Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Alphonse Daudet”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Đã bị lùi lại Soạn thảo trực quan
n Đã lùi lại sửa đổi của 14.177.188.212 (Thảo luận) quay về phiên bản cuối của 2001:EE0:4B46:EC20:848E:1236:BC9D:F92A
Thẻ: Lùi tất cả
Dòng 35: Dòng 35:


==Tham khảo==
==Tham khảo==
{{tham khảo}}Sự nghiệp văn học
{{tham khảo}}

* Năm 1866, Lettres de mon moulin (Những bức thư từ Cối xay gió của tôi) của Daudet, viết ở Clamart, gần Paris, và ám chỉ đến một cối xay gió ở Fontvieille, Provence, [3] đã giành được sự chú ý của nhiều độc giả. Tuy nhiên, cuốn sách đầu tiên trong số những cuốn sách dài hơn của ông, Le Petit Chose (1868), đã không tạo được cảm giác phổ biến. Về cơ bản, đó là câu chuyện về những năm trước của chính anh ấy được kể lại với nhiều duyên dáng và khó hiểu. Năm 1872 đưa thần đồng Aventures de Tartarin de Tarascon nổi tiếng, và vở kịch ba màn L'Arlésienne. Nhưng Fromont jeune et Risler aîné (1874) đã ngay lập tức đưa cả thế giới vào cơn bão. Nó đánh dấu một lưu ý, chắc chắn không mới trong văn học Anh, nhưng tương đối mới trong tiếng Pháp. Sự sáng tạo của ông đã tạo ra những nhân vật có thật và cũng rất điển hình. [2]
* Jack, một cuốn tiểu thuyết về một đứa con ngoài giá thú, một kẻ tử vì sự ích kỷ của mẹ mình, ra đời vào năm 1876, chỉ để làm sâu sắc thêm ấn tượng. Do đó, sự nghiệp của ông là một người đàn ông thành công về chữ viết, chủ yếu dành cho việc viết tiểu thuyết: Le Nabab (1877), Les Rois en exil (1879), Numa Roumestan (1881), Sapho (1884), L'Immortel (1888), và viết cho sân khấu: hồi tưởng trong Trente ans de Paris (1887) và Souvenirs d'un homme de lettres (1888). Tiểu thuyết gia người Anh cuối thế kỷ 19, George Gissing, người đã đọc nhiều tiểu thuyết Daudet bằng bản gốc tiếng Pháp, đã mua L'Immortel vào tháng 7 năm 1888 và viết trong nhật ký rằng ông "vui mừng]" khi nghĩ đến việc đọc nó ". Tuy nhiên, khi hoàn thành nó sáu ngày sau, ông viết rằng ông có "những nghi ngờ riêng tư" về nó. [4] Những tác phẩm này, với ba tác phẩm của Tartarin [5] - Tartarin de Tarascon, Tartarin sur les Alpes, Port-Tarascon - và những truyện ngắn, được viết phần lớn trước khi ông có được danh tiếng và tài sản, tạo thành tác phẩm để đời của ông. [2] Sau đó, Gissing đã viết về tác phẩm sau này La Petite Paroisse, xuất bản năm 1895, là "một nỗi buồn khi rời xa Daudet cũ. Không có nhân vật nào là sự sáng tạo". [6]
* L'Immortel là một cuộc tấn công cay đắng vào Académie française, nơi mà Daudet không bao giờ thuộc về cơ thể cường tráng. Daudet cũng viết cho trẻ em, bao gồm La Belle Nivernaise, câu chuyện về một con thuyền cũ và thủy thủ đoàn của cô ấy. Năm 1867 Daudet kết hôn với Julia Allard, tác giả của cuốn sách Impressions de nature et d'art xuất bản năm 1879 (trong đó L'Enfance d'une Parisienne, sau đó được xuất bản độc lập vào năm 1883, tạo thành phần đầu tiên, phần thứ ba là một biên soạn các nghiên cứu văn học của cô, trước đây được viết cho "Journal Officiel" dưới bút danh "Karl Steen"). [2] Daudet không trung thành, và là một trong những người thuộc thế hệ chủ nghĩa tượng trưng văn học Pháp. [7] Mất trinh ở tuổi mười hai, anh ta sau đó ngủ với nhân tình của bạn bè trong suốt cuộc hôn nhân của mình. Daudet đã trải qua nhiều cuộc điều trị và phẫu thuật đau đớn vì căn bệnh bại liệt sau đó của mình. Các mục nhật ký của anh ấy liên quan đến nỗi đau mà anh ấy đã trải qua từ những tấm lưng tabes được thu thập trong tập In the Land of Pain, do Julian Barnes dịch. Daudet qua đời tại Paris vào ngày 16 tháng 12 năm 1897, và được an táng tại Nghĩa trang Père Lachaise của thành phố đó. Câu chuyện về những năm đầu đời của Daudet được kể trong cuốn Mon frère et moi của anh trai Ernest Daudet. Có rất nhiều chi tiết tự truyện trong Trente ans de Paris và Souvenirs d'un homme de lettres của Daudet, và cũng nằm rải rác trong các cuốn sách khác của ông. Các tài liệu tham khảo về ông trong Tạp chí des Goncourt là rất nhiều. [2]

