Khác biệt giữa bản sửa đổi của “BTR-152”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Hoangprs5 (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 33: Dòng 33:
10 mm mái
10 mm mái
4 mm bao quanh gầm và phần đáy ở đuôi xe
4 mm bao quanh gầm và phần đáy ở đuôi xe
|primary_armament= Súng máy [[SG-43|SGMB]] 7,62mm (1.250 viên đạn) hoặc [[DShK]] 12,7 mm (500 viên)
|primary_armament= Súng máy [[SG-43|SGMB]] 7,62mm (1.250 viên đạn) hoặc [[DShK]] 12,7 mm (500 viên)
|engine= ZIS-123 6 xi-lanh làm mát bằng nước (đối với các biến thể dựa trên ZIS-151) , ZIL-137K 6 xi-lanh (đối với các biến thể dựa trên ZIL-157)
|engine= ZIS-123 6 xi-lanh làm mát bằng nước (đối với các biến thể dựa trên ZIS-151), ZIL-137K 6 xi-lanh (đối với các biến thể dựa trên ZIL-157)
|engine_power=
|engine_power=
|pw_ratio= 11,1 mã lực / tấn (8,3 kW / tấn)
|pw_ratio= 11,1 mã lực / tấn (8,3 kW / tấn)
Dòng 44: Dòng 44:
|speed= 65 - 75 km/h
|speed= 65 - 75 km/h
}}
}}
'''BTR-152''' còn được gọi là BTR-140 là loại xe bọc thép chở quân ( không có khả năng đổ bộ và lội nước ) do [[Liên Xô]] chế tạo từ năm 1950 (BTR là viết tắt của Bronetransporter (БТР, Бронетранспортер, nghĩa là "bọc thép vận chuyển") , BTR-152 được phát triển và sử dụng song song với loại xe [[BTR-40]] của nhà thiết kế [[VA Dedkov]] dựa trên mẫu BTR-141 từ thế chiến thứ hai . Được đưa vào biên chế quân đội Xô Viết năm 1950 - 1991 , nó được dùng nhằm bổ sung cũng như thay thế cho những chiếc [[BTR-40]] . Sau năm 70 , các xe BTR-152 và [[BTR-40]] dần được thay thế bằng các xe [[BTR-60]] , [[BTR-70]] và [[BTR-80]] . Nó còn nằm trong biên quân đội [[Liên Xô]] - [[Nga]] đến năm 1993 . Các nước khu vực [[Châu Phi]] và các nước ở [[Châu Á]] thuộc khối [[xã hội chủ nghĩa]] cũng được Liên Xô cung cấp cho loại xe này và vẫn còn được quân đội nhiều nước trên thế giới sử dụng .
'''BTR-152''', còn được gọi là '''BTR-140''', là loại xe bọc thép chở quân (không có khả năng đổ bộ và lội nước) do [[Liên Xô]] chế tạo từ năm 1950. BTR-152 được phát triển và sử dụng song song với loại xe [[BTR-40]] của nhà thiết kế [[VA Dedkov]] dựa trên mẫu BTR-141 từ [[Thế chiến thứ hai]]. Được đưa vào biên chế [[Quân đội Xô Viết]] năm 1950 - 1991, nó được dùng nhằm bổ sung cũng như thay thế cho những chiếc [[BTR-40]]. Sau năm 1970, các xe BTR-152 và [[BTR-40]] dần được thay thế bằng các xe [[BTR-60]], [[BTR-70]] và [[BTR-80]]. Nó còn nằm trong biên quân đội [[Liên Xô]] - [[Nga]] đến năm 1993. Các nước khu vực [[Châu Phi]] và các nước ở [[Châu Á]] thuộc khối [[xã hội chủ nghĩa]] cũng được Liên Xô cung cấp cho loại xe này và vẫn còn được quân đội nhiều nước trên thế giới sử dụng.

