Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hãn quốc Kokand”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thay tập tin Bandera_de_Kokand.svg bằng tập tin Flag_of_the_Turkestan_(Kokand)_Autonomy.svg (được thay thế bởi CommonsDelinker vì lí do: File renamed: Criterion 3 (obvious error) · It's fla
Việt-hóa
Dòng 28: Dòng 28:
}}
}}
[[Tập tin:KokandPalace.jpg|thumb|right|250px|Cung điện của Hãn, Kokand.]]
[[Tập tin:KokandPalace.jpg|thumb|right|250px|Cung điện của Hãn, Kokand.]]
'''Hãn quốc Kokand''' ({{lang-uz|Qo‘qon Xonligi}}, Қўқон Хонлиги, قۇقان خانلىگى; {{lang-ky|Кокон хандыгы|Qoqon xandığı}}, قوقون حاندىعى; {{lang-fa|خانات خوقند|Xânâte Xuqand}}) là một quốc gia Trung Á <ref>Gabriele Rasuly-Paleczek, Julia Katschnig (2005), ''European Society for Central Asian Studies. International Conference'', p.31</ref> trong Thung lũng Fergana tồn tại từ 1709–1876 trong lãnh thổ Kyrgyzstan ngày nay, phía đông Uzbekistan và Tajikistan, và đông nam Kazakhstan. Tên của thành phố và hãn quốc cũng có thể được viết là '''Khoqand''' trong ấn phẩm học thuật hiện đại.
'''Hãn quốc Kokand''' ({{lang-uz|Qo‘qon Xonligi}}, Қўқон Хонлиги, قۇقان خانلىگى; {{lang-ky|Кокон хандыгы|Qoqon xandığı}}, قوقون حاندىعى; {{lang-fa|خانات خوقند|Xânâte Xuqand}}) là một quốc gia Trung Á <ref>Gabriele Rasuly-Paleczek, Julia Katschnig (2005), ''European Society for Central Asian Studies. International Conference'', p.31</ref> trong Thung lũng Fergana tồn tại từ 1709–1876 bao gồm lãnh thổ những quốc gia ngày nay như Kyrgyzstan, đông phần Uzbekistan và Tajikistan, và đông nam Kazakhstan. Địa danh này còn được viết là '''Khoqand''' nhất là trong các ấn phẩm học thuật hiện đại.


== Lịch sử ==
== Lịch sử ==
Hãn quốc Kokand được thành lập năm 1709 khi tiểu vương [[Shaybanid]] [[Shahrukh Bey|Shahrukh]], thuộc bộ tộc Minh của [[Người Uzbek|Uzbeks]], tuyên bố độc lập khỏi [[Hãn quốc Bukhara]], thiết lập một nhà nước phần phía đông của Thung lũng Fergana. Ông đã xây dựng một thành trì làm kinh đô của mình tại thành nhỏ Kokand, do đó bắt đầu từ hãn quốc Kokand. Con trai ông, Abd al-Karim, cháu trai, Narbuta Biy, mở rộng thành, nhưng cả hai bị buộc phải quy phục xứ bảo hộ, cống nộp cho [[Nhà Thanh]] ở Trung Quốc giữa năm 1774 và 1798.<ref name=":52">{{Cite book|url=https://books.google.com/books?id=otHfBQAAQBAJ&pg=PA33&lpg=PA33&dq=kokand+umar+khan&source=bl&ots=v0lYYynPRe&sig=qMbGesMlXV9WUv8jtubwQ_JS3Rs&hl=en&sa=X&ved=0ahUKEwjm6Ljt4cDXAhVM7iYKHZGlDN0Q6AEIPTAD#v=onepage&q=kokand%20umar%20khan&f=false|title=Ferghana Valley: The Heart of Central Asia|last=Starr|first=S. Frederick|date=2014-12-18|publisher=Routledge|isbn=9781317470663|language=en}}</ref><ref>[[National Encyclopedia of Uzbekistan|OʻzME]]. Birinchi jild. [[Tashkent]], 2000</ref>
[[Hãn quốc]] Kokand mặt từ khi tiểu vương [[Shaybanid]] [[Shahrukh Bey|Shahrukh]] [[người Uzbek]] sáng lập năm 1709 ở đông phần [[thung lũng Fergana]], tách khỏi [[Hãn quốc Bukhara]]. Thiết triều thành Kokand. Shahrukh truyền ngôi cho con Abd al-Karim, rồi đến đời cháu Narbuta Biy thì hãn phủ càng mở rộng, thành quách chỉnh trang. Đến cuối thế kỷ 18 (1774-98) thì Kokand gửi sứ xưng thần với [[Nhà Thanh]].<ref name=":52">{{Cite book|url=https://books.google.com/books?id=otHfBQAAQBAJ&pg=PA33&lpg=PA33&dq=kokand+umar+khan&source=bl&ots=v0lYYynPRe&sig=qMbGesMlXV9WUv8jtubwQ_JS3Rs&hl=en&sa=X&ved=0ahUKEwjm6Ljt4cDXAhVM7iYKHZGlDN0Q6AEIPTAD#v=onepage&q=kokand%20umar%20khan&f=false|title=Ferghana Valley: The Heart of Central Asia|last=Starr|first=S. Frederick|date=2014-12-18|publisher=Routledge|isbn=9781317470663|language=en}}</ref><ref>[[National Encyclopedia of Uzbekistan|OʻzME]]. Birinchi jild. [[Tashkent]], 2000</ref>
<!--
<!--
Khi cháu bốn đời của Shahrukh là Alim lên làm hãn thì việc triều chính suy đồi. Alim có tiếng là tàn nhẫn, hiếu sát. Alim phái quân đánh lấy tây phần Thung lũng Fergana, chiếm các xứ Khujand và Tashkent nhưng lại bị người anh là Umar giết năm 1810. Con của Umar là Mohammed Ali mới 12 tuổi được lập làm ấu chúa, xưng là Madali Hãn. Đây là thời điểm hãn quốc Kokand đạt diện tích lớn nhất. Uy danh Kokand lan rộng nên Kokand được quyền phong tước ''Khoja'' cho giáo chủ xứ Kashgar như trường hợp Jahangir Khoja.
Con trai của Narbuta Biy, Alim đều tàn nhẫn và hiệu quả. Ông đã thuê một đội quân lính đánh thuê cao nguyên Tajik, và chinh phục nửa phía tây của Thung lũng Fergana, bao gồm Khujand và Tashkent. Ông bị ám sát bởi anh trai Umar năm 1810. Con trai của Umar, Mohammed Ali (Madali Hãn), lên ngôi năm 1821 ở tuổi 12. Trong triều đại của mình, Hãn quốc Kokand đạt đến lãnh thổ lớn nhất. Hãn quốc Kokand cũng đặt các Khojas của Kashgar như Jahangir Khoja. Năm 1841, sĩ quan trưởng Anh Arthur Conollythất bại trong việc thuyết phục các khả hãn quốc khác nhau bỏ qua những khác biệt của họ, trong nỗ lực chống lại sự xâm nhập ngày càng tăng của [[Đế quốc Nga]] vào khu vực. Vào tháng 11 năm 1841, ông rời Kokand cho Bukhara trong một nỗ lực xấu xa để giải cứu đồng tu Đại tá Charles Stoddart, và cả hai bị hành quyết vào ngày 24 tháng 6 năm 1842 theo lệnh của Emir Nasrullah Hãn của Bukhara.


Năm 1841 trong khi [[Nga]] và [[Anh]] bành trướng ở [[Trung Á]], [[Công ty Đông Ấn Anh]] phái Arthur Conolly lên Kokand hầu thuyết phục các hãn quốc đoàn kết chống lại sự xâm nhập ngày càng tăng của [[Đế quốc Nga]] nhưng không thành. Tháng 11 năm 1841, khi nghe tin Đại tá Charles Stoddart bị hãn quốc Bukhara bắt giam, Conolly rời Kokand đi Bukhara tìm cách giải cứu nhưng bị
Sau đó, Madali Hãn, người đã nhận Conolly ở Kokand, và cũng đã tìm kiếm một liên minh với Nga, đánh mất niềm tin của Nasrullah. Emir, được khuyến khích bởi những nỗ lực âm mưu của một số nhân vật có ảnh hưởng ở Kokand (bao gồm cả chỉ huy quân đội của nó), xâm chiếm khả hãn quốc năm 1842. Ngay sau đó ông thực hiện Madali Hãn, anh trai của ông, và góa phụ của Omar Hãn, nhà thơ nổi tiếng Nodira. Người em họ của Madali Hãn, Shir Ali, đã được cài đặt làm Hãn của Kokand vào tháng 6 năm 1842. Trong hai thập kỷ tiếp theo, hãn quốc đã bị suy yếu bởi một cuộc nội chiến cay đắng, càng thêm trầm trọng bởi những cuộc xâm lược của Bukharan và Nga. Con trai của Shir Ali, Khudayar Hãn, cai trị từ năm 1845 đến 1858, và sau một cuộc giao tranh khác dưới thời Emir Nasrullah, một lần nữa từ năm 1865. Trong khi đó, Nga tiếp tục tiến bộ: ngày 28 tháng 6 năm 1865, Tashkent được quân đội Nga của Tướng Chernyayev; mất Khujand sau năm 1867.
Nasrullah Hãn của Bukhara bắt được và đem hành quyết cả hai vào ngày 24 Tháng 6 năm 1842.

Madali Hãn biết tin, sợ bị lụy vì đã tiếp Conolly ở Kokand nên sai người cầu viện quân Nga. Nasrullah lấy đó làm hiềm nên cấu kết với quan lại Kokand kéo quân đánh úp lấy Kokand năm 1842, bắt được anh em Madali cùng phi tần của Umar là thi sĩ Nodira đem giết hết. Nasrullah sai lập em họ của Madali là Shir Ali làm hãn chúa Tháng 6 năm 1842. Kokand rơi vào tình trạng phân hóa kéo dài 20 năm, trong thì nội loạn, ngoài thì bị Bukhara và Nga xâm lấn. Con của Shir Ali là Khudayar lên ngôi năm 1845 cố củng cố quyền lực đến 1858 thì mất. Quân Bukhara của Nasrullah lại kéo sang Kokand đánh phá lần nữa năm 1865. Cùng lúc đó [[Đế quốc Nga]] lấn chiếm các tiểu quốc Trung Á, tiếp thu [[Tashkent]] ngày 28 Tháng 6 năm 1865 rồi chiếm lấy thành Khujand của Kokand năm 1867.


Không lâu trước khi sự sụp đổ của Tashkent, con trai nổi tiếng nhất Kokand của Yakub Beg, cựu chúa tể của Tashkent, đã được gửi bởi sau đó Hãn của Kokand, Alimqul đến Kashgar, nơi mà các tín đồ [[Hồi giáo]] Hui là trong cuộc nổi dậy chống lại Trung Quốc. Khi Alimqul bị giết vào năm 1867 sau sự mất tích của Tashkent, nhiều binh lính Kokandia đã bỏ chạy để gia nhập Yaqub Beg, giúp ông thiết lập quyền thống trị của mình trên khắp Tarim Basin, kéo dài cho đến năm 1877. Khi [[Nhà Thanh]] chiếm lại khu vực.
Không lâu trước khi sự sụp đổ của Tashkent, con trai nổi tiếng nhất Kokand của Yakub Beg, cựu chúa tể của Tashkent, đã được gửi bởi sau đó Hãn của Kokand, Alimqul đến Kashgar, nơi mà các tín đồ [[Hồi giáo]] Hui là trong cuộc nổi dậy chống lại Trung Quốc. Khi Alimqul bị giết vào năm 1867 sau sự mất tích của Tashkent, nhiều binh lính Kokandia đã bỏ chạy để gia nhập Yaqub Beg, giúp ông thiết lập quyền thống trị của mình trên khắp Tarim Basin, kéo dài cho đến năm 1877. Khi [[Nhà Thanh]] chiếm lại khu vực.

Phiên bản lúc 15:58, ngày 15 tháng 10 năm 2020

Hãn quốc Kokand
1709–1883
Quốc kỳ Kokand Kokand
Quốc kỳ Kokand
Hãn quốc Kokand (xanh lá), 1850.
Hãn quốc Kokand (xanh lá), 1850.
Tổng quan
Thủ đôKokand
Ngôn ngữ thông dụngTiếng Ba Tư (chính thức, triều đình, văn học)
Tiếng Uzbek
Tôn giáo chính
Sunni giáo
Chính trị
Chính phủChế độ quân chủ
Hãn 
• 1709–1721
Shahrukh Biy
• 1875–1883
Nasr ad-Din Abdul Karin Khan
Lịch sử 
• Thành lập
1709
• Giải thể
1883
Tiền thân
Kế tục
Khả Hãn quốc Bukhara
Turkestan thuộc Nga
Hiện nay là một phần của Kyrgyzstan
 Uzbekistan
 Tajikistan
 Kazakhstan
Cung điện của Hãn, Kokand.

Hãn quốc Kokand (tiếng Uzbek: Qo‘qon Xonligi, Қўқон Хонлиги, قۇقان خانلىگى; tiếng Kyrgyz: Кокон хандыгы, chuyển tự Qoqon xandığı, قوقون حاندىعى; tiếng Ba Tư: خانات خوقند‎, chuyển tự Xânâte Xuqand) là một quốc gia Trung Á [1] trong Thung lũng Fergana tồn tại từ 1709–1876 bao gồm lãnh thổ những quốc gia ngày nay như Kyrgyzstan, đông phần Uzbekistan và Tajikistan, và đông nam Kazakhstan. Địa danh này còn được viết là Khoqand nhất là trong các ấn phẩm học thuật hiện đại.

Lịch sử

Hãn quốc Kokand có mặt từ khi tiểu vương Shaybanid Shahrukh người Uzbek sáng lập năm 1709 ở đông phần thung lũng Fergana, tách khỏi Hãn quốc Bukhara. Thiết triều ở thành Kokand. Shahrukh truyền ngôi cho con là Abd al-Karim, rồi đến đời cháu là Narbuta Biy thì hãn phủ càng mở rộng, thành quách chỉnh trang. Đến cuối thế kỷ 18 (1774-98) thì Kokand gửi sứ xưng thần với Nhà Thanh.[2][3]

Xem thêm

Tham khảo

  1. ^ Gabriele Rasuly-Paleczek, Julia Katschnig (2005), European Society for Central Asian Studies. International Conference, p.31
  2. ^ Starr, S. Frederick (18 tháng 12 năm 2014). Ferghana Valley: The Heart of Central Asia (bằng tiếng Anh). Routledge. ISBN 9781317470663.
  3. ^ OʻzME. Birinchi jild. Tashkent, 2000