Quan điểm chính trị và xã hội, tranh cãi và di sản:

* Daudet là một người theo chủ nghĩa quân chủ và là một đối thủ nhiệt thành của Cộng hòa Pháp. Daudet cũng chống người Do Thái, mặc dù ít nổi tiếng hơn con trai ông ta là Léon. Nhân vật chính của Le Nabab được lấy cảm hứng từ một chính trị gia Do Thái, người được bầu làm cấp phó cho Nîmes. [8] Daudet đã vận động chống lại anh ta và thua cuộc. Daudet đếm được nhiều nhân vật văn học trong số những người bạn của mình, bao gồm Edouard Drumont, người đã thành lập Liên đoàn Antisemitic của Pháp, đồng thời thành lập và biên tập tờ báo bài Do Thái La Libre Parole. Daudet cũng trao đổi thư từ bài Do Thái với Richard Wagner. [Cần dẫn nguồn] Có ý kiến cho rằng Daudet đã cố tình phóng đại các mối liên hệ của ông với Provence để tiếp tục sự nghiệp văn học và thành công xã hội (sau thành công của Frederic Mistral), bao gồm cả việc nói dối vợ tương lai về nguồn gốc "Provençal" của ông. Nhiều trường cao đẳng và trường học ở Pháp đương đại mang tên ông và sách của ông vẫn được đọc rộng rãi và một số vẫn còn được in.

Người giới thiệu

# "Sketch of Alphonse Daudet," Review of Reviews, Vol. 17, số 2, 1898, tr. 161.
#   Một hoặc nhiều câu trước kết hợp văn bản từ một ấn phẩm hiện thuộc phạm vi công cộng: Marzials, Frank Thomas (1911). "Daudet, Alphonse". Ở Chisholm, Hugh (ed.). Bách khoa toàn thư Britannica. 7 (ấn bản thứ 11). Nhà xuất bản Đại học Cambridge. p. 848.
# Investec Opera Holland Park 2019 Season L'arlesiana Cilea. Công viên Opera Holland. 2019. Trang 17–18.
# Coustillas, Pierre ed. London và cuộc đời của văn học ở nước Anh cuối thời Victoria: Nhật ký của George Gissing, Tiểu thuyết gia. Brighton: Harvester Press, 1978, trang 37-8.
# Sachs, Murray (1966). "Alphonse Daudet's Tartarin Trilogy," The Modern Language Review, Vol. 61, số 2, trang 209–217.
# Coustillas, Pierre ed. p. 373.
# "Bệnh của Alphonse Daudet", Tạp chí Y khoa Anh, Vol. 2, Số 3745, 1932, tr. 722.
# Mosse, Claude (2009). "Alphonse Daudet, Ecrivain Provencal?", Actualite de l'Histoire, số 103, tr. 71.
# Mosse (2009), trang 68–70

10. White, Nicholas (2001–2002). "Quan điểm của người cha về việc ly hôn trong" Rose et Ninette "của Alphonse Daudet (1892)," Nghiên cứu Pháp thế kỷ 19, Vol. 30, số 1/2, trang 131–14

Thư mục:

* Dobie, G. Vera (1949). Alphonse Daudet. London và New York: Nelson.
* Roche, Alphonse V. (1976). Alphonse Daudet. Boston: Nhà xuất bản Twayne.
* Sachs, Murray (1965). Sự nghiệp của Alphonse Daudet: Một nghiên cứu quan trọng. Nhà xuất bản Đại học Harvard.

