Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Gấu trắng Bắc Cực”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Đã bị lùi lại Soạn thảo trực quan Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
n Đã lùi lại sửa đổi của 101.99.13.11 (Thảo luận) quay về phiên bản cuối của 14.238.33.218
Thẻ: Lùi tất cả Đã bị lùi lại
Dòng 28: Dòng 28:
|name=Gấu trắng Bắc Cực|fossil_range=[[Thế Pleistocen]] - Gần đây<ref name="polarresearch">{{cite journal|last1=Ingólfsson|first1=Ólafur|last2=Wiig|first2=Øystein|title=Late Pleistocene fossil find in Svalbard: the oldest remains of a polar bear (''Ursus maritimus'' Phipps, 1744) ever discovered|journal=Polar Research|date=2009|volume=28|issue=3|doi=10.3402/polar.v28i3.6131|url=http://www.polarresearch.net/index.php/polar/article/view/6131/6810|access-date=13 January 2019|archive-url=https://web.archive.org/web/20161009084414/http://www.polarresearch.net/index.php/polar/article/view/6131/6810|archive-date=9 October 2016|url-status=dead}}</ref>|image_caption=Con cái gần Kaktovik, đảo đổi hàng, [[Alaska]], [[Hoa Kỳ]]|subdivision_ranks=Phân loài|subdivision=†''Ursus maritimus tyrannus''(?)}}
|name=Gấu trắng Bắc Cực|fossil_range=[[Thế Pleistocen]] - Gần đây<ref name="polarresearch">{{cite journal|last1=Ingólfsson|first1=Ólafur|last2=Wiig|first2=Øystein|title=Late Pleistocene fossil find in Svalbard: the oldest remains of a polar bear (''Ursus maritimus'' Phipps, 1744) ever discovered|journal=Polar Research|date=2009|volume=28|issue=3|doi=10.3402/polar.v28i3.6131|url=http://www.polarresearch.net/index.php/polar/article/view/6131/6810|access-date=13 January 2019|archive-url=https://web.archive.org/web/20161009084414/http://www.polarresearch.net/index.php/polar/article/view/6131/6810|archive-date=9 October 2016|url-status=dead}}</ref>|image_caption=Con cái gần Kaktovik, đảo đổi hàng, [[Alaska]], [[Hoa Kỳ]]|subdivision_ranks=Phân loài|subdivision=†''Ursus maritimus tyrannus''(?)}}


