mà đoạt ngôi từ anh. Phát động ''"Cao Hú chi loạn"'' (高煦之亂) nhưng bị thất bại, bị cháu ruột là [[Minh Tuyên Tông]] bắt giam và giết chết.
# [[Chu Cao Hú]] [朱高煦; 30 tháng 12, 1380 - 6 tháng 10, 1426], hoàng nhị tử, tước phong là ''Cao Dương Quận vương'' (高阳郡王), về sau cải thành '''Hán vương''' (王). Sinh thời ông cường tráng anh tuấn, giỏi cung kị, rất được Minh Thành Tổ coi trọng, từng có ý được lập Thái tử. Nhưng Minh Thành Tổ quyết định lập đích trưởng tử là Chu Cao Sí, khiến ông bất mãn, từ đó nuôi ý noi gương Minh Thành Tổ mà đoạt ngôi từ anh. Phát động ''[[Cao Hú chi loạn]]'' (高煦之亂) nhưng bị thất bại, bị cháu ruột là [[Minh Tuyên Tông]] bắt giam và giết chết.
# [[Chu Cao Toại]] (朱高燧; [[19 tháng 1]], [[1383]] - [[5 tháng 10]], [[1431]]), hoàng tam tử của [[Minh Thành Tổ]], tước phong là '''Triệu vương''' (趙王). Sau khi qua đời được truy thụy là '''Triệu Giản vương''' ().
# [[Chu Cao Toại]] [朱高燧; 19 tháng 1, 1383 - 5 tháng 10, 1431], hoàng tam tử, tước phong là '''Triệu vương''' (趙王). Sau khi qua đời được truy thụy là '''Giản''' (簡).
# An Thành công chúa (安成公主; [[1384]] - [[1443]]), hạ giá ''Tống Hổ'' (宋琥), con trai của Tây Ninh hầu ''Tống Thịnh'' (宋晟).
# [[An Thành công chúa]] [安成公主; 1384 - 1443], hạ giá [[Tống Hổ]] (宋琥), con trai thứ của Tây Ninh hầu [[Tống Thịnh]] (宋晟).
# Hàm Ninh công chúa (咸宁公主; [[1385]] - [[1440]]), hạ giá lấy ''Tống Anh'' (宋瑛), con trai của Tây Ninh hầu ''Tống Thịnh'' (宋晟).
# [[Hàm Ninh công chúa]] [咸宁公主; 1385 - 1440], hạ giá lấy [[Tống Anh]] (宋瑛), con trai út của Tây Ninh hầu Tống Thịnh.


== Tham khảo ==
== Tham khảo ==
{{tham khảo}}
{{tham khảo}}
* [https://zh.wikisource.org/wiki/%E6%98%8E%E5%8F%B2/%E5%8D%B7113#%E4%BB%81%E5%AD%9D%E6%96%87%E7%9A%87%E5%90%8E Minh sử, quyển 113, liệt truyện đệ 1, Hậu phi nhất]: ''Nhân Hiếu Văn Hoàng hậu''
* [[Minh sử]]


{{Hoàng hậu nhà Minh}}
{{Hoàng hậu nhà Minh}}

Phiên bản lúc 14:44, ngày 7 tháng 1 năm 2020

Nhân Hiếu Văn Hoàng hậu
仁孝文皇后
Minh Thành Tổ Hoàng hậu
Hoàng hậu nhà Minh
Tại vị1402 - 1407
Tiền nhiệmHuệ Đế Mã Hoàng hậu
Kế nhiệmThành Hiếu Chiêu Hoàng hậu
Thông tin chung
Sinh1362
Hào Châu
Mất15 tháng 8, 1407 (44–45 tuổi)
Nam Kinh
An tángTrường lăng (長陵)
Phối ngẫuMinh Thành Tổ
Chu Đệ
Hậu duệ
Thụy hiệu
Nhân Hiếu Từ Ý Thành Minh Trang Hiến Phối Thiên Tề Thánh Văn Hoàng hậu
(仁孝慈懿誠明庄獻配天齊聖文皇后)
Thân phụTừ Đạt
Thân mẫuTạ phu nhân

Nhân Hiếu Văn Hoàng hậu (chữ Hán: 仁孝文皇后; 1362 - 15 tháng 8, 1407), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Thành Tổ Chu Đệ và là sinh mẫu của Minh Nhân Tông Chu Cao Sí. Bà nổi tiếng trong lịch sử nhà Minh bởi tính cách hiền huệ và công lao to lớn trong sự nghiệp của Minh Thành Tổ.