{{sơ khai nhân vật Pháp}}
{{sơ khai nhân vật Pháp}}



Phiên bản lúc 08:43, ngày 1 tháng 3 năm 2021

Chân dung Alphonse Daudet
Alphonse Daudet

Alphonse Daudet (An-phông-xơ Đô-đê) (13 tháng 5 năm 1840 - 16 tháng 12 năm 1897) là một nhà văn Pháp và là tác giả của nhiều tập truyện ngắn nổi tiếng. Ông là cha của Léon DaudetLucien Daudet. Ông sinh ra ở Nîmes (thuộc miền Nam nước Pháp).

Tiểu sử

Gia đình đã rời quê lên Lyons khi xí nghiệp tơ vải của cha ông bị suy sụp và phải đóng cửa. Ông theo tiếp tục bậc trung học tại đây nhờ một học bổng, nhưng cuối cùng phải bỏ học hẳn khi cuộc hôn nhân của bố mẹ đổ vỡ. Daudet theo chân cha đến Paris và được nhận vào làm ký giả cho tờ Figaro vào năm 12 tuổi.

Ông bắt đầu viết từ năm 14 tuổi, đến năm 18 tuổi Alphonse ra thi tập "Những Người Ðàn Bà Ðang Yêu" (Les Amoureuses, 1858) và được đón nhận ngay. Ðộc giả Pháp đặc biệt yêu mến ông qua các tiểu thuyết "Thằng Nhóc Con" (Le Petit Chose), gần như là thiên hồi ký của thời niên thiếu đau khổ của chính mình mà đôi khi cũng được ví với nhân vật trong tác phẩm "David Copperfield" của đại văn hào Charles Dickens của Anh. Sau đó là tập thi tuyển "Những Lá Thư viết từ cối xay gió" (Lettres de Mon Moulin), bao gồm các bài thơ đề tặng cho Marie Rieu xuất bản năm 1866. Ông đạt đến danh vọng trong làng văn chương Pháp qua giải thưởng Văn chương Pháp với quyển "Fromont Cháu Trẻ và Cụ Riler" (1874). Ðối với các phê bình gia thì trường thiên tiểu thuyết "Tartarin vùng Tarascon" (1872) gồm ba quyển là tác phẩm quan trọng và đặc sắc nhất của Alphonse Daudet.

Những năm sau ông viết nhiều tiểu thuyết cũng thành công không kém, qua các đề tài xã hội của một nước Pháp dân chủ thay thế cho chế độ quân chủ. Ðó là các tác phẩm "Những Vị Vua Lưu Vong", và "Le Nabab", mô tả những nhà triệu phú mới của thế hệ.

Tác phẩm

  • Les Amoureuses (Những người đàn bà đang yêu, 1858)
  • Le Petit Chose (Thằng nhóc, 1868)
  • Lettres de Mon Moulin (Lá thư hè, 1869)
  • Tartarin de Tarascon (Thiện xạ Tartarin, 1872)
  • L'Arlésienne (1872)
  • Contes du Lundi (1873)
  • Les Femmes de Artistes (1874)
  • Robert Helmont (1874)
  • Fromont jeune et Risler aîné (Fromont cháu trẻ và cụ Riler, 1874)
  • Jack (1876)
  • Le Nabab (1877)
  • Les Rois en Exil (Các vị vua lưu vong, 1879)
  • Numa Roumestan (1880)
  • L'Evangéliste (1883)
  • Sapho (1884)
  • Tartarin sur les Alpes (Tartarin trên dãy Alpes, 1885)
  • Le Belle Nivernaise (Nàng tiên cá, 1886)
  • L'Immortel (1888)
  • Port-Tarascon (1890)
  • Rose and Ninette (1892)[1]
  • Le partie de billard (Trò chơi Bi-a)
  • La dernière leçon (Buổi học cuối cùng, đoạn trích từ Contes du Lundi)

Tham khảo

  1. ^ White, Nicholas (2001–2002). "Paternal Perspectives on Divorce in Alphonse Daudet's "Rose et Ninette" (1892)," Nineteenth-Century French Studies, Vol. 30, No. 1/2, pp. 131–147.