Sơn hay đơn giản là '''BinP''' (''Ursus maritimus'') là một loài [[gấu]] [[Động vật chuyên ăn thịt|chuyên ăn thịt]] có phạm vi sinh sống chủ yếu nằm trong [[Vòng Bắc Cực]], bao gồm [[Bắc Băng Dương]], các vùng biển xung quanh và các vùng đất xung quanh. Nó là loài gấu lớn nhất còn sinh tồn, cũng như là loài ăn thịt lớn nhất còn sinh tồn trên cạn.<ref>{{Cite web|url=https://defenders.org/polar-bear/basic-facts|title=Basic Facts About Polar Bears|date=24 February 2012|website=Defenders of Wildlife|language=en|access-date=13 June 2019}}</ref><ref>{{cite web|url=http://www.fws.gov/endangered/esa-library/pdf/polar_bear.pdf|title=Polar bear, (''Ursus maritimus'')|publisher=United States Fish and Wildlife service|access-date=9 September 2009|quote=Appearance. The polar bear is the largest member of the bear family, with the exception of Alaska's [[Kodiak bear]]s, which equal polar bears in size.}}</ref> Con đực trưởng thành nặng khoảng 350–700 kg,<ref name="Animal">{{cite book|title=Animal|last=Kindersley|first=Dorling|publisher=DK Publishing|year=2001|isbn=978-0-7894-7764-4|location=New York City}}</ref> trong khi một con cái trưởng thành có kích thước bằng một nửa. Mặc dù nó là [[Nhóm chị em|loài chị em]] với [[gấu nâu]],<ref name="MSW3">{{MSW3 Carnivora|id=14000987|page=589}}</ref> nó đã tiến hóa để chiếm một vùng sinh thái hẹp hơn, với nhiều đặc điểm cơ thể thích nghi với nhiệt độ lạnh, để di chuyển trên tuyết, băng và nước mở, và săn [[hải cẩu]], loài chiếm phần lớn chế độ ăn của nó.<ref>{{cite web|url=http://animaldiversity.ummz.umich.edu/site/accounts/information/Ursus_maritimus.html|title=''Ursus Maritimus''|last=Gunderson|first=Aren|year=2007|website=Animal Diversity Web|publisher=University of Michigan Museum of Zoology|archive-url=https://web.archive.org/web/20071024174536/http://animaldiversity.ummz.umich.edu/site/accounts/information/Ursus_maritimus.html|archive-date=24 October 2007|access-date=27 October 2007|url-status=dead}}</ref> Mặc dù đa số gấu Bắc Cực được sinh ra trên cạn, chúng dành phần lớn thời gian trên biển băng. Tên khoa học của chúng có nghĩa là "gấu biển" và xuất phát từ thực tế này. Gấu Bắc Cực săn thức ăn ưa thích là hải cẩu của chúng từ rìa [[băng biển]], chúng thường sống bằng nguồn dự trữ chất béo khi không có băng biển. Do phụ thuộc vào băng biển, gấu Bắc Cực được xếp vào nhóm [[Thú biển|động vật có vú sống ở biển]].<ref name="StirlingGuravich1998">{{cite book|url=https://books.google.com/books?id=ViOiGWPQRjIC|title=Polar Bears|last1=Stirling|first1=Ian|last2=Guravich|first2=Dan|publisher=University of Michigan Press|year=1998|isbn=978-0-472-08108-0|page=191}}</ref>
'''Gấu đen Bắc Cực''' hay đơn giản là '''gấu Bắc Cực''' (''Ursus maritimus'') là một loài [[gấu]] [[Động vật chuyên ăn thịt|chuyên ăn thịt]] có phạm vi sinh sống chủ yếu nằm trong [[Vòng Bắc Cực]], bao gồm [[Bắc Băng Dương]], các vùng biển xung quanh và các vùng đất xung quanh. Nó là loài gấu lớn nhất còn sinh tồn, cũng như là loài ăn thịt lớn nhất còn sinh tồn trên cạn.<ref>{{Cite web|url=https://defenders.org/polar-bear/basic-facts|title=Basic Facts About Polar Bears|date=24 February 2012|website=Defenders of Wildlife|language=en|access-date=13 June 2019}}</ref><ref>{{cite web|url=http://www.fws.gov/endangered/esa-library/pdf/polar_bear.pdf|title=Polar bear, (''Ursus maritimus'')|publisher=United States Fish and Wildlife service|access-date=9 September 2009|quote=Appearance. The polar bear is the largest member of the bear family, with the exception of Alaska's [[Kodiak bear]]s, which equal polar bears in size.}}</ref> Con đực trưởng thành nặng khoảng 350–700 kg,<ref name="Animal">{{cite book|title=Animal|last=Kindersley|first=Dorling|publisher=DK Publishing|year=2001|isbn=978-0-7894-7764-4|location=New York City}}</ref> trong khi một con cái trưởng thành có kích thước bằng một nửa. Mặc dù nó là [[Nhóm chị em|loài chị em]] với [[gấu nâu]],<ref name="MSW3">{{MSW3 Carnivora|id=14000987|page=589}}</ref> nó đã tiến hóa để chiếm một vùng sinh thái hẹp hơn, với nhiều đặc điểm cơ thể thích nghi với nhiệt độ lạnh, để di chuyển trên tuyết, băng và nước mở, và săn [[hải cẩu]], loài chiếm phần lớn chế độ ăn của nó.<ref>{{cite web|url=http://animaldiversity.ummz.umich.edu/site/accounts/information/Ursus_maritimus.html|title=''Ursus Maritimus''|last=Gunderson|first=Aren|year=2007|website=Animal Diversity Web|publisher=University of Michigan Museum of Zoology|archive-url=https://web.archive.org/web/20071024174536/http://animaldiversity.ummz.umich.edu/site/accounts/information/Ursus_maritimus.html|archive-date=24 October 2007|access-date=27 October 2007|url-status=dead}}</ref> Mặc dù đa số gấu Bắc Cực được sinh ra trên cạn, chúng dành phần lớn thời gian trên biển băng. Tên khoa học của chúng có nghĩa là "gấu biển" và xuất phát từ thực tế này. Gấu Bắc Cực săn thức ăn ưa thích là hải cẩu của chúng từ rìa [[băng biển]], chúng thường sống bằng nguồn dự trữ chất béo khi không có băng biển. Do phụ thuộc vào băng biển, gấu Bắc Cực được xếp vào nhóm [[Thú biển|động vật có vú sống ở biển]].<ref name="StirlingGuravich1998">{{cite book|url=https://books.google.com/books?id=ViOiGWPQRjIC|title=Polar Bears|last1=Stirling|first1=Ian|last2=Guravich|first2=Dan|publisher=University of Michigan Press|year=1998|isbn=978-0-472-08108-0|page=191}}</ref>


