Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Yếm”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
n clean up
Dòng 4: Dòng 4:
[[Hình:TONKIN - Hanoi - Servante Indigene.jpg|nhỏ|phải|191px|Đàn bà và đứa trẻ mặc yếm, [[Hà Nội]] 1900 - 1915.]]
[[Hình:TONKIN - Hanoi - Servante Indigene.jpg|nhỏ|phải|191px|Đàn bà và đứa trẻ mặc yếm, [[Hà Nội]] 1900 - 1915.]]
[[Hình:Yếm.jpg|nhỏ|phải|191px|Hai cô mặc yếm giả cổ, 2008.]]
[[Hình:Yếm.jpg|nhỏ|phải|191px|Hai cô mặc yếm giả cổ, 2008.]]
'''Yếm''' (Hán Tự '''đâu tử'''兜子 ,[[chữ Nôm|Nôm]]裺 hoặc 𧞣) là [[vuông]] [[vải]] che [[ngực|ức]] của nữ giới và Thiếu nhi ở [[Vùng Văn hóa Đông Á|Đông Á Văn hóa quyển]].
'''Yếm''' (Hán Tự '''đâu tử'''兜子,[[chữ Nôm|Nôm]]裺 hoặc 𧞣) là [[vuông]] [[vải]] che [[ngực|ức]] của nữ giới và Thiếu nhi ở [[Vùng Văn hóa Đông Á|Đông Á Văn hóa quyển]].


==Lịch sử==
==Lịch sử==
Dòng 41: Dòng 41:
''Cái cốc mày lặn ao chà,''<br>''Bay lên rủ cánh làm nhà chị nương.''<br>''Yếm thắm mà nhuộm hoa nương,''<br>''Cái răng hạt đỗ làm tương anh đồ.''<br>''Yếm thắm mà vã nước hồ,''<br>''Vã đi vã lại anh đồ yêu đương.''
''Cái cốc mày lặn ao chà,''<br>''Bay lên rủ cánh làm nhà chị nương.''<br>''Yếm thắm mà nhuộm hoa nương,''<br>''Cái răng hạt đỗ làm tương anh đồ.''<br>''Yếm thắm mà vã nước hồ,''<br>''Vã đi vã lại anh đồ yêu đương.''
||
||
''Đi đâu đào liễu một mình,''<br>''Hai vai gánh nặng nhật trình đường xa.''<br>''Áo sồng em để trong nhà,''<br>''Ba vuông nhiễu tím phất phơ đội đầu.''<br>''Yếm điều em hãy còn màu,''<br>''Răng đen da trắng, mái đầu còn xanh.''<br>''Ở vậy làm sao cho đành,''<br>''Sao không kiếm chốn, thế tình mỉa mai.''<br>''Chữ rằng : Xuân bất tái lai,''<br>''Sách có chữ rằng : Xuân bất tái lai.''
''Đi đâu đào liễu một mình,''<br>''Hai vai gánh nặng nhật trình đường xa.''<br>''Áo sồng em để trong nhà,''<br>''Ba vuông nhiễu tím phất phơ đội đầu.''<br>''Yếm điều em hãy còn màu,''<br>''Răng đen da trắng, mái đầu còn xanh.''<br>''Ở vậy làm sao cho đành,''<br>''Sao không kiếm chốn, thế tình mỉa mai.''<br>''Chữ rằng: Xuân bất tái lai,''<br>''Sách có chữ rằng: Xuân bất tái lai.''
|}
|}
</center>
</center>

Phiên bản lúc 16:28, ngày 5 tháng 9 năm 2021

Bức Đoan Dương hô anh đồ (端陽戲嬰圖) do tác giả Tô Hán Thần vẽ khoảng thế kỷ XII, mô tả ba đứa trẻ mặc yếm đang chơi đùa.
Một chiếc yếm thêu cho bé trai Trung Hoa, thập niên 1950.
Họa An Nam nữ giới mặc yếm ngũ sắc và nam giới để đầu giác(頭角) là võ sĩ trong Boxer Codex,1595,
Đàn bà và đứa trẻ mặc yếm, Hà Nội 1900 - 1915.
Hai cô mặc yếm giả cổ, 2008.

Yếm (Hán Tự đâu tử兜子,Nôm裺 hoặc 𧞣) là vuông vải che ức của nữ giới và Thiếu nhi ở Đông Á Văn hóa quyển.