== Lịch sử ==
== Lịch sử ==
{{see also|Xe bọc thép chở quân|Xe chiến đấu bộ binh}}
[[Xe tăng]] là phương tiện cần thiết trong chiến tranh cơ động vũ trang . Tuy nhiên , ngay khi đã có vũ khí mạnh , vỏ thép dày nhưng xe tăng cũng chịu nhiều thiệt hại từ các chiến thuật chống tăng của đối phương , đặc biệt là ở khu vực đô thị . Điều này đã làm cho mỗi trận chiến có tăng thì yêu cầu cần phải có bộ binh đi cùng nhằm vừa bảo vệ các chiến xa và phối hợp tấn công xe tăng của địch , chiến thuật hợp đồng tác chiến sẽ làm tăng hiệu quả chiến đấu hơn bao giờ hết .

Trong [[chiến tranh thế giới thứ hai]] , do tình hình chiến tranh ác liệt , các nước đã nghĩ tới một loại xe tương tư như xe tăng như nhỏ và nhẹ hơn dùng để chở quân vào các vùng chiến sự , bắt đầu từ đây khái niện [[Xe bọc thép chở quân]] (APC hay BTR) được phổ biến rộng rãi tuy sau chiến tranh thế giới thứ nhất , một ví dụ về xe chở quân là [[Mark I (xe tăng)|Mark V*]] (loại xe tăng của Anh có phòng nhỏ để chở quân) cũng đã hình thành . Xe nửa xích như [[M3]] của Mỹ và [[SdKfz 251]] của Đức đóng vai trò tương tự như các xe bọc thép chở quân được phát triển sau đó trở đi. Xe bọc thép chở quân hàng đầu trong thời gian này là Universal Carrier của Anh, cũng còn được biết với tên là Bren Carrier vì loại vũ khí mà nó được thiết kế để mang theo . Sau này một khái niệm nữa mang tên [[Xe chiến đấu bộ binh]] (infantry fighting vehicle IFV , véhicule de combat d'infanterie , Боевая машина пехоты ) cũng hình thành , nó như là sự kết hợp giữa xe thiết giáp và một phần của xe tăng . ''Xem thêm [[Xe bọc thép chở quân]] , [[Xe chiến đấu bộ binh]]'' .

Trong thế chiến thứ hai , loại xe bọc thép mà [[Liên Xô]] sử dụng là mẫu [[BTR-141]] và [[BT-7]] , sau này được làm mẫu cho loại [[BTR-40]] .


BTR-152 là một trong những xe thiết giáp bộ binh của [[Liên Xô]] đầu tiên sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc . Nó được phát triển từ tháng 11 năm 1946 tại nhà máy ZIS được thiết kế bởi [[BM Fitterman]] . Hai nguyên mẫu đầu tiên được hoàn thành tháng 5 năm 1947 . Chiếc xe đã được [[Hồng Quân|quân đội Liên Xô]] thông qua vào ngày 24 tháng 3 năm 1950 . Một số phiên bản nâng cấp được thiết kế bởi WF Rodionow và NI Orłow sau đó đưa vào sản xuất . Những nguyên mẫu BTR-152 gặp nhiều vấn đề khi bảo trì , sửa chữa như máicác vấn đề về di chuyển .
BTR-152 là một trong những xe thiết giáp bộ binh của [[Liên Xô]] đầu tiên sau khi [[Thế chiến thứ hai]] kết thúc. Nó được phát triển từ tháng 11 năm 1946 tại nhà máy ZIS được thiết kế bởi [[BM Fitterman]]. Hai nguyên mẫu đầu tiên được hoàn thành tháng 5 năm 1947. Chiếc xe đã được [[Hồng Quân|quân đội Liên Xô]] thông qua vào ngày [[24 tháng 3]] năm [[1950]]. Một số phiên bản nâng cấp được thiết kế bởi WF Rodionow và NI Orłow sau đó đưa vào sản xuất. Những nguyên mẫu BTR-152 gặp nhiều vấn đề khi bảo trì, sửa chữa như máybộ phận truyền động. Việc sản xuất BTR-152 ngừng lại vào năm 1962. Tổng cộng đã có 15.000 chiếc được sản xuất .