Do [[mất môi trường sống]] do [[biến đổi khí hậu]] gây ra, gấu Bắc Cực được xếp vào [[loài sắp nguy cấp]]. Trong nhiều thập kỷ, săn bắn quy mô lớn đã làm dấy lên mối quan tâm quốc tế về tương lai của loài này, nhưng quần thể đã phục hồi trở lại sau khi các biện pháp kiểm soát và hạn ngạch bắt đầu có hiệu lực.<ref>{{cite web|url=http://www.polarbearsinternational.org/about-polar-bears/what-scientists-say/why-polar-bear-hunting-allowed|title=Why is polar bear hunting allowed?|last=Amstrup|first=Steven C.|author-link=Steven Amstrup|archive-url=https://web.archive.org/web/20150708181817/http://www.polarbearsinternational.org/about-polar-bears/what-scientists-say/why-polar-bear-hunting-allowed|archive-date=8 July 2015|access-date=8 July 2015}}</ref> Trong hàng ngàn năm, gấu Bắc Cực đã là một nhân vật quan trọng trong đời sống vật chất, tinh thần và văn hóa của các dân tộc vùng cực, và gấu Bắc Cực vẫn quan trọng trong nền văn hóa của họ. Trong lịch sử, gấu Bắc Cực còn được gọi là "gấu trắng".<ref>{{cite encyclopedia|title=Definition of 'white bear'|encyclopedia=Collins English Dictionary|publisher=HarperCollins Publishers LLC|location=Glasgow, Scotland|url=https://www.collinsdictionary.com/dictionary/english/white-bear|access-date=21 October 2017|archive-url=https://web.archive.org/web/20171015202910/https://www.collinsdictionary.com/dictionary/english/white-bear|archive-date=15 October 2017|url-status=live}}</ref> Nó đôi khi được gọi là "nanook", dựa trên thuật ngữ ''nanuq'' của [[Inuit|người Inuit]].<ref name=":1">{{cite web|url=http://www.thearcticsounder.com/news/show/1309|title=Alaska, Chukotka sign agreement to manage polar bears|last=Ben-Yosef|first=Tamar|date=1 February 2008|website=The Arctic Sounder|archive-url=https://web.archive.org/web/20081217021542/http://www.thearcticsounder.com/news/show/1309|archive-date=17 December 2008|access-date=4 September 2020}}</ref>
Do [[mất môi trường sống]] do [[biến đổi khí hậu]] gây ra, gấu Bắc Cực được xếp vào [[loài sắp nguy cấp]]. Trong nhiều thập kỷ, săn bắn quy mô lớn đã làm dấy lên mối quan tâm quốc tế về tương lai của loài này, nhưng quần thể đã phục hồi trở lại sau khi các biện pháp kiểm soát và hạn ngạch bắt đầu có hiệu lực.<ref>{{cite web|url=http://www.polarbearsinternational.org/about-polar-bears/what-scientists-say/why-polar-bear-hunting-allowed|title=Why is polar bear hunting allowed?|last=Amstrup|first=Steven C.|author-link=Steven Amstrup|archive-url=https://web.archive.org/web/20150708181817/http://www.polarbearsinternational.org/about-polar-bears/what-scientists-say/why-polar-bear-hunting-allowed|archive-date=8 July 2015|access-date=8 July 2015}}</ref> Trong hàng ngàn năm, gấu Bắc Cực đã là một nhân vật quan trọng trong đời sống vật chất, tinh thần và văn hóa của các dân tộc vùng cực, và gấu Bắc Cực vẫn quan trọng trong nền văn hóa của họ. Trong lịch sử, gấu Bắc Cực còn được gọi là "gấu trắng".<ref>{{cite encyclopedia|title=Definition of 'white bear'|encyclopedia=Collins English Dictionary|publisher=HarperCollins Publishers LLC|location=Glasgow, Scotland|url=https://www.collinsdictionary.com/dictionary/english/white-bear|access-date=21 October 2017|archive-url=https://web.archive.org/web/20171015202910/https://www.collinsdictionary.com/dictionary/english/white-bear|archive-date=15 October 2017|url-status=live}}</ref> Nó đôi khi được gọi là "nanook", dựa trên thuật ngữ ''nanuq'' của [[Inuit|người Inuit]].<ref name=":1">{{cite web|url=http://www.thearcticsounder.com/news/show/1309|title=Alaska, Chukotka sign agreement to manage polar bears|last=Ben-Yosef|first=Tamar|date=1 February 2008|website=The Arctic Sounder|archive-url=https://web.archive.org/web/20081217021542/http://www.thearcticsounder.com/news/show/1309|archive-date=17 December 2008|access-date=4 September 2020}}</ref>