Lịch sử

AN NAM (VIỆT NAM)

Áo cổ khoét tròn là yếm cổ xây, cổ nhọn như chữ V là yếm cổ xe, đáy chữ V khoét sâu hơn là yếm cổ nhạn. Trang trọng, nam giới cũng mặc yếm là nội y, trung y là áo trường vạt, hạ y là mã khố(馬袴)(quần dài đáy xẻ trước sau). Nếu mặc vạt áo dài che đi hạ bộ hoặc có giáp thì hạ y là độc tị côn (犢鼻褌)(quần ngắn xẻ 2 bên). Nếu là quân binh, xã viên thì hạ y là đậu khố (豆袴)(quần ngắn). Nếu là nông dân(đội xuân lôi tiểu lạp), ngư dân(đội ngư lạp), quân luyện tập binh khí(đội đinh tự cân huyền sắc), mã vệ quân, nghi trượng quân(đều đội trạo lạp đính hắc mao) có thể mặc khố(袴)(dải nhuyễn che hạ bộ như con lươn). Nữ giới mặc nội y là yếm, trung y là 1 đến 3 sắc áo bù long hoặc áo tràng vạt, hạ y là thường ngoại vi quần(váy đụp)trong. Nếu là trẻ nữ bần hàn, thị nữ thì mặc tiểu y(小衣)(váy ngắn). Nếu là nông dân,ngư dân mặc côn (裩)(váy được sắn cố định). Nếu là cô đầu, dật sinh(佾生), vũ nữ, kĩ sinh diễn trò Xuân phả thì mặc hoành lặc khố (横勒袴)(dải gấm thêu 7 sắc hoa văn chia nhiều thùy lưu quanh nhuyễn).

TRUNG QUỐC

Theo sử ký, yếm phát sinh từ thói quen ăn mặc của Dương quý phi nhà Đường[1], được gọi là Đỗ-đâu (肚兜, Belly wrap), Đâu-đỗ (兜肚, Wraps the belly), Đâu-đâu (兜兜, Wrappy, Little wrap). Tuy nhiên, các chứng tích khảo cổ đã xác thực thứ áo che xưa hơn của đàn bà thời Tần, gọi là Tiết-y (褻衣).

Vào thời Minh, các bé gái bắt đầu mặc yếm từ khi lên ba tuổi. Quanh áo thường buộc những túi nhỏ đựng gừng, xạ hương và các loại thảo mộc khác để điều hòa khí trong cơ thể. Thời này, yếm luôn được nhuộm đỏ với quan niệm xua đuổi tà ma của tín ngưỡng dân gian Trung Hoa. Nhưng sang thời Thanh, yếm lại thêm tác dụng ép cho phẳng ngực, vì thế luôn được may bó chặt lấy thân. Mãi đến năm 1927, mới có luật cấm lối cắt may đó sau nhiều thập kỷ tranh cãi gay gắt, một sắc lệnh được ban hành trước tiên tại Quảng Đông và từ đó nhân rộng ra toàn Hoa lục.

Hiện nay, yếm trở thành đối tượng ưu chuộng khai thác của ngành thời trang Tây phương, gồm các nhãn hiệu trứ danh như Versace[2], Versus[3], Miu Miu[4]. Xu hướng này thậm chí đã dội ngược vào xã hội Hoa lục, nhiều nhà thiết kế thời trang, gồm cả nữ minh tinh Chương Tử Di, đã kết hợp mặc yếm với quần áo thể thao[5][6]. Nhiều người Trung Hoa lão thành (đôi khi còn nghiêm khắc) đã kịch liệt phủ nhận sự cách tân đó[7][8].

NHẬT BẢN

Bé trai thường mặc yếm đào và đóng khố.Ví dụ trọng tích Momotaro(桃太郎)

Đặc trưng

Yếm là một miếng vải mỏng manh có khổ vuông, hai đầu nhọn đính dây để nẹp vào cổeo cốt che kín từ đến rốn, hở nách. Trẻ con khi mới sinh thường được mặc yếm đỏ để chúc phúc và tránh tà, khi đến tuổi trưởng thành thì chỉ nữ lưu còn dùng yếm.