Việc sản xuất BTR-152 ngừng lại vào năm 1962 . tổng cộng đã có 15000 chiếc được sản xuất .
== Miêu tả ==
== Miêu tả ==
[[Tập tin:BTR-152-latrun-4.jpg|nhỏ|trái|200px|Mặt sau xe]]
[[Tập tin:BTR-152-latrun-4.jpg|nhỏ|trái|200px|Mặt sau xe]]
Xe BTR-152 được chế tạo dựa trên khung xe tải , có động cơ ở phía trước , khoang chở lính ở phía sau . Cấu trúc của xe là cấu trúc hàn thép . Kính chắn gió được bảo vệ bằng 2 tấm sắt , chúng có thanh đóng mở riêng . Khoang lái xe có 2 cửa mỗi bên cho lái xe . Trên nóc xe có 1 khoang nhỏ dành cho xạ thủ súng máy . Xe có các cửa quan sát phía trước , sau và hai bên giúp cho binh lính và lái xe có thể quan sát từ trong xe ra trận địa . Vỏ giáp xe có độ dày khoảng từ 15 - 9 mm , phần mỏng nhất là bao quanh gầm xe và đáy đuôi 4mm . Điều này làm xe dễ bị súng máy hạng nặng tấn công , có khi còn từ vũ khí bộ binh cá nhân .
Xe BTR-152 được chế tạo dựa trên khung xe tải, có động cơ ở phía trước, khoang chở lính ở phía sau. Cấu trúc của xe là cấu trúc hàn thép. Kính chắn gió được bảo vệ bằng 2 tấm sắt, chúng có thanh đóng mở riêng. Khoang lái xe có 2 cửa mỗi bên cho lái xe. Trên nóc xe có 1 khoang nhỏ dành cho xạ thủ súng máy. Xe có các cửa quan sát phía trước, sau và hai bên giúp cho binh lính và lái xe có thể quan sát từ trong xe ra trận địa. Vỏ giáp xe có độ dày khoảng từ 15 - 9 mm, phần mỏng nhất là bao quanh gầm xe và đáy đuôi 4mm. Điều này làm xe dễ bị súng máy hạng nặng tấn công, có khi còn từ vũ khí bộ binh cá nhân.


Xe chạy bằng 6 lốp , có bộ phận giảm xóc để giúp lái xe không bị mệt khi đi qua địa hình gồ ghề . Lốp xe dễ bị thủng do đạn bắn , do là loại xe bánh lốp nên BTR-152 hơi khó khăn khi đi qua các khu vực lầy lội . Mẫu BTR-152 V3 có cả thiết bị nhìn đêm .
Xe chạy bằng 6 lốp, có bộ phận giảm xóc để giúp lái xe không bị mệt khi đi qua địa hình gồ ghề. Lốp xe dễ bị thủng do đạn bắn, do là loại xe bánh lốp nên BTR-152 hơi khó khăn khi đi qua các khu vực lầy lội. Mẫu BTR-152 V3 có cả thiết bị nhìn đêm.


Xe có thể chở 1,9 tấn hàng hóa hoặc nửa trung đội . Lính trong xe có thể chiến đấu bằng súng cá nhân ra ngoài do họ có thể bắn qua các cửa quan sát . Binh sĩ có thể ra vào xe bằng cách leo qua nóc xe do xe không có mái . Những chiếc dùng để chở hàng hóa thì có một tấm bạt phủ lên trên thay cho nóc khi đi qua nơi có mưa hay tuyết , bão . Các mẫu BTR-152 thì thường không có mái , việc này rất nguy hiểm khi đi qua các vùng đô thị có nhiều nhà cao tầng , quân địch ở phía trên dễ dàng nã xuống hoặc xe có khả năng bị ném [[lựu đạn]] vào khoang chở quân . Chỉ có lái xe và xạ thủ súng máy là những người duy nhất được bảo vệ ở phía trên . Sau này , mẫu BTR-152K là mẫu duy nhất thuộc dòng BTR-152 là có mái trên bảo vệ lính trong khoang .
Xe có thể chở 1,9 tấn hàng hóa hoặc nửa trung đội. Lính trong xe có thể chiến đấu bằng súng cá nhân ra ngoài do họ có thể bắn qua các cửa quan sát. Binh sĩ có thể ra vào xe bằng cách leo qua nóc xe do xe không có mái. Những chiếc dùng để chở hàng hóa thì có một tấm bạt phủ lên trên thay cho nóc khi đi qua nơi có mưa hay tuyết, bão. Các mẫu BTR-152 thì thường không có mái, việc này rất nguy hiểm khi đi qua các vùng đô thị có nhiều nhà cao tầng, quân địch ở phía trên dễ dàng nã xuống hoặc xe có khả năng bị ném [[lựu đạn]] vào khoang chở quân. Chỉ có lái xe và xạ thủ súng máy là những người duy nhất được bảo vệ ở phía trên. Sau này, mẫu BTR-152K là mẫu duy nhất thuộc dòng BTR-152 là có mái trên bảo vệ lính trong khoang.