Phiên bản lúc 13:03, ngày 22 tháng 1 năm 2021

Gấu trắng Bắc Cực
Thời điểm hóa thạch: Thế Pleistocen - Gần đây[1]
Con cái gần Kaktovik, đảo đổi hàng, Alaska, Hoa Kỳ
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Vực (domain)Eukarya
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Mammalia
Bộ (ordo)Carnivora
Họ (familia)Ursidae
Chi (genus)Ursus
Loài (species)U. maritimus
Danh pháp hai phần
Ursus maritimus
Phipps, 1774[3]
Phạm vi phân bố gấu Bắc Cực
Phạm vi phân bố gấu Bắc Cực
Phân loài
Ursus maritimus tyrannus(?)
Danh pháp đồng nghĩa

Ursus eogroenlandicus
Ursus groenlandicus
Ursus jenaensis
Ursus labradorensis
Ursus marinus
Ursus polaris
Ursus spitzbergensis
Ursus ungavensis

Thalarctos maritimus

Gấu đen Bắc Cực hay đơn giản là gấu Bắc Cực (Ursus maritimus) là một loài gấu chuyên ăn thịt có phạm vi sinh sống chủ yếu nằm trong Vòng Bắc Cực, bao gồm Bắc Băng Dương, các vùng biển xung quanh và các vùng đất xung quanh. Nó là loài gấu lớn nhất còn sinh tồn, cũng như là loài ăn thịt lớn nhất còn sinh tồn trên cạn.[4][5] Con đực trưởng thành nặng khoảng 350–700 kg,[6] trong khi một con cái trưởng thành có kích thước bằng một nửa. Mặc dù nó là loài chị em với gấu nâu,[7] nó đã tiến hóa để chiếm một vùng sinh thái hẹp hơn, với nhiều đặc điểm cơ thể thích nghi với nhiệt độ lạnh, để di chuyển trên tuyết, băng và nước mở, và săn hải cẩu, loài chiếm phần lớn chế độ ăn của nó.[8] Mặc dù đa số gấu Bắc Cực được sinh ra trên cạn, chúng dành phần lớn thời gian trên biển băng. Tên khoa học của chúng có nghĩa là "gấu biển" và xuất phát từ thực tế này. Gấu Bắc Cực săn thức ăn ưa thích là hải cẩu của chúng từ rìa băng biển, chúng thường sống bằng nguồn dự trữ chất béo khi không có băng biển. Do phụ thuộc vào băng biển, gấu Bắc Cực được xếp vào nhóm động vật có vú sống ở biển.[9]