Thân thế

Nhân Hiếu Văn Hoàng hậu có họ Từ (徐氏), nguyên quán ở Hào Châu (濠州; nay là khu vực huyện Phượng Dương, thuộc thỉnh An Huy), sinh vào năm Chí Chính thứ 22 (1362) thời Nguyên Huệ Tông. Bà là con gái của Khai quốc đại công thần Từ Đạt, một trong 18 anh em kết nghĩa của Minh Thái Tổ khi còn hàn vi. Mẹ bà là Tạ thị, con gái thứ của Tạ Tái Hưng (謝再興).

Bà có bốn người anh trai là Từ Huy Tổ (徐輝祖), Từ Thiêm Phúc (徐添福), Từ Ưng Tự (徐膺緒) và Từ Tăng Thọ (徐增壽). Bà là con gái lớn của Từ Đạt nên là chị cả của những cô em gái còn lại, trong đó cô em thứ hai và thứ tư đều lấy các người con trai khác của Minh Thái Tổ là Đại Giản vương Chu Quế (朱桂) và An Huệ vương Chu Doanh (朱楹). Tương truyền bà có một người em gái là Từ Diệu Cẩm (徐妙锦), tuy tài hoa nhưng không xuất giá.

Theo Minh sử ghi lại, Từ thị từ nhỏ có tiếng giỏi thi thư, hiệu [Nữ chư sinh; 女諸生]. Chu Nguyên Chương nghe biết Từ thị hiền thục, liền đem Từ Đạt đến hỏi: ["Trẫm cùng ngươi là bạn thuở hàn vi, từ xưa đến nay quân thần hợp lòng, thường sẽ thành quan hệ thông gia. Ngươi có con gái tốt như vậy, Trẫm muốn ban hôn cùng con trai của trẫm là Chu Đệ"]. Từ Đạt nghe xong thì dập đầu bái tạ, do đó Từ thị đính hôn với Chu Đệ[1].

Yên Vương phi

Năm Hồng Vũ thứ 9 (1377), Từ thị chính thức được gả cho Yên vương Chu Đệ. Lúc đó bà mới 15 tuổi, còn Chu Đệ cũng mới 17 tuổi. Bà có tư sắc xinh đẹp, ôn nhu hòa hiếu, đối với Hiếu Từ Cao Hoàng hậu rất đúng lễ nghi nên được bà yêu quý.

Năm Hồng Vũ thứ 13 (1381), Từ thị cùng Chu Đệ đến phiên ấp Bắc Bình, là đất phong của Yên vương. Trước đó, Mã Hoàng hậu băng thệ, Từ thị một mực giữ hiếu thủ tang 3 năm. Tuy trong di ngôn của Mã Hoàng hậu không cần quá mức thanh đạm, nhưng Từ thị vẫn theo quy củ, ăn mặc đều đơn sơ, không hề quá phận[2].

Năm Hồng Vũ thứ 32 (1399), Minh Thái Tổ băng hà, cháu đích tôn là Hoàng thái tôn Chu Doãn Văn, kế vị tức Minh Huệ Đế. Yên vương Chu Đệ từ lâu có ý muốn cướp ngôi, bèn tập hợp gây dựng thanh thế hiển hách.

