Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tụ Long”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 19: Dòng 19:
== Châu Vị Xuyên thời Lê trung hưng đến thời Nguyễn độc lập ==
== Châu Vị Xuyên thời Lê trung hưng đến thời Nguyễn độc lập ==
Châu Vị Xuyên có 8 tổng với 51 xã vào thời Lê trung hưng, sang đầu thời nhà Nguyễn có 9 tổng (52 xã) trong đó:
Châu Vị Xuyên có 8 tổng với 51 xã vào thời Lê trung hưng, sang đầu thời nhà Nguyễn có 9 tổng (52 xã) trong đó:
*Tổng Phương Độ (Tụ Long) gồm 6 xã: Tụ Long (''nay thuộc Mã Quan Trung Quốc''), Phấn Vũ (''奮武 hay 粉武<ref>Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ 19, trang 454.</ref>, nay khoảng hương Mãnh Động, tức Mường Động, huyện Ma Lật Pha Trung Quốc''), [[Phương Độ, thành phố Hà Giang|Phương Độ]] (''芳度, nay khoảng các phường Phương Độ, [[Phương Thiện]]''), [[Tùng Bá]]ch (''松柏''), [[Bạch Ngọc, Vị Xuyên|Bạch Ngọc]] (''白玉''), Tiểu Miện (''小沔'').
*Tổng Phương Độ (Tụ Long) gồm 6 xã: Tụ Long (''nay thuộc Mã Quan Trung Quốc''), Phấn Vũ (''奮武 hay 粉武<ref>Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ 19, trang 454.</ref>, nay khoảng hương Mãnh Động, tức Mường Động, huyện Ma Lật Pha Trung Quốc''), [[Phương Độ]] (''芳度, nay khoảng các Phương Độ, [[Phương Thiện]]''), [[Tùng Bá]]ch (''松柏''), [[Bạch Ngọc, Vị Xuyên|Bạch Ngọc]] (''白玉''), Tiểu Miện (''小沔'').
*Tổng Phú Linh gồm 4 xã: Bình Di (''平夷, nay khoảng các hương trấn [[Nam Ôn Hà]], [[Ma Lật]] huyện Ma Lật Pha Trung Quốc, và các xã phường [[Xín Chải, Vị Xuyên|Xín Chải]], [[Thanh Đức, Vị Xuyên|Thanh Đức]], [[Thanh Thủy, Vị Xuyên|Thanh Thủy]] Hà Giang''), [[Phú Linh]] (''富靈''), [[Linh Hồ, Vị Xuyên|Linh Hồ]] (''靈湖''), Đại Miện (''大沔'').
*Tổng Phú Linh gồm 4 xã: Bình Di (''平夷, nay khoảng các hương trấn [[Nam Ôn Hà]], [[Ma Lật]] huyện Ma Lật Pha Trung Quốc, và các xã phường [[Xín Chải, Vị Xuyên|Xín Chải]], [[Thanh Đức, Vị Xuyên|Thanh Đức]], [[Thanh Thủy, Vị Xuyên|Thanh Thủy]] Hà Giang''), [[Phú Linh]] (''富靈''), [[Linh Hồ, Vị Xuyên|Linh Hồ]] (''靈湖''), Đại Miện (''大沔'').
*Tổng Mục Hà gồm 6 xã: Mục Hà (''穆河''), An Quảng, [[Xuân Giang, Quang Bình|Xuân Hồng]], [[Hương Sơn, Quang Bình|Hương Sơn]], Nghĩa Phì (''義肥''), [[Tiên Kiều|Tiên Kiệu]] (''仙轎'').
*Tổng Mục Hà gồm 6 xã: Mục Hà (''穆河''), An Quảng, [[Xuân Giang, Quang Bình|Xuân Hồng]], [[Hương Sơn, Quang Bình|Hương Sơn]], Nghĩa Phì (''義肥''), [[Tiên Kiều|Tiên Kiệu]] (''仙轎'').