Do mất môi trường sống do biến đổi khí hậu gây ra, gấu Bắc Cực được xếp vào loài sắp nguy cấp. Trong nhiều thập kỷ, săn bắn quy mô lớn đã làm dấy lên mối quan tâm quốc tế về tương lai của loài này, nhưng quần thể đã phục hồi trở lại sau khi các biện pháp kiểm soát và hạn ngạch bắt đầu có hiệu lực.[10] Trong hàng ngàn năm, gấu Bắc Cực đã là một nhân vật quan trọng trong đời sống vật chất, tinh thần và văn hóa của các dân tộc vùng cực, và gấu Bắc Cực vẫn quan trọng trong nền văn hóa của họ. Trong lịch sử, gấu Bắc Cực còn được gọi là "gấu trắng".[11] Nó đôi khi được gọi là "nanook", dựa trên thuật ngữ nanuq của người Inuit.[12]

Đặc điểm

Hai con gấu Bắc Cực đang đánh nhau, gần Churchill, Manitoba, Canada. Vùng Churchill có tỉ lệ gấu sinh ba cao hơn các nơi khác và gấu con sinh ở đây cũng sống độc lập sớm hơn bình thường

Gấu Bắc Cực đực trưởng thành nặng từ 400 đến 600 kg và đôi khi nặng hơn 800 kg. Con cái có kích thước bằng khoảng một nửa con đực và thông thường cân nặng 200–300 kg. Con đực trưởng thành dài khoảng 2,4 đến 2,6 m; con cái là 1,9 đến 2,1 m. Con gấu Bắc Cực to nhất từng được ghi nhận cân nặng 1002 kg và đứng cao 3,39 m.

Gấu Bắc Cực là một ví dụ tiêu biểu của một động vật hoàn toàn thích nghi với môi trường. Chúng được nhận ra rất nhanh bởi màu lông trắng của chúng. Không giống như các loài động vật có vú khác sống gần vùng cực, chúng không bao giờ rụng lông để trở thành sẫm hơn trong mùa hè. Lông của chúng không phải là màu trắng, nó là không màu và rỗng, giống như tóc trắng ở người. Một đặc thù thú vị của lớp lông gấu Bắc Cực là chúng xuất hiện với màu đen khi chụp ảnh bằng ánh sáng tím. Một số người cho rằng điều này là do lông của chúng truyền ánh sáng tới lớp da màu đen của gấu để giữ cho nó đủ ấm trong mùa đông lạnh lẽo không có mặt trời. Tuy nhiên, các phép đo chứng tỏ rằng lông của chúng hấp thụ rất mạnh các tia tím và cực tím. Điều này giải thích tại sao da chúng thông thường có màu vàng. Đôi khi có những con gấu Bắc Cực có màu khác. Tháng 2 năm 2004, hai con gấu Bắc Cực ở vườn thú Singapore có màu lục do kết quả của tảo mọc trên các ống lông rỗng của chúng. Người phát ngôn của vườn thú nói rằng tảo được sinh ra do điều kiện thời tiết nóng và ẩm của Singapore. Chúng đã được tẩy bằng dung dịch peroxid để phục hồi màu lông cũ của chúng. Loại tảo tương tự cũng đã mọc trên lông của ba con gấu Bắc Cực ở vườn thú San Diego mùa hè năm 1979. Chúng được điều trị bằng dung dịch nước muối.

Ngoài bộ lông có tác dụng ngụy trang và không thấm nước, gấu Bắc Cực còn có lớp mỡ dày đến 10 cm giúp giữ ấm cơ thể, ngay cả khi nhiệt độ xuống tới -40 °C. Chúng không có lông mi, vì lông mi có thể gây đóng băng trên mắt khi nhiệt độ dưới 0 °C. Thay vào đó chúng có lớp màng mí mắt thứ ba, giống như của mèo, giúp cho chúng không bị chói băng và chói tuyết. Gấu Bắc Cực cách nhiệt rất tốt khi chúng nóng quá 10 °C (50 °F). Việc cách nhiệt này rất hiệu quả, khi quan sát bằng camera hồng ngoại thì chúng là không nhìn thấy. Chỉ có bàn chân của chúng bức xạ ra đủ nhiệt để có thể phát hiện được.

