Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trương Thị Thận”
Không có tóm lược sửa đổi |
|||
Dòng 21: | Dòng 21: | ||
| nơi an táng = Long Khê, [[Hương Trà]], [[Thừa Thiên]] |
| nơi an táng = Long Khê, [[Hương Trà]], [[Thừa Thiên]] |
||
}} |
}} |
||
''' |
'''Trương Thị Thận''' (nhiều tài liệu chép là '''Thuận''') ([[chữ Hán]]: 張氏慎; [[16 tháng 2]] năm [[1817]] – [[2 tháng 1]] năm [[1889]]), còn có húy là '''Tuân'''<ref name=":0">''Nguyễn Phúc tộc thế phả'', tr.282</ref>, phong hiệu '''Tam giai Thụy tần''' (三階瑞嬪), là một [[cung tần]] của vua [[Thiệu Trị]] [[nhà Nguyễn]] trong [[lịch sử Việt Nam]]. |
||
== Tiểu sử == |
== Tiểu sử == |
||
=== Xuất thân === |
=== Xuất thân === |
||
Thụy tần Trương Thị Thận |
Thụy tần Trương Thị Thận nguyên quán ở huyện Tống Sơn, [[Thanh Hoá]]. Cha của bà Thận là ông Trương Văn Minh, được truy tặng làm ''Vệ úy Minh Đức hầu'', mẹ là phu nhân Vũ Thị Tông (hoặc Tôn). Bà sinh vào đúng ngày mùng một [[Tết Nguyên Đán]] năm [[Đinh Sửu]] ([[1817]])<ref name=":0" />. |
||
Năm [[Minh Mạng]] thứ 16 ([[1835]]), bà Thận nhập phủ làm thiếp cho hoàng trưởng tử ''Trường Khánh công'' Miên Tông (vua [[Thiệu Trị]] sau này)<ref name=":0" />. |
|||
Năm [[Minh Mạng]] thứ 16 ([[1835]]), bà nhập phủ Trường Khánh công [[Nguyễn Phúc Miên Tông]] với danh phận ''Phủ thiếp''<ref>'''Phủ thiếp''' chỉ những bà vợ của các Hoàng tử (không phân biệt cả lẽ) được triều đình cưới hỏi theo đầy đủ lễ nghi, khác với '''dắng thiếp''' (hoặc '''đằng thiếp''') chỉ là những nàng hầu, thứ thiếp.</ref>. |
|||
=== Sách phong Tần vị === |
=== Sách phong Tần vị === |
||
Năm [[1841]], |
Năm [[1841]], Trường Khánh công Miên Tông đăng cơ, tức vua [[Thiệu Trị]]. Bà Trương Thị Thận cùng các bà Phủ thiếp khác của vua đều được gọi chung là ''Cung tần'' (宮嬪), chờ mãn tang vua [[Minh Mạng]] mới định thứ bậc. |
||
Năm Thiệu Trị thứ 3 ([[1843]]), bà được phong làm '''Tứ giai Huy tần''' (四階徽嬪) |
Năm Thiệu Trị thứ 3 ([[1843]]), bà Thận được sách phong làm '''Tứ giai Huy tần''' (四階徽嬪)<ref name=":0" />. Hàng Tứ giai khi đó bao gồm những phong hiệu từ cao đến thấp như sau: ''Huy tần'' (徽嬪), ''Ý tần'' (懿嬪), ''Nhu tần'' (柔嬪). Chức ''Ý tần'' được ban cho bà [[Nguyễn Thị Huyên]], còn ''Nhu tần'' được ban cho bà [[Nguyễn Thị Yên]]. |
||
Năm Thiệu Trị thứ 6 ([[1846]]), |
Năm Thiệu Trị thứ 6 ([[1846]]), Huy tần Trương thị được tấn làm '''Tam giai Thụy tần''' (三階瑞嬪)<ref name=":0" />. |
||
=== Tôn Hoàng thái phi === |
=== Tôn Hoàng thái phi === |
||
Năm Tự Đức thứ 36, [[Tự Đức]] băng hà, [[Dục Đức]] bị hai quyền thần là [[Nguyễn Văn Tường]] và [[Tôn Thất Thuyết]] phế truất. Con trai bà là Lãng Quốc công [[Nguyễn Phúc Hồng Dật]] được đưa lên làm Hoàng đế, |
Năm [[Tự Đức]] thứ 36 ([[1883]]), vua [[Tự Đức]] băng hà, vua [[Dục Đức]] mới lên ngôi 3 ngày đã bị hai quyền thần là [[Nguyễn Văn Tường]] và [[Tôn Thất Thuyết]] phế truất. Con trai của bà Thụy tần Trương thị là ''Lãng Quốc công'' [[Nguyễn Phúc Hồng Dật|Hồng Dật]] được đưa lên làm Hoàng đế, tức vua [[Hiệp Hoà]]. |
||
Tháng 7 (âm lịch) năm đó, bà Thụy tần được tôn phong làm [[Hoàng thái phi]], ngày sinh nhật của bà được gọi là ''Trường Xuân tiết''<ref>''Đại Nam thực lục'', tập 8, tr.587</ref>. Bốn tháng sau, vua [[Hiệp Hoà]] bị [[Tôn Thất Thuyết]] phế truất và bức tử. Hoàng thái phi cũng bị giáng trở lại làm ''Thụy tần'', sau này trong [[Đại Nam liệt truyện]] sửa lại thành '''Đoan tần''' (端嬪). |
|||
⚫ | Ngày 1 tháng 12 |
||
⚫ | Ngày 1 tháng 12 (âm lịch) năm [[Mậu Tí]] (năm Dương lịch là [[1889]]), dưới triều vua [[Đồng Khánh]], Đoan tần Trương thị qua đời, thọ 72 tuổi<ref name=":0" />. Bà được táng tại Dương Xuân Hạ, huyện [[Hương Thủy]], tỉnh [[Thừa Thiên]]. Năm [[1917]], dưới triều [[Khải Định]], tẩm mộ của Thụy tần được cải táng về Long Khê, huyện [[Hương Trà]], tỉnh [[Thừa Thiên]]. |
||
== Hậu duệ == |
== Hậu duệ == |
||
Dòng 54: | Dòng 56: | ||
== Trong văn hoá đại chúng == |
== Trong văn hoá đại chúng == |
||
{| class="wikitable" |
{| class="wikitable" |
||
| |
|- |
||
!Năm |
!Năm |
||
!Phim ảnh |
!Phim ảnh |
||
Dòng 61: | Dòng 63: | ||
|- |
|- |
||
|2020 |
|2020 |
||
|[[Phượng khấu |
|[[Phượng khấu]] |
||
|Amy Lê Anh |
|Amy Lê Anh |
||
|Trương Uyển Thận |
|Trương Uyển Thận |
Phiên bản lúc 15:09, ngày 30 tháng 4 năm 2020
Tam giai Thụy tần 三階瑞嬪 | |||||
---|---|---|---|---|---|
Thiệu Trị Đế Tam giai Tần | |||||
Thông tin chung | |||||
Sinh | 16 tháng 2 năm 1817 | ||||
Mất | 2 tháng 1 năm 1889 (73 tuổi) | ||||
An táng | Long Khê, Hương Trà, Thừa Thiên | ||||
Phu quân | Nguyễn Hiến Tổ Thiệu Trị | ||||
Hậu duệ | Hoàng nữ Ủy Thanh Phong Lộc Quận công Hồng Kháng Hoàng nữ Liêu Diệu Hoàng nữ Nhàn Nhã Lạc Thành Công chúa Nhàn Đức Hiệp Hòa Đế | ||||
| |||||
Tước hiệu | Phủ thiếp (府妾) Cung tần (宮嬪) Huy tần (徽嬪) Thụy tần (瑞嬪) Hoàng thái phi (皇太妃) Đoan tần (端嬪) | ||||
Thân phụ | Trương Văn Minh | ||||
Thân mẫu | Vũ Thị Tông |
Trương Thị Thận (nhiều tài liệu chép là Thuận) (chữ Hán: 張氏慎; 16 tháng 2 năm 1817 – 2 tháng 1 năm 1889), còn có húy là Tuân[1], phong hiệu Tam giai Thụy tần (三階瑞嬪), là một cung tần của vua Thiệu Trị nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.
Tiểu sử
Xuất thân
Thụy tần Trương Thị Thận nguyên quán ở huyện Tống Sơn, Thanh Hoá. Cha của bà Thận là ông Trương Văn Minh, được truy tặng làm Vệ úy Minh Đức hầu, mẹ là phu nhân Vũ Thị Tông (hoặc Tôn). Bà sinh vào đúng ngày mùng một Tết Nguyên Đán năm Đinh Sửu (1817)[1].
Năm Minh Mạng thứ 16 (1835), bà Thận nhập phủ làm thiếp cho hoàng trưởng tử Trường Khánh công Miên Tông (vua Thiệu Trị sau này)[1].
Sách phong Tần vị
Năm 1841, Trường Khánh công Miên Tông đăng cơ, tức vua Thiệu Trị. Bà Trương Thị Thận cùng các bà Phủ thiếp khác của vua đều được gọi chung là Cung tần (宮嬪), chờ mãn tang vua Minh Mạng mới định thứ bậc.
Năm Thiệu Trị thứ 3 (1843), bà Thận được sách phong làm Tứ giai Huy tần (四階徽嬪)[1]. Hàng Tứ giai khi đó bao gồm những phong hiệu từ cao đến thấp như sau: Huy tần (徽嬪), Ý tần (懿嬪), Nhu tần (柔嬪). Chức Ý tần được ban cho bà Nguyễn Thị Huyên, còn Nhu tần được ban cho bà Nguyễn Thị Yên.
Năm Thiệu Trị thứ 6 (1846), Huy tần Trương thị được tấn làm Tam giai Thụy tần (三階瑞嬪)[1].
Tôn Hoàng thái phi
Năm Tự Đức thứ 36 (1883), vua Tự Đức băng hà, vua Dục Đức mới lên ngôi 3 ngày đã bị hai quyền thần là Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết phế truất. Con trai của bà Thụy tần Trương thị là Lãng Quốc công Hồng Dật được đưa lên làm Hoàng đế, tức vua Hiệp Hoà.
Tháng 7 (âm lịch) năm đó, bà Thụy tần được tôn phong làm Hoàng thái phi, ngày sinh nhật của bà được gọi là Trường Xuân tiết[2]. Bốn tháng sau, vua Hiệp Hoà bị Tôn Thất Thuyết phế truất và bức tử. Hoàng thái phi cũng bị giáng trở lại làm Thụy tần, sau này trong Đại Nam liệt truyện sửa lại thành Đoan tần (端嬪).
Ngày 1 tháng 12 (âm lịch) năm Mậu Tí (năm Dương lịch là 1889), dưới triều vua Đồng Khánh, Đoan tần Trương thị qua đời, thọ 72 tuổi[1]. Bà được táng tại Dương Xuân Hạ, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Năm 1917, dưới triều Khải Định, tẩm mộ của Thụy tần được cải táng về Long Khê, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên.
Hậu duệ
Thụy tần Trương Thị Thận và Lương phi Võ Thị Viên là hai bà hạ sinh được nhiều con nhất trong hậu cung của ngài Thiệu Trị. Nhưng cũng như bà Lương phi, chỉ có 3 người con là còn sống qua tuổi trưởng thành.
- Hoàng nữ Nguyễn Phúc Ủy Thanh (1835 – 1837), chết yểu. Thờ tại Lệ Thục từ.
- Phong Lộc Quận công Nguyễn Phúc Hồng Kháng (5 tháng 5 năm 1837 – 19 tháng 2 năm 1865). Mất mà không có con, lấy công tử Ưng Hiệp, con của em trai Hồng Dật làm thừa tự.
- Hoàng nữ Nguyễn Phúc Liêu Diệu (1838), chết non. Thờ tại Lệ Thục từ.
- Hoàng nữ Nguyễn Phúc Nhàn Nhã (1839 – 1840), chết yểu. Thờ tại Lệ Thục từ.
- Lạc Thành Công chúa Nguyễn Phúc Nhàn Đức (? – sau năm 1899[3]), không rõ hôn sự.
- Hiệp Hòa Phế đế Nguyễn Phúc Hồng Dật (1 tháng 11 năm 1847 – 29 tháng 11 năm 1883), sau bị quyền thần phế truất và bức tử. Thành Thái truy phong làm Văn Lãng Quận vương (文朗郡王).
Trong văn hoá đại chúng
Năm | Phim ảnh | Diễn viên | Nhân vật |
---|---|---|---|
2020 | Phượng khấu | Amy Lê Anh | Trương Uyển Thận |
Tham khảo
- Hội đồng trị sự Nguyễn Phúc Tộc (1995), Nguyễn Phúc Tộc thế phả, Nhà xuất bản Thuận Hóa, tr.282
- Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam liệt truyện chính biên, Nhà xuất bản Thuận Hóa
Chú thích
- ^ a b c d e f Nguyễn Phúc tộc thế phả, tr.282
- ^ Đại Nam thực lục, tập 8, tr.587
- ^ Trên tấm bia dựng ở chùa Từ Hiếu dựng năm Thành Thái thứ 11 (1899), công chúa Lạc Thành vẫn còn quyên tiền vào việc sửa chùa. Xem Chùa Từ Hiếu.