Phiên bản lúc 07:52, ngày 11 tháng 2 năm 2020

Tụ Long (chữ Hán: 聚龍[1] hay 聚竜[2]) là địa danh cũ của Việt Nam, gắn liền với mỏ đồng Tụ Long[3] (聚龍銅廠)[4] nằm trên vùng biên giới Việt Nam-Trung Quốc, là vùng đất từng thuộc Việt Nam từ trước thời nhà Lê sơLê trung hưng cho đến cuối thế kỷ 19 đầu thời kỳ Pháp thuộc ở Việt Nam thì bị cắt cho Trung Quốc, theo Công ước Pháp-Thanh 1887Công ước Pháp-Thanh 1895.

Nguồn gốc

Bản đồ vùng Tụ Long trên biên giới Việt Nam - Trung Quốc năm 1902. (Trong bản đồ địa danh Tụ Long được ghi chú là Tu Long, nằm thẳng ngay bên dưới địa danh Ma Yen Son (Mã Yên Sơn), nhưng đã nằm ở bên kia biên giới thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Địa danh được chú là Mo Peu là Mã Bá nay là trấn Mã Bạch huyện lỵ của huyện Mã Quan.)
Tổng Tụ-Long tức tổng Phương Độ thời Nguyễn.
Bản đồ khu vực Tụ Long ngày nay.

Vùng đất này nay là đất đai thuộc địa bàn vài trấn biên giới thuộc huyện Mã Quan của châu tự trị dân tộc Choang, Miêu Văn Sơn, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, (là các trấn: Tiểu Bá Tử, Kim Xưởng, Đô Long, Giáp Hàn Thanh, Nam Lao) và hương Mãnh Động của huyện Ma Lật Pha, là các hương trấn nằm xung quanh hương Đô Long (都龙, tức xã Tụ Long cũ của Việt Nam). Đất hương Mãnh Động Trung Quốc, xưa là phần đất xã Phấn Vũ tổng Phương Độ (cùng tổng với Tụ Long) của Đại Việt. Đây là vùng đất tranh chấp giữa các triều đại quân chủ Việt Nam với các triều đại quân chủ Trung Hoa.

Năm 1728, chính quyền nhà Lê-Trịnh của Việt Nam chính thức thương lượng đòi được vùng đất này từ nhà Thanh Trung Quốc, ranh giới được xác định là bờ Bắc sông Đổ Chú (堵呪), bờ Nam sông Đổ Chú thuộc Đại Việt (sông Đổ Chú ngày nay là sông Hưởng Thủy (响水河(大梁子河)) là một nhánh thượng nguồn của Sông Chảy chảy từ huyện Mã Quan châu Văn Sơn dọc theo các trấn Mã Bạch (Mã Quan), Giáp Hàn Thanh, Tiểu Bá Tử, vào huyện Si Ma Cai tỉnh Lào Cai Việt Nam). Theo Lê Quý Đôn: Trôi Hà (tục gọi là sông Chảy), ở bên trái sông Thao, phát nguyên từ phủ Khai Hóa (tên là sông Đổ Chú) Trung Quốc, chảy xuống xứ Hưng Hóa, bên trái là châu Vị Xuyên, bên phải là châu Thủy Vĩ, chảy qua Na Căng, Tâm Phú, Bắc Hà, Thập Độ, Chư Làng đến đồn Bảo Nghĩa. Lại chảy qua Ngòi Bàng, động Ngọc Uyển xã Mai Quan về bên trái. Sông này phát nguyên từ dưới núi Tụ Long và Lão Quân chảy qua ải Bắc Tỉ và hai mỏ Long Sinh, Nam Dương rồi tụ hội ở hạ lưu...[5]