Đời sống

Một con gấu Bắc Cực đang nghỉ ngơi
Một con Gấu trắng Bắc Cực đang xẻ thịt một con Hải cẩu râu trên một tảng băng ở phía bắc Svalbard, Na Uy.

Nơi trú ngụ của gấu Bắc Cực là các mảng băng tạo thành mũ băng quanh cực Bắc của Trái Đất. Chúng thường xuất hiện ở rìa các mũ băng, bên cạnh các dải nước và những nơi có nhiều hải cẩu là nguồn thức ăn chính của chúng.

Gấu Bắc Cực dành phần lớn thời gian để đi lại trên băng. Chúng tránh những cơn bão tuyết dữ dội bằng cách đào các hang trú ẩn tạm thời. Thường thì chỉ có gấu cái mang thai mới ngủ đông. Nhưng ở những nơi mà mùa đông lạnh hơn và thức ăn cũng khó tìm hơn, tất cả gấu Bắc Cực đều ngủ đông. Tuy ngủ nhưng chúng không chìm sâu vào giấc ngủ như sóc chuột hay sóc đất. Nhịp tim giảm từ 70 lần/phút xuống 8 lần/phút, nhưng thân nhiệt của chúng vẫn bình thường; và lúc ngủ trong hang, chúng có thể thức dậy ngay. Khi ở trong hang, chúng không ăn và sống nhờ vào lượng mỡ của cơ thể; trong thời gian này, chúng không hề đại tiểu tiện.

Thức ăn

Thức ăn chính của gấu Bắc Cực là hải cẩu; không có loài động vật này, gấu Bắc Cực khó có thể tồn tại. Về mùa xuân, chúng săn hải cẩu vòng mới đẻ; về mùa hè, chúng săn hải cẩu râu, hải cẩu đầu chỏm. Gấu Bắc Cực là loài rất kén ăn. Khi ăn, chúng lột da hải cẩu và thường chỉ ăn lớp mỡ dưới da và bộ lòng. Chỉ khi nào quá đói chúng mới ăn toàn bộ xác con mồi. Các loại mồi khác bao gồm cá heo trắng, voi biển và động vật gặm nhấm. Là một loài động vật ăn thịt thuần túy, chủ yếu là cá, gấu Bắc Cực hấp thụ một lượng lớn vitamin A, được lưu trữ trong gan; trong quá khứ, đã có người bị ngộ độc khi ăn gan gấu Bắc Cực.

Thường thì vào mùa hè do không có hải cẩu để săn, gấu Bắc Cực trở nên ăn tạp; chúng ăn hầu như bất cứ thứ gì tìm thấy được. Chúng đi rảo dưới các vách đá để tìm trứng và chim non bị rơi xuống từ các bờ đá. Chúng còn ăn cả chuột lemming, trái việt quất, dâu tây chua và thậm chí là cỏ héo, tảo,rong rêu biển.

Săn mồi

Gấu Bắc Cực là động vật hoàn thiện nhất trong họ Gấu khi xét theo tiêu chuẩn của bộ ăn thịt. Chúng bơi rất tốt và thường xuyên bơi ra biển cách xa đất liền hàng dặm cây số. Điều này có lẽ là dấu hiệu cho thấy chúng quen với cuộc sống dưới nước để săn mồi tốt hơn. Chúng cũng săn mồi rất tốt trên đất liền do có tốc độ lớn; chúng có thể chạy nhanh hơn con người.

Khi săn mồi, gấu di chuyển im lặng trên băng tuyết, cúi đầu thấp. Dùng hai chân sau đẩy mình, chúng di chuyển về phía trước và khi cách con mồi chừng 1 m, chúng tấn công chớp nhoáng và giết chết con mồi.