Khi Chu Đệ phát động Tĩnh Nam chi biến, triều đình đã phái Lý Cảnh Long vây đánh Bắc Bình đúng lúc Chu Đệ đang đến xin cứu viện ở Ninh Hiến vương Chu Quyền. Chính lúc nguy cấp, tuy Thế tử Chu Cao Sí nhậm mệnh thủ thành, nhưng binh giáp bố trí ra sao đều do Từ thị chủ trương. Khi tướng Cảnh Long kịch liệt công thành, binh mệt lương thiếu, Từ thị đã khích lệ thê tử của tướng sĩ cùng mình mặc giáp, ra sức chống đỡ. Vì thế Bắc Bình được bảo toàn[3].

Hoàng hậu

Năm Kiến Văn thứ 4 (1402), tháng 7 ÂL, Yên vương Chu Đệ tức vị, tức Minh Thành Tổ. Cùng năm ấy, vào tháng 11 ÂL, Yên vương phi được sách lập làm Hoàng hậu.

Từ Hoàng hậu là người có học vấn, lễ độ, bà tương trợ rất nhiều cho Chu Đệ trong việc yên ổn nhân tâm, bà nói: ["Mỗi năm nam bắc chinh chiến không ngừng, binh dân đều đã mỏi mệt bất kham, hiện tại nên vỗ về cho họ nghỉ ngơi"]. Sau đó lại tiếp: ["Hiền tài bây giờ đều là do Cao Hoàng đế thu nhận, bệ hạ đừng nên nghi người mới thân người cũ. Hơn nữa, Đế Nghiêu thi hành nhân trị, là từ thân nhân của chính mình mà bắt đầu"]. Chu Đệ đối với tiến ngôn của bà luôn đánh giá cao và tiếp thu[4]. Cũng vào lúc Tĩnh Nam chi biến xảy ra, Từ gia chia thành hai phe. Đại ca của Từ thị là Từ Huy Tổ đứng về phe đối đầu với Chu Đệ bảo vệ Minh Huệ Đế, trong sự kiện Lý Cảnh Long công phá Bắc Bình còn có sự giúp đỡ của Huy Tổ. Vì muốn giúp chồng hoàn thành đại nghiệp, Từ thị đã đau đớn gạt bỏ tình thân đứng thế đối đầu với chính anh ruột mình, bỗng chốc từ anh em ruột trở thành kẻ địch. Sau khi Chu Đệ thành công soán vị, Huy Tổ không phục, bị giam cầm trong nhà. Em trai bà là Từ Tăng Thọ, vì thường giúp Yên vương dò la tin tức nên bị hại chết. Sau khi Chu Đệ lên ngôi, đề nghị truy phong, bà không nhận, nhưng ông nhất quyết tặng làm Định Quốc công (定國公). Sự thành, Chu Đệ mới nói cho bà biết, bà nói: ["Việc này không phải ý của thiếp"], tỏ ý không vui[5].

Đối với nội trị của Chu Đệ, Từ Hoàng hậu đặc biệt quan tâm đối đãi các lão thần phò trợ ông, nên phần nào giúp Chu Đệ trong việc thu phục nhân tâm. Bà từng nói 2 con trai thứ là Hán vương cùng Triệu vương phẩm tính bất lương, nên chú ý chọn hiền tài. Có một ngày, bà hỏi: ["Bệ hạ là cùng những quan viên nào trị lý quốc gia?"], ông đáp: ["Lục khanh quản lý chính vụ, còn Hàn Lâm viện là phác thảo công văn"]. Từ Hoàng hậu nghe vậy, cho triệu các mệnh phụ là vợ của các quan viên vừa kể trên, ban thưởng cho họ và thường trò chuyện với họ, nói rằng: ["Thê tử phụng dưỡng trượng phu, đâu chỉ là chuẩn bị đồ ăn, quần áo mà thôi, hẳn là còn có những vấn đề khác đáng lưu tâm. Bằng hữu nói, thì có thể thuận theo, cũng có thể vi phạm; nhưng mà vợ chồng nói với nhau, tắc uyển chuyển dễ nghe, dễ hạp lòng người. Ta sớm chiều phụng dưỡng Hoàng thượng, chỉ dốc lòng muốn vì bá tánh, các ngươi cũng nên cổ vũ trượng phu của mình như vậy"]. Từ Hoàng hậu còn cho ban hành cả nước cuốn Nội huấn (內訓) gồm 20 thiên; còn cho trích lời gia huấn cổ nhân mà viết thành Khuyến thiện thư (勸善書), để giảng công đức cho phụ nữ khắp cả nước và truyền bá tư tưởng quy thiện cho nhân dân thiên hạ. Việc làm của bà giúp Chu Đệ lấy được nhân tâm, giúp đỡ xóa nhòa đi việc cướp ngôi của Chu Đệ[6].

Năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407), tháng 7 ÂL, Từ Hoàng hậu bệnh nặng. Trước khi lâm chung, bà khuyên bảo Chu Đệ yêu quý bá tánh, tìm kiếm hiền tài, đối Tôn Thất nên lấy ân lễ mà đãi, không cần kiêu dưỡng ngoại thích. Lại báo cho Hoàng thái tử Chu Cao Sí rằng: ["Khi xưa các bá tánh thê nhi cùng ta tử thủ Bắc Bình. Ta hối tiếc chưa từng được cùng Hoàng thượng bắc tuần, nếu có thể con hãy thay ta chăm sóc cho họ"]. Thế rồi vào ngày 4 tháng 7 (âm lịch) năm ấy, Từ Hoàng hậu qua đời, hưởng dương 46 tuổi. Chu Đệ cực kì bi thống, sai Linh Cốc tựThiên Hi tự vì bà mà làm đại lễ ăn chay cầu siêu, mệnh Quang lộc tự chuẩn bị tế điện vật phẩm. Ngày 14 tháng 10 (âm lịch) cùng năm, Chu Đệ quyết định thụy hiệu cho Đại Hành Hoàng hậu Từ thị là [Nhân Hiếu Hoàng hậu; 仁孝皇后][7][8].

Năm Vĩnh Lạc thứ 7 (1409), Chu Đệ bắc tuần, có ý quyết dời đô. Cũng tại đây, Chu Đệ quyết định núi Thiên Thọ Sơn thuộc chọn huyện Xương Bình làm lăng khu cấm địa, dự định xây lăng mộ và táng Từ Hoàng hậu tại đây. Năm thứ 11 (1413), địa cung hoàn thành, kim quan của Từ Hoàng hậu được chuyển từ Nam Kinh đến Bắc Kinh để đưa vào an táng, tức Trường lăng (長陵). Bà là người đầu tiên được táng trong Minh thập tam lăng (明十三陵)[9].

Sau khi Chu Cao Sí lên ngôi, tức Minh Nhân Tông, thụy hiệu của bà được dâng là Nhân Hiếu Từ Ý Thành Minh Trang Hiến Phối Thiên Tề Thánh Văn Hoàng hậu (仁孝慈懿誠明庄獻配天齊聖文皇后). Phối hưởng Thái miếu.

Hậu duệ

Nhân Hiếu Văn Hoàng hậu hạ sinh cho Minh Thành Tổ được 3 Hoàng tử và 4 Hoàng nữ:

  1. Minh Nhân Tông Chu Cao Sí [朱高炽], hoàng đích trưởng tử.
  2. Vĩnh An công chúa [永安公主; 1377 - 1417], hoàng đích trưởng nữ, tên Ngọc Anh (玉英), hạ giá lấy Quảng Bình hầu Viên Dung (袁容).
  3. Vĩnh Bình công chúa [永平公主; 1379 - 1444], hoàng đích thứ nữ, hạ giá lấy Phú Dương hầu Lý Phượng (李让).
  4. Chu Cao Hú [朱高煦; 30 tháng 12, 1380 - 6 tháng 10, 1426], hoàng nhị tử, tước phong là Cao Dương Quận vương (高阳郡王), về sau cải thành Hán vương (漢王). Sinh thời ông cường tráng anh tuấn, giỏi cung kị, rất được Minh Thành Tổ coi trọng, từng có ý được lập Thái tử. Nhưng Minh Thành Tổ quyết định lập đích trưởng tử là Chu Cao Sí, khiến ông bất mãn, từ đó nuôi ý noi gương Minh Thành Tổ mà đoạt ngôi từ anh. Phát động Cao Hú chi loạn (高煦之亂) nhưng bị thất bại, bị cháu ruột là Minh Tuyên Tông bắt giam và giết chết.
  5. Chu Cao Toại [朱高燧; 19 tháng 1, 1383 - 5 tháng 10, 1431], hoàng tam tử, tước phong là Triệu vương (趙王). Sau khi qua đời được truy thụy là Giản (簡).
  6. An Thành công chúa [安成公主; 1384 - 1443], hạ giá Tống Hổ (宋琥), con trai thứ của Tây Ninh hầu Tống Thịnh (宋晟).
  7. Hàm Ninh công chúa [咸宁公主; 1385 - 1440], hạ giá lấy Tống Anh (宋瑛), con trai út của Tây Ninh hầu Tống Thịnh.

Tham khảo

  1. ^ 《明史》: 成祖仁孝皇后徐氏,中山王達長女也。幼貞靜,好讀書,稱女諸生。太祖聞后賢淑,召達謂曰:「朕與卿,布衣交也。古君臣相契者,率為婚姻。卿有令女,其以朕子棣配焉。」達頓首謝。
  2. ^ 《明史》: 洪武九年,冊為燕王妃。高皇后深愛之。從王之籓,居孝慈高皇后喪三年,蔬食如禮。高皇后遺言可誦者,后一一舉之不遺。
  3. ^ 《明史》: 靖難兵起,王襲大寧,李景隆乘間進圍北平。時仁宗以世子居守,凡部分備禦,多禀命於后。景隆攻城急,城中兵少,后激勸將校士民妻,皆授甲登陴拒守,城卒以全。
  4. ^ 《明史》: 王即帝位,冊為皇后。言:「南北每年戰鬪,兵民疲敝,宜與休息。」又言:「當世賢才皆高皇帝所遺,陛下不宜以新舊間。」又言:「帝堯施仁自親始。」帝輒嘉納焉。
  5. ^ 《明史》: 初,后弟增壽常以國情輸之燕,為惠帝所誅,至是欲贈爵,后力言不可。帝不聽,竟封定國公,命其子景昌襲,乃以告后。后曰:「非妾志也。」終弗謝。
  6. ^ 《明史》: 嘗言漢、趙二王性不順,官僚宜擇廷臣兼署之。一日,問:「陛下誰與圖治者?」帝曰:「六卿理政務,翰林職論思。」后因請悉召見其命婦,賜冠服鈔幣。諭曰:「婦之事夫,奚止饋食衣服而已,必有助焉。朋友之言,有從有違,夫婦之言,婉順易入。吾旦夕侍上,惟以生民為念,汝曹勉之。」嘗採《女憲》、《女誡》作《內訓》二十篇,又類編古人嘉言善行,作《勸善書》,頒行天下。
  7. ^ 《明史》: 永樂五年七月,疾革,惟勸帝愛惜百姓,廣求賢才,恩禮宗室,毋驕畜外家。又告皇太子:「曩者北平將校妻為我荷戈城守,恨未獲隨皇帝北巡,一賚卹之也。」是月乙卯崩,年四十有六。帝悲慟,為薦大齋於靈谷、天禧二寺,聽群臣致祭,光祿為具物。十月甲午,諡曰「仁孝皇后」。
  8. ^ 《明太宗實錄》卷69:后崩,上哭恸群臣奉慰,上曰皇后仁明贤淑,汉马氏唐长孙之伦也,虽处中宫其一念惟在仁民继今朕入宫不复闻直言矣
  9. ^ Minh Hiếu lăng của Minh Thái Tổ và Mã Hoàng hậu nằm tại Nam Kinh, không thuộc Bắc Kinh Minh lăng Thiên Thọ Sơn.