BTR-152 được trang bị 1 súng máy 7,62mm [[SG-43|SGMB]] , súng [[DShK]] 12,7mm hoặc súng phòng không 14,5mm hay 23mm .
BTR-152 được trang bị 1 súng máy 7,62mm [[SG-43|SGMB]], súng [[DShK]] 12,7mm hoặc súng phòng không 14,5mm hay 23mm.


Trước động cơ xe có các cửa mảnh nhằm bảo vệ động cơ trong quá trình di chuyển khỏi bị trúng đạn . Nhưng việc đóng cửa mảnh quá lâu dễ gay nóng động cơ làm lái xe phải chạy chậm lại . Đây là 1 điểm yếu của xe do bộ phận làm mát khó có thể đáp ứng nổi công việc .
Trước động cơ xe có các cửa mảnh nhằm bảo vệ động cơ trong quá trình di chuyển khỏi bị trúng đạn. Nhưng việc đóng cửa mảnh quá lâu dễ gây nóng động cơ làm lái xe phải chạy chậm lại. Đây là 1 điểm yếu của xe do bộ phận làm mát khó có thể đáp ứng nổi công việc.
[[Tập tin:BTR-152-latrun-1.jpg|nhỏ|phải|200px|Mặt trước xe]]
[[Tập tin:BTR-152-latrun-1.jpg|nhỏ|phải|200px|Mặt trước xe]]


Ngoài ra , BTR-152 còn gặp phải nhiều vấn đề khác như vấn đề về bảo trì , hoạt động qua nước , hoàn toàn không có khả năng đổ bộ hay lội nước , đội tin cậy thấp . Những nguyên nhân trên là do xe được phát triển từ 2 mẫu xe tải của [[Liên Xô]] là [[ZIS-151]] và [[ZIL-157]] . Sau này các mẫu [[BTR-60]] , [[BTR-70]] và [[BTR-80]] đã thay thế dần dần cho BTR-152 .
Ngoài ra, BTR-152 còn gặp phải nhiều vấn đề khác như vấn đề về bảo trì, hoạt động qua nước, hoàn toàn không có khả năng đổ bộ hay lội nước, độ tin cậy thấp. Những nguyên nhân trên là do xe được phát triển từ 2 mẫu xe tải của [[Liên Xô]] là [[ZIS-151]] và [[ZIL-157]]. Sau này các mẫu [[BTR-60]], [[BTR-70]] và [[BTR-80]] đã thay thế dần dần cho BTR-152 .