Cương vực

Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn viết: Châu Vị Xuyên tức là châu Bình Nguyên xưa, có 8 tổng 51 xã, duy Tụ Long là to hơn cả: có 24 thôn ấp, tập tục gọi thôn là làng. Địa thế xã này phía đông giáp xã Phấn Vũ (奮武) thuộc bản tổng, phía tây giáp phủ Khai Hóa Trung Quốc, phía nam giáp châu Thủy Vĩ thuộc Hưng Hóa, phía bắc giáp động Ngưu Dương Trung Quốc. Về mặt tây, lấy sông Đổ Chú để chia mốc giới với phủ Khai Hóa: Kể từ đầu ngọn sông, về phía đông ven sông, từ sông Đổ Chú đến làng Thác Ư (托於) giáp châu Thủy Vĩ, thuộc về địa phận Tụ Long. Về phía tây ven sông, từ làng Mã Bạch (馬白, hay Mã Bách 馬伯) đến làng Ma Cả Bô (Ma Cơ Pho) giáp châu Thủy Vĩ, thuộc về địa phận Khai Hóa. Núi Mã Yên (馬鞍山) ở làng Kỵ Mã xã Tụ Long cách xa với Trung Quốc. Một dải sông Đổ Chú chảy qua vụng Mã Bạch, chảy xuôi đến núi Mi (眉山), rồi hợp lưu với con sông nhỏ thuộc trấn Hưng Hóa nước ta, chảy xuống châu Thủy Vĩ. Lại một khe từ núi Mã Gia (馬茄山) chảy ven ngàn núi đến thôn Thác Ư thông với sông Tạ Mộng (謝夢), đây là chỗ nước ở Tụ Long, Hoàng Khê (黄谿), Thổ Khê (土谿) hợp lưu với nhau. Từ con khe này đến sông Đổ Chú cách nhau 150 dặm.[6]

Về sông Lô mà thượng nguồn là giới hạn phía đông của khu vực Tụ Long, Lê Quý Đôn viết: "Sông Cả lại có tên là sông Lô, Minh sử gọi là sông Bình Nguyên, ở về bên trái sông Chảy, phát nguyên từ ti Giáo Hóa trưởng quan tỉnh Vân Nam Trung Quốc, đó là mặt đông nam chảy xuôi đến châu Vị Xuyên (xưa gọi là châu Bình Nguyên) xứ Tuyên Quang, qua sau núi xã Tụ Long, đến phố Than mỏ Bình Di, hợp với ngòi Bán Ca về bên phải, chảy qua phố Ai mỏ Bình Di, hợp với ngòi Trung Bang về bên phải, chảy xuống Bình Quân, Phấn Vũ, Bắc Bảo hợp với cửa ngòi bên phải, chảy qua ải Phương Độ hợp với ngòi Thiểu về bên trái,..."

Tổng số thôn làng Đại Việt thu nạp lại từ nhà Thanh năm 1728 là 17 làng gồm: Nhĩ Hô (爾呼), Mạnh Ðinh (孟釘), Phù Ni (扶尼), Phù Li (扶籬), Phù Chu (扶周), Trĩ Giang (豸江), Phù Không (扶空), Ma Hô (痲呼), Bố Ma (布痲), Hô Khâm (呼襟), Mã Khao (馬犒), Tà Lộ (斜路), Yên Mã (鞍馬), Mã Thọ (馬夀), Tụ Kha (聚珂), Thông Sự (通事), và Mã Ðề (馬蹄)[7].