Khi săn hải cẩu, gấu Bắc Cực nhẹ nhàng trượt xuống nước với hai chân sau xuống trước. Khi tiến gần con mồi, chúng lặn xuống rồi phóng vọt lên làm cho con mồi bị bất ngờ và không thể trốn thoát. Có khi chúng kiên nhẫn chờ đợi trên các lỗ băng và đợi cho đến khi hải cẩu trồi lên để thở thì chúng chộp ngay.

Sinh sản và nuôi con

Đối với loài gấu Bắc Cực, con cái thường giao phối khi được 4-5 tuổi trong khi con đực phải đợi đến lúc ít nhất được 8 tuổi. Gấu Bắc Cực giao phối vào tháng tư, tháng năm và tháng sáu. Thời kỳ mang thai tương đối dài, từ 195-265 ngày.

Vào mùa thu, gấu cái mang thai quay vào đất liền, đào hang để chuẩn bị sinh con. Những gấu con được sinh ra vào tháng muời hai hay tháng một, thường thì gấu sinh đôi, có khi sinh ba nhưng rất hiếm. Con non lúc mới sinh chỉ nặng 600-700 g và chưa mở mắt. chúng lớn nhanh bằng sữa gấu mẹ giàu vitamin A. Lúc 26 ngày tuổi, gấu con đã có thể nghe được, nhưng phải đợi đến 1 tuần sau mới mở mắt.

Vào đầu tháng ba, gia đình gấu rời khỏi hang. Lúc này, gấu con đã nặng 9–11 kg. Trong năm đầu tiên, gấu con hoàn toàn phụ thuộc vào mẹ và không có khả năng sống sót nếu không có gấu mẹ. Chúng bú mẹ mãi đến 21 tháng tuổi và sống với gấu mẹ cho đến cuối mùa đông thứ hai. Trong thời gian này răng sữa của chúng được thay thế bằng răng vĩnh viễn để chuẩn bị cho việc săn mồi vào mùa xuân năm sau, đồng thời chúng cũng học các kỹ năng săn mồi từ gấu mẹ khi trưởng thành hơn gấu con rời mẹ mà tự độc lập

Gấu Bắc Cực và con người

Ba con gấu Bắc Cực đang dò xét tàu ngầm USS Honolulu, 280 dặm từ cực Bắc

Нàng ngàn năm nay, người Eskimo và gấu Bắc Cực đã cùng chia sẻ một môi trường sống. Trước kia, họ cho rằng gấu có năng lực thần bí; để có được năng lực thần bí này, nhiều người trong số họ đeo răng gấu trên cổ. Da gấu Bắc Cực rất có giá; người Eskimo ngày nay vẫn còn dùng găng, giày ủng, quần áo làm bằng lông gấu. Họ còn dùng bộ da để làm thảm ngồi và ngủ. Chất nhờn từ lông gấu được dùng để bôi trơn các thanh trượt của xe trượt tuyết. Một số người chỉ nuôi chó kéo xe của họ bằng thịt gấu Bắc Cực.

Những nhà thám hiểm và thợ săn cá voi đầu tiên đã săn gấu Bắc Cực để lấy da và thịt. Ở châu Âu, da gấu Bắc Cực dùng làm thảm trải. chúng còn được bán với giá cao để làm tấm lót bàn thờ, hay bục giảng kinh mà các giáo sĩ dùng giữ chân được ấm.

Sự đặt chân của con người đã làm cho số lượng gấu Bắc Cực bị giảm sút rất nhanh. Năm 1965, các quốc gia có ranh giới giáp Bắc Cực đã tổ chức cuộc họp và nhất trí công bố tầm quan trọng của gấu Bắc Cực đồng thời nghiêm cấm việc săn bắn gấu cái đang nuôi con.