Độ tin cậy làm việc thấp, [[hệ số kỹ thuật]] không cao. Động cơ của xe là [[động cơ]] thế hệ cũ có công suất nhỏ, vỏ thép nặng, khiến công suất riêng của xe không cao. Hơn nữa, hệ thống lái cơ khí của xe không có trợ lực nên điều khiển rất khó khăn, ảnh hưởng đến khả năng cơ động.<ref>[http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-Quoc-phong/Quoc-phong-Viet-Nam-Tre-hoa-xe-thiet-giap-cho-quan-BTR152/173154.gd]</ref>
Độ tin cậy làm việc thấp, [[hệ số kỹ thuật]] không cao. Động cơ của xe là [[động cơ]] thế hệ cũ có công suất nhỏ, vỏ thép nặng, khiến công suất riêng của xe không cao. Hơn nữa, hệ thống lái cơ khí của xe không có trợ lực nên điều khiển rất khó khăn, ảnh hưởng đến khả năng cơ động.<ref>[http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-Quoc-phong/Quoc-phong-Viet-Nam-Tre-hoa-xe-thiet-giap-cho-quan-BTR152/173154.gd]</ref>
Dòng 76: Dòng 72:
== Lịch sử hoạt động ==
== Lịch sử hoạt động ==
[[Tập tin:Two Soviet-built BTR-152V2.JPEG|nhỏ|trái|200px|2 chiếc BTR-152V2 của [[Liên Xô]]]]
[[Tập tin:Two Soviet-built BTR-152V2.JPEG|nhỏ|trái|200px|2 chiếc BTR-152V2 của [[Liên Xô]]]]
BTR-152 bắt đầu hoạt động trong [[Hồng quân|quân đội Liên Xô]] từ ngày 24 tháng 3 năm 1950 và công khai xuất hiện trong 1 cuộc diễu hành tại [[Moskva]] năm 1951 . Nó được loại bỏ dần bằng những chiếc [[BTR-60]] bắt đầu từ năm 1970 . Nó còn hoạt động trong quân đội Xô Viết và sau đó là quân đội Nga đến năm 1993 trong cả các mục đích dân sự lẫn quân sự . BTR-152 được xuất khẩu đến những nước châu Phi và các đồng minh [[xã hội chủ nghĩa]] của Liên Xô cũ và hiện nay vẫn còn hoạt động tại nhiều nước .
BTR-152 bắt đầu hoạt động trong [[Hồng quân|quân đội Liên Xô]] từ ngày 24 tháng 3 năm 1950 và công khai xuất hiện trong 1 cuộc diễu hành tại [[Moskva]] năm 1951. Nó được loại bỏ dần bằng những chiếc [[BTR-60]] bắt đầu từ năm 1970. Nó còn hoạt động trong quân đội Xô Viết và sau đó là quân đội Nga đến năm 1993 trong cả các mục đích dân sự lẫn quân sự. BTR-152 được xuất khẩu đến những nước châu Phi và các đồng minh [[xã hội chủ nghĩa]] của Liên Xô cũ và hiện nay vẫn còn hoạt động tại nhiều nước .


BTR-152 được sử dụng trong cuộc [[Cách mạng Hungary 1956]] . Sau đó là ở [[Chiến tranh Sáu ngày|Cuộc chiến 6 ngày]] . Tại đây , [[Israel]] đã thu giữ hàng chục chiếc BTR-152 của [[Ai Cập]] và [[Syria]] . Nó cũng xuất hiện trong [[Cuộc xâm lược Tiệp Khắc năm 1968]] và [[Chiến tranh Việt Nam]] . [[Quân đội Nhân dân Việt Nam]] đã sử dụng BTR-152 là chiếc xe bọc thép chở quân chính trong thời kỳ chiến tranh .
BTR-152 được sử dụng trong cuộc [[Cách mạng Hungary 1956]]. Sau đó là ở [[Chiến tranh Sáu ngày|Cuộc chiến 6 ngày]]. Tại đây, [[Israel]] đã thu giữ hàng chục chiếc BTR-152 của [[Ai Cập]] và [[Syria]]. Nó cũng xuất hiện trong [[Cuộc xâm lược Tiệp Khắc năm 1968]] và [[Chiến tranh Việt Nam]]. [[Quân đội Nhân dân Việt Nam]] đã sử dụng BTR-152 là chiếc xe bọc thép chở quân chính trong thời kỳ chiến tranh .
== Biến thể ==
== Biến thể ==
[[Tập tin:Czerniaków BTR-152W.JPG|nhỏ|phải|200px|BTR-152 tại Warszawa , Ba Lan]]
[[Tập tin:Czerniaków BTR-152W.JPG|nhỏ|phải|200px|BTR-152 tại Warszawa, Ba Lan]]
=== Liên Xô cũ ===
=== Liên Xô cũ ===
'''BTR-152''' (năm 1950) - APC cơ bản dựa trên xe tải [[ZIL-151]] , nhiều trong số đó sau này sẽ được chuyển đổi cho các mục đích sử dụng khác, chẳng hạn như xe cứu thương , trạm phát thanh , và các phương tiện kỹ thuật khác . Loại BTR-152 cơ bản không có mái .
'''BTR-152''' (năm 1950) - mẫu cơ bản dựa trên xe tải [[ZIL-151]], nhiều trong số đó sau này sẽ được chuyển đổi cho các mục đích sử dụng khác, chẳng hạn như xe cứu thương, trạm phát thanh, và các phương tiện kỹ thuật khác. Loại BTR-152 cơ bản không có mái .