Sách Đại Việt địa dư toàn biên, Nguyễn Văn Siêu viết: "Năm Bảo Thái thứ 9 (1728) nhà Thanh trả lại cho ta xưởng mỏ đồng Tụ Long, lấy sông Đổ Chú làm địa giới... Bia đá lập ở địa phận xã Tụ Long huyện Vĩnh Tuy, 2 bờ nam bắc sông đều có bia. Bia bờ nam khắc chữ rằng: "Châu địa giới châu Vị Xuyên, trấn Tuyên Quang, nước An Nam, lấy sông Đổ Chú làm căn cứ. Năm Ung Chính thứ 6 tháng 9 ngày 18, ủy sai lũ Binh bộ thị lang Nguyễn Huy Nhuận, Quốc Tử giám Tế tửu Nguyễn Công Thái phụng chỉ lập bia này." Bia bờ bắc khắc chữ rằng: "Khai Dương xa ở cuối trời, là đất tiếp cõi Giao Chỉ, xét sách vở... lấy sông Đổ Chú cách phía Nam phủ trị 240 dặm làm châu địa giới bị lẫn lộn, nên ủy sai viên tra khám rồi tâu định địa giới ở núi mỏ chì. Hoàng thượng ta... nghĩ Giao Chỉ... kính thuận,... đem 40 dặm đất... ban cho. Lũ Sĩ Côn, thừa lệnh... Tổng đốc Vân Quý, làm hịch... Ngày mùng 7 tháng 9, hội đồng với sai viên của nước Giao Chỉ là lũ Nguyễn Huy Nhuận cộng đồng định nghị, lấy sông nhỏ ở phía nam đồn Mã Bạch làm địa giới, tức là sông mà quốc vương nước ấy gọi là Đổ Chú... dựng đình bia địa giới ở phía bắc sông này. Từ nay cõi ngoài biên vững bền, ức vạn năm.. không... hết. Năm Ung Chính thứ 6 tháng 9, ngày 18, thự Khai Hóa tri phủ thần Ngô Sĩ Côn, thự Khai Hóa trấn Trung dinh... Võ Đảng kính lập bia này"..."[8]

Châu Vị Xuyên thời Lê trung hưng đến thời Nguyễn độc lập

Châu Vị Xuyên có 8 tổng với 51 xã vào thời Lê trung hưng, sang đầu thời nhà Nguyễn có 9 tổng (52 xã) trong đó:

  • Tổng Phương Độ (Tụ Long) gồm 6 xã: Tụ Long (nay thuộc Mã Quan Trung Quốc), Phấn Vũ (奮武 hay 粉武[9], nay khoảng hương Mãnh Động, tức Mường Động, huyện Ma Lật Pha Trung Quốc), Phương Độ (芳度, nay khoảng các xã Phương Độ, Phương Thiện), Tùng Bách (松柏), Bạch Ngọc (白玉), Tiểu Miện (小沔).
  • Tổng Phú Linh gồm 4 xã: Bình Di (平夷, nay khoảng các hương trấn Nam Ôn Hà, Ma Lật huyện Ma Lật Pha Trung Quốc, và các xã phường Xín Chải, Thanh Đức, Thanh Thủy Hà Giang), Phú Linh (富靈), Linh Hồ (靈湖), Đại Miện (大沔).
  • Tổng Mục Hà gồm 6 xã: Mục Hà (穆河), An Quảng, Xuân Hồng, Hương Sơn, Nghĩa Phì (義肥), Tiên Kiệu (仙轎).
  • Tổng Tiên An gồm 5 xã: Tiên An (先安), Thượng Lũng (上隴), Vũ Lang, Trịnh Trang, Hữu Bằng (有憑).

Theo Lê Quý Đôn: "Năm Nhâm Dần niên hiệu Bảo Thái thứ 3 (1722), Nguyễn Thành Lý quản cơ Tả trấn trấn thủ Tuyên Quang, với 400 thổ binh dưới quyền, dâng sớ nói: "Địa giới Tụ Long và Bình Di tiếp giáp với nước ngoài, các trường xưởng vàng, bạc, đồng, thiếc đều ở đây cả. Nếu có việc khẩn cấp mà báo với 3 đồn Tĩnh Biên, Hà Giang và Linh Trường, vừa đi vừa về đến hơn mười ngày, e khó lòng ứng tiếp kịp, xin đặt thêm đồn Tụ Long chia lính canh giữ. Số lính chia đi đóng các đồn tổng cộng 2315 người:..., đồn Tụ Long 353 người, 6 viên quan cai quản. Còn các thổ mục Tụ Long là Hoàng Văn Chí, Hoàng Văn Tuy đều có 50 người lính, các thổ mục Bình Di là Hoàng Văn Toán, Hoàng Văn Thụy đều có số lính là 27 người, đều để dùng vào việc tra hỏi kiện tụng."..."[10]

Theo Nguyễn Văn Siêu, sau khi đặt tỉnh Tuyên Quang năm 1831, đến năm Minh Mạng thứ 16 (1835) chia châu Vị Xuyên làm 2 huyện, bên bờ trái sông Lô làm huyện Vị Xuyên thuộc phủ Tương An, bên bờ phải sông Lô làm huyện Vĩnh Tuy vẫn thuộc phủ Yên Bình. Các xã Tụ Long, Phấn Vũ, Phương Độ cùng toàn bộ tổng Phương Độ thuộc huyện Vĩnh Tuy[11].