Ngoại trừ màu chính hoàng là đặc quyền của hoàng đế, các màu khác tùy theo. phổ thông nữ giới ưa dùng các màu trắng, mỡ gà, điều, bã trầu, hoa cà, nâu, cũng có các màu nõn chuối, cánh trả, gốm nhưng hiếm hơn. Cứ theo thi phẩm Thập giới cô hồn quốc ngữ văn (十戒孤魂國語文) của tác giả Lê Thánh Tông, các hoa nương thường chuộng mặc "yếm chéo cánh, cạnh thêu", có màu "lục cổ vẹt, đỏ tiết dê, xống dang chân thắt đáy".Độc đáo nhất,Tiện phục của Mệnh phụ có trâm bướm yếm đào thêu hoa văn Kết hợp 3 sắc áo bổ long,vi quần và 2 sắc nhuyễn tạo nên bộ y phục đầy đủ ngũ hành,tạo vẻ kì lệ như hồ điệp tiên nữ.Đây có thể là bản y để tạo nên áo tứ thân Thời Nguyễn

Người phong lưu dùng yếm dệt từ lụa hoặc thổ cẩm, dân hạ lưu chọn các loại vải kém bền hơn như bông, tơ chuối. Mặt yếm có thể thêu hoa, bướm hoặc uyên ương, trường hợp đặc biệt hơn là con dơi (phúc), quả ổi (lộc), quả đào (thọ) hoặc các biểu hiện đạo đức.

Suốt thời Minh - Thanh, do các tiêu chuẩn đạo đức ngày càng bảo thủ nên yếm được tận dụng để ép phẳng ngực đàn bà; các nhà quyền quý thường may bằng chất liệu vải dày hoặc đồng, bạc, vàng, đôi khi còn đính thêm cườm hoặc kim tuyến. Ngoài ra, phần nách áo cũng được nới rộng để che kín hơn trước. Đến nay chỉ còn thứ yếm của người An Nam còn giữ được những nét nguyên thủy.

Nghệ thuật hóa

Nhất Nhị Tam Tứ
Chưa chồng nón thúng quai thao,
Chồng rồi nón rách quai nào thì quai.
Chưa chồng yếm thắm đeo hoa,
Chồng rồi hai vú bỏ ra tày giành.

Hỡi cô yếm thắm lòa lòa,
Sao cô không bảo mẹ già nhuộm thâm.
Ước gì anh được ở gần,
Để anh nhuộm hộ thấm nhuần công anh.

Cái cốc mày lặn ao chà,
Bay lên rủ cánh làm nhà chị nương.
Yếm thắm mà nhuộm hoa nương,
Cái răng hạt đỗ làm tương anh đồ.
Yếm thắm mà vã nước hồ,
Vã đi vã lại anh đồ yêu đương.

Đi đâu đào liễu một mình,
Hai vai gánh nặng nhật trình đường xa.
Áo sồng em để trong nhà,
Ba vuông nhiễu tím phất phơ đội đầu.
Yếm điều em hãy còn màu,
Răng đen da trắng, mái đầu còn xanh.
Ở vậy làm sao cho đành,
Sao không kiếm chốn, thế tình mỉa mai.
Chữ rằng: Xuân bất tái lai,
Sách có chữ rằng: Xuân bất tái lai.

Xem thêm

Tham khảo

  1. ^ “Lịch sử Đỗ Đâu”, Thời trang Trung Hoa.
  2. ^ “Spring 2000 Ready-to-Wear: Versace”, Vogue, 2000
  3. ^ “Spring 2000 Ready-to-Wear: Versus Versace”, Vogue, 2000
  4. ^ “Spring 2000 Ready-to-Wear: Miu Miu”, Vogue, 2000
  5. ^ Farrer, James; và đồng nghiệp (2015), Shanghai Nightscapes, Chicago: University of Chicago Press, tr. 198
  6. ^ Farrer, James (2002), Opening Up: Youth Sex Culture and Market Reform in Shanghai, Chicago: University of Chicago Press, tr. 311
  7. ^ Zhao Jianhua, The Chinese Fashion Industry: An Ethnographic Approach, London: Bloomsbury Academic, tr. 1 Đã bỏ qua tham số không rõ |authormask= (gợi ý |author-mask=) (trợ giúp).
  8. ^ Qiu Xiaolong (2009), The Mao Case, New York: Minotaur Books, tr. 2 Đã bỏ qua tham số không rõ |authormask= (gợi ý |author-mask=) (trợ giúp)