'''BTR-152A''' (1951) - BTR-152 được chuyển đổi thành một SPAAG (xe phòng không) trang bị một đôi [[ZPU-2]] hoặc loại 4 nòng [[ZPU-4]] , [[KPVT]] 14,5 mm súng máy phòng không hạng nặng (2400 viên) , điều khiển súng chỉ bởi một người lính duy nhất . Toàn bộ phi hành đoàn của chiếc xe bao gồm 10 binh sĩ , 5 được trang bị với ZPTU-2 và 5 binh sĩ được trang bị với ZPTU-4. Tháp pháo được đặt bên trong ngăn quân và có thể được vận hành bằng tay chỉ bởi một người . Nó có thể nâng từ -5 và 80 độ .
'''BTR-152A''' (1951) - được chuyển đổi thành một SPAAG (xe phòng không) trang bị một đôi [[ZPU-2]] hoặc loại 4 nòng [[ZPU-4]], [[KPVT]] 14,5 mm súng máy phòng không hạng nặng (2400 viên), điều khiển súng chỉ bởi một người lính duy nhất. Xe thể chở 10 binh sĩ, 5 được trang bị với ZPTU-2 và 5 binh sĩ được trang bị với ZPTU-4. Tháp pháo được đặt bên trong ngăn quân và có thể được vận hành bằng tay chỉ bởi một người. Nó có thể nâng từ -5 và 80 độ.


'''BTR-152''' chuyển đổi thành một xe thả mìn chống tăng .
'''BTR-152''' chuyển đổi thành một xe thả mìn chống tăng.


'''BTR-152B''' (1952) Xe chỉ huy pháo đoàn .
'''BTR-152B''' (1952) Xe chỉ huy pháo đoàn.


'''BTR-152C''' Xe thông tin .
'''BTR-152C''' Xe thông tin.


'''BTR-152V''' (1955) - Biến thể dựa trên xe tải [[ZIL-157]] với lốp xe bên ngoài hệ thống điều chỉnh áp lực , gắn các thiết bị nhìn ban đêm cho người lái xe .
'''BTR-152V''' (1955) - Biến thể dựa trên xe tải [[ZIL-157]] với lốp xe bên ngoài hệ thống điều chỉnh áp lực, gắn các thiết bị nhìn ban đêm cho người lái xe.


'''BTR-152D''' (1955) - Vũ khí như BTR-152A , nhưng dựa trên BTR-152V .
'''BTR-152D''' (1955) - Vũ khí như BTR-152A, nhưng dựa trên BTR-152V.


'''BTR-152I''' phiên bản BTR-152V cho chiếc xe chỉ huy pháo binh .
'''BTR-152I''' phiên bản BTR-152V cho chiếc xe chỉ huy pháo binh.


'''BTR-152S''' Xe thông tin kết hợp xe chỉ huy có lắp đặt mái dày và cao .
'''BTR-152S''' Xe thông tin kết hợp xe chỉ huy có lắp đặt mái dày và cao.


'''BTR-152V1''' (1957) Trang bị thiết bị nhìn đêm và tời ( thiết bị kéo ) , dùng như xe sửa chữa chiến trường .
'''BTR-152V1''' (1957) Trang bị thiết bị nhìn đêm và tời (thiết bị kéo), dùng như xe sửa chữa chiến trường.


'''BTR-152K''' (1959) - Lắp thêm mái thép ở ngăn quân , thêm cửa di chuyển ở bên phải . Hệ thống thông gió . Trọng lượng của chiếc xe đã tăng lên, phi hành đoàn đã đi xuống từ 2 + 18 xuống 2 + 13 .
'''BTR-152K''' (1959) - Lắp thêm mái thép ở ngăn quân, thêm cửa di chuyển ở bên phải. Hệ thống thông gió. Trọng lượng của chiếc xe đã tăng lên, phi hành đoàn đã đi xuống từ 2 + 18 xuống 2 + 13.


'''BTR-152K''' chuyển đổi thành xe cứu thương bọc thép .
'''BTR-152K''' chuyển đổi thành xe cứu thương bọc thép.