Theo Nguyễn Đình Đầu, thời Tự Đức (khoảng năm 1861) hành chính huyện Vĩnh Tuy phủ Yên Bình tỉnh Tuyên Quang được phân chia lại theo đó xã Tụ Long được tách ra làm thành tổng riêng thuộc huyện Vĩnh Tuy phủ Yên Bình. Tổng Tụ Long gồm 6 xã: Tụ Long, Tụ Thành (聚成), Tụ Nghĩa (聚義), Tụ Mỹ (聚美), Tụ Hòa (聚和), Tụ Nhân (聚仁). Tổng Tụ Long phía đông nam giáp với tổng Phương Độ lúc này còn 3 xã là: Phương Độ, Bình Di, Phấn Vũ, cũng thuộc về huyện Vĩnh Tuy.[12]

Công ước Pháp Thanh 1887 cắt đất Tụ Long-Bình Di cho Trung Hoa

Biên giới Việt Nam - Trung quốc thay đổi sau các công ước Pháp Thanh, làm Việt Nam mất dần vùng đất Tụ Long.
Tổng Tụ Long thuộc Trung Quốc trong bản đồ Bắc Kỳ năm 1890.

Sau Chiến tranh Pháp-Thanh, Pháp hầu như làm chủ toàn bộ Bắc Kỳ, mặc dù theo hòa ước Quý Mùihòa ước Giáp Thân Pháp phải bảo hộ quyền lợi cho các xứ thuộc địa chiếm được từ Đại Nam (Điều 23 hòa ước Quý Mùi: " Nước Pháp cam kết từ đây sẽ bảo đảm sự hoàn toàn quyển vẹn về lãnh thổ của đất nước Đức vua,..."), nhưng muốn có được sự công nhận của nhà Thanh về cáí thực tế đô hộ An Nam này, Pháp đã đi tới ký kết Công ước Constans 1887 phân chia lại đường biên giới giữa Bắc Kỳ và Trung Quốc.

Nhà Thanh trong vấn đề Bắc Kỳ, dù trước đó có đưa quân tham chiến nhưng sau Hòa ước Thiên Tân 1885 ở thế đứng ngoài mặc cả trục lợi. Đại diện nhà Thanh là Lý Hồng Chương phát biểu với Đô đốc Pháp Henri Rieunier trong hội đàm rằng: "Nước Pháp đã đạt được nhiều quyền lợi khi chiếm được Bắc Kỳ, một nước chư hầu của Trung Hoa 600 năm nay; việc này là nhờ trung gian của tôi. Nó đã gây cho tôi nhiều phiền phức; tôi nghĩ rằng một sự đền bồi dưới dạng nhượng vài vùng đất nhỏ trên vùng biên giới là cần thiết."[13]

Nội dung của Công ước Pháp Thanh 1887 có điều khoản Pháp đồng ý cắt 3/4 đất tổng Tụ Long gồm cả khoảng 4-5 xã trong 6 xã (là Tụ Long, Tụ Thành, Tụ Nghĩa, Tụ Mỹ, Tụ Hòa), cùng xã Bình Di và một phần xã Phấn Vũ thuộc tỉnh Hà Giang của Bắc Kỳ cho tỉnh Vân Nam của Trung Quốc với diện tích khoảng 750km2. Hoạch định lại đoạn biên giới Bắc Kỳ-Trung Hoa, từ Câu Đầu trại (ở phía Tây nơi hợp lưu sông Đỗ Chú với sông Chảy) đến Cao Mã Bạch (ở phía đông, nay thuộc xã Cao Mã Pờ huyện Quản Bạ), vòng xuống phía nam tổng Tụ Long.