Ngày nay, gấu Bắc Cực được cho là đang bị đe dọa, không phải chủ yếu là do việc săn bắn, mà do mất nơi cư trú sinh ra bởi sự ấm toàn cầu; ví dụ, khu vực có băng che phủ của ở miền bắc Canada trong mùa đông là bị thu hẹp lại, giới hạn khả năng của gấu Bắc Cực trong việc săn hải cẩu. Độ nhạy của tỷ lệ sống của gấu Bắc Cực với nhiệt độ toàn cầu đã được chứng minh bằng tư liệu về sự gia tăng quần thể trong nhóm gấu sinh ra trong giai đoạn lạnh ngắn ngủi sau sự phun trào của núi lửa Pinatubo năm 1991. Tuy nhiên, quần thể gấu này đã gia tăng với một tỷ lệ chưa từng thấy, khoảng 15–25% trong khoảng từ năm 1995 đến năm 2005. Sự suy giảm trong một vài khu vực có lẽ là hậu quả của việc săn bắt hơn là do sự thay đổi khí hậu.

Việc khai thác, phát triển công nghiệp khai thác dầu ngoài khơi đã được xây dựng kiên cố gần Bắc Cực. Các sự cố tràn dầu đã giết chết nhiều hải cầu, do đó cũng ảnh hưởng không nhỏ đến gấu Bắc Cực vì hải cẩu là thức ăn chính của chúng.

Gấu Bắc Cực được biết đến vì các hành động hài hước và thông thường là giải trí - ăn ảnh. Ví dụ, chúng trượt bằng bụng của mình, đánh đấm lẫn nhau, hay nhúng nhau xuống nước. Khi con cái làm ổ, nó thường làm ở những chỗ sườn dốc để con của nó có thể trượt xuống bằng mông của chúng, một đặc điểm thông thường được vẽ trong tranh hí họa và các truyện viễn tưởng về gấu Bắc Cực, bao gồm cả chương trình quảng cáo những năm 1990 của Coca-Cola.

Gấu Bắc Cực được vẽ trên đồng 2 đôla (toonie) Canada. Nó cũng là con vật làm phước của ít nhất là hai trường ở Mỹ: Trường Bowdoin và Đại học Bắc Ohio.

Chú thích

  1. ^ Ingólfsson, Ólafur; Wiig, Øystein (2009). “Late Pleistocene fossil find in Svalbard: the oldest remains of a polar bear (Ursus maritimus Phipps, 1744) ever discovered”. Polar Research. 28 (3). doi:10.3402/polar.v28i3.6131. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2019.
  2. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên iucn3.1
  3. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Phipps1774
  4. ^ “Basic Facts About Polar Bears”. Defenders of Wildlife (bằng tiếng Anh). 24 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2019.
  5. ^ “Polar bear, (Ursus maritimus)” (PDF). United States Fish and Wildlife service. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2009. Appearance. The polar bear is the largest member of the bear family, with the exception of Alaska's Kodiak bears, which equal polar bears in size.
  6. ^ Kindersley, Dorling (2001). Animal. New York City: DK Publishing. ISBN 978-0-7894-7764-4.
  7. ^ Wozencraft, W. C. (2005). “Order Carnivora”. Trong Wilson, D. E.; Reeder, D. M (biên tập). Mammal Species of the World (ấn bản 3). Johns Hopkins University Press. tr. 589. ISBN 978-0-8018-8221-0. OCLC 62265494. Đã định rõ hơn một tham số trong |pages=|page= (trợ giúp)
  8. ^ Gunderson, Aren (2007). Ursus Maritimus. Animal Diversity Web. University of Michigan Museum of Zoology. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2007.
  9. ^ Stirling, Ian; Guravich, Dan (1998). Polar Bears. University of Michigan Press. tr. 191. ISBN 978-0-472-08108-0.
  10. ^ Amstrup, Steven C. “Why is polar bear hunting allowed?”. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2015.
  11. ^ “Definition of 'white bear'. Collins English Dictionary. Glasgow, Scotland: HarperCollins Publishers LLC. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2017.
  12. ^ Ben-Yosef, Tamar (1 tháng 2 năm 2008). “Alaska, Chukotka sign agreement to manage polar bears”. The Arctic Sounder. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2020.

Tham khảo

Liên kết ngoài