'''BTR-152E''' - Vũ khí BTR-152A , nhưng dựa trên BTR-152V1 .
'''BTR-152E''' - Vũ khí BTR-152A, nhưng dựa trên BTR-152V1.


'''BTR-152U''' - Xe chỉ huy dựa trên BTR-152V1 được trang bị với hệ thống lốp xe bên ngoài quy định áp lực . Chiếc xe chỉ huy có một mái nhà che phủ cao hơn đáng kể , radio và ăng-ten bổ sung .
'''BTR-152U''' - Xe chỉ huy dựa trên BTR-152V1 được trang bị với hệ thống lốp xe bên ngoài quy định áp lực. Chiếc xe chỉ huy có một mái nhà che phủ cao hơn đáng kể, radio và ăng-ten bổ sung.


'''BTR-152V2''' - BTR-152V phiên bản mà không có tời .
'''BTR-152V2''' - BTR-152V phiên bản mà không có tời.


'''BTR-152D''' dựa trên BTR-152V2 .
'''BTR-152D''' dựa trên BTR-152V2.


'''BTR-152B1''' (1958) - Xe chỉ huy pháo phiên bản với phía trước gắn trên tời , hộp chứa lốp xe và thiết bị nhìn ban đêm cho người lái xe.
'''BTR-152B1''' (1958) - Xe chỉ huy pháo phiên bản với phía trước gắn trên tời, hộp chứa lốp xe và thiết bị nhìn ban đêm cho người lái xe.


'''BTR-152V3''' - BTR-152V với tời trên mặt trước , lái xe có đèn hồng ngoại và hộp lốp .
'''BTR-152V3''' - BTR-152V với tời trên mặt trước, lái xe có đèn hồng ngoại và hộp lốp.


'''BTR-E152V''' (1957) - Phiên bản thử nghiệm .
'''BTR-E152V''' (1957) - Phiên bản thử nghiệm.


=== Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ===
=== Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ===
[[Tập tin:BTR-152-ARV-latrun-3.jpg|nhỏ|phải|200px|BTR-152 có tời ( cần trục kéo ) nhằm phục vụ sửa chữa kĩ thuật trên chiến trường]]
[[Tập tin:BTR-152-ARV-latrun-3.jpg|nhỏ|phải|200px|BTR-152 có tời (cần trục kéo) nhằm phục vụ sửa chữa kĩ thuật trên chiến trường]]
'''Type 56 (loại 56)''' Phiên bản sao chép của [[Trung Quốc]] .
'''Type 56 (loại 56)''' Phiên bản sao chép của [[Trung Quốc]].


=== Ai Cập ===
=== Ai Cập ===
[[Tập tin:BTR-152-latrun-3.jpg|nhỏ|trái|200px|BTR-152 trưng bày tại bảo tàng Yad la-Shiryon , [[Israel]]]]
[[Tập tin:BTR-152-latrun-3.jpg|nhỏ|trái|200px|BTR-152 trưng bày tại bảo tàng Yad la-Shiryon, [[Israel]]]]
'''BTR-152''' được chuyển đổi thành SPAAG với 4 súng phòng không [[DShK]] 12,7mm đặt tại ngăn quân , [[Ai Cập]] gọi nó là xe M58 . Ngừng hoạt động vào năm 1980 .
'''BTR-152''' được chuyển đổi thành SPAAG với 4 súng phòng không [[DShK]] 12,7mm đặt tại ngăn quân, [[Ai Cập]] gọi nó là xe M58. Ngừng hoạt động vào năm 1980.


=== Đông Đức cũ ===
=== Đông Đức cũ ===
'''SPW-152''' - Phiên bản BTR-152 của [[Đông Đức]]
'''SPW-152''' - Phiên bản BTR-152 của [[Đông Đức]]


'''SPW-152''' chuyển đổi thành xe cứu thương bọc thép .
'''SPW-152''' chuyển đổi thành xe cứu thương bọc thép.
'''SPW-152U''' - Phiên bản xe chỉ huy BTR-152 của [[Đông Đức]] .
'''SPW-152U''' - Phiên bản xe chỉ huy BTR-152 của [[Đông Đức]].


=== Israel ===
=== Israel ===
'''BTR-152''' Bắt được từ [[Syria]] , [[Ai Cập]] và được sửa đổi để đáp ứng nhu cầu cho [[quân đội Israel]] .
'''BTR-152''' Bắt được từ [[Syria]], [[Ai Cập]] và được sửa đổi để đáp ứng nhu cầu cho [[quân đội Israel]].


'''BTR-152 TCM-20''' Xe phòng không của Israel , được trang bị 1 pháo đôi [[TCM - 20]] 20mm .
'''BTR-152 TCM-20''' Xe phòng không của Israel, được trang bị 1 pháo đôi [[TCM - 20]] 20mm.


=== Liban ===
=== Liban ===
'''BTR-152''' Dành cho Dân quân [[Liban]] . Nó được trang bị với súng [[ZSU-23-2]] chống máy bay được đặt bên trong ngăn quân . Nó được sử dụng trong vai trò hỗ trợ hoả lực và chống máy bay .
'''BTR-152''' Dành cho Dân quân [[Liban]]. Nó được trang bị với súng [[ZSU-23-2]] chống máy bay được đặt bên trong ngăn quân. Nó được sử dụng trong vai trò hỗ trợ hoả lực và chống máy bay.


'''BTR-152''' Israel thu được từ [[Hezbollah]] . Nó được trang bị một cần trục bên trong . Một số bị Israel thu giữ trong cuộc [[Chiến tranh Liban 2006]] đang được trưng bày tại Bảo tàng Yad la-Shiryon , Israel .
'''BTR-152''' Israel thu được từ [[Hezbollah]]. Nó được trang bị một cần trục bên trong. Một số bị Israel thu giữ trong cuộc [[Chiến tranh Liban 2006]] đang được trưng bày tại Bảo tàng Yad la-Shiryon, Israel.


=== Ba Lan ===
=== Ba Lan ===
'''BTR-152''' chuyển đổi để phục vụ như là một xe chỉ huy di động. Nó có thêm radio .
'''BTR-152''' chuyển đổi để phục vụ như là một xe chỉ huy di động. Nó có thêm radio.


'''BTR-152''' chuyển đổi thành một phương tiện kỹ thuật .
'''BTR-152''' chuyển đổi thành một phương tiện kỹ thuật.


'''BTR-152''' chuyển đổi thành một máy kéo pháo binh bọc thép .
'''BTR-152''' chuyển đổi thành một máy kéo pháo binh bọc thép.


== Các quốc gia sử dụng ==
== Các quốc gia sử dụng ==
Dòng 170: Dòng 166:
{{flag|Cyprus}}
{{flag|Cyprus}}


{{flag|Ai Cập}} - Hiện còn 300 BTR-152 đang hoạt động . 675 BTR-152 mua từ [[Liên Xô]] và [[Tiệp Khắc]] . Ngoài ra , Ai Cập còn 120 BTR-152 chuyển đổi thành [[SPAAG]] nhưng ngừng phục vụ giữa những năm 1980.
{{flag|Ai Cập}} - Hiện còn 300 BTR-152 đang hoạt động. 675 BTR-152 mua từ [[Liên Xô]] và [[Tiệp Khắc]]. Ngoài ra, Ai Cập còn 120 BTR-152 chuyển đổi thành [[SPAAG]] nhưng ngừng phục vụ giữa những năm 1980.


{{flag|Equatorial Guinea}}
{{flag|Equatorial Guinea}}
Dòng 192: Dòng 188:
{{flag|Iran}}
{{flag|Iran}}


{{flag|Israel}} Thu được trong thời gian [[Chiến tranh Sáu ngày]] từ Ai Cập và Syria. Nó được sử dụng bởi quân đội Israel chủ yếu là trong vai trò vận chuyển vũ khí như TCM BTR-152-20 . Một số lượng nhỏ , phục vụ trong cảnh sát Israel .
{{flag|Israel}} Thu được trong thời gian [[Chiến tranh Sáu ngày]] từ Ai Cập và Syria. Nó được sử dụng bởi quân đội Israel chủ yếu là trong vai trò vận chuyển vũ khí như TCM BTR-152-20. Một số lượng nhỏ, phục vụ trong