Đường biên giới theo công ước Pháp Thanh 1887 đi như sau:

  • Từ điểm hợp lưu của sông Đổ Chú với sông Chảy, phía bờ trái sông, vị trí lúc đó có tên gọi là Câu Đầu trại (拘頭寨), biên giới chạy thẳng theo hướng từ tây sang đông kéo dài khoảng hơn 50 dặm tức khoảng 22 km (hơn 20 km), đến điểm hợp lưu của 2 dòng suối nhỏ chảy từ đông sang (điểm này trên bản đồ thuyết minh cho Công ước được ký hiệu là PQ nằm ở phía tây làng Nam Đan (南丹) có lẽ thuộc xã Tụ Hòa) tạo thành một nhánh bên trái của chi lưu thứ 2 (bên bờ phải) của sông Chảy. Chi lưu thứ 2 này của sông Chảy ngày nay có tên Trung Quốc là Bái Hà (白河). Đoạn biên giới thẳng theo hướng tây-đông dài khoảng hơn 20 km này cắt các xã Tụ Nghĩa (聚義社 (tên Việt Nam)), Tụ Mỹ (聚美社 (tên Việt Nam)) của tổng Tụ Long, và xã Nghĩa Phì (義肥社 (tên Việt Nam)) của tổng Mục Hà, sang cho Trung Quốc. Việt Nam còn giữ lại được ở ngay phía nam đoạn biên giới này xã Hữu Bằng (有憑社 (tên Việt Nam)) của tổng Tiên An.
  • Từ điểm Q biên giới quay ra chạy thẳng theo hướng đông nam thêm khoảng 15 dặm tức khoảng 6 km, đến điểm R ở phía nam làng Nam Đan (có lẽ điểm R nằm trùng trên biên giới ngày nay), rồi từ R chạy theo hướng đông bắc, bao quanh phía bắc rồi phía đông của các làng Man Mỹ (縵美) của xã Tụ Hòa, thôn Mường Động Thượng (猛硐上村), (thôn Mường Động Sơn (猛硐山村), thôn Mường Động Trung (猛硐中村), thôn Mường Động Hạ (猛硐下村) của xã Phấn Vũ (Mường Động là tên Việt Nam của Mãnh Động). Các thôn này sau công ước tạm còn thuộc Việt Nam. Đoạn này cắt làng Nam Đan cho Trung Quốc. Các xã Bình Di, Tụ Long, Tụ Thành nằm xa về phía bắc biên giới cũng thuộc về Trung Quốc.
Biên giới Việt Nam - Trung Quốc khoảng thời điểm năm 1889, giữa các công ước Pháp Thanh 1887 và 1895. (Khu vực Lào Cai-Hà Giang nơi có vùng Tự Long, biên giới chạy thẳng ngang theo hướng đông -tây).

Chú thích nguồn dẫn

  1. ^ François Thierry, « La monnaie Thịnh Đức thông bảo dans la crise monétaire au Vietnam (1546-1658) », trang 283.
  2. ^ Tên làng xã Việt Nam nửa đầu thế kỷ 19, trang 584.
  3. ^ Việt Nam sử lược, Trần Trọng Kim, quyển 2, trang 59.
  4. ^ Đại Việt sử ký toàn thư.
  5. ^ Kiến văn tiểu lục, trang 299.
  6. ^ Kiến văn tiểu lục, Lê Quý Đôn, Phong vực-Tuyên Quang, trang 339-340.
  7. ^ Kiến văn tiểu lục, trang 345.
  8. ^ Đại Việt địa dư toàn biên, Nguyễn Văn Siêu, trang 421-422.
  9. ^ Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ 19, trang 454.
  10. ^ Kiến văn tiểu lục, trang 345-346.
  11. ^ Đại Việt địa dư toàn biên, trang 422.
  12. ^ Cương vực Việt Nam dưới thời Nguyễn, Nguyễn Đình Đầu.
  13. ^ Vấn đề biên giới tiếp giáp giữa Tây Bắc Việt Nam và Trung Quốc, Phạm Văn Lực, Biên phòng Việt Nam, ngày 06 tháng 8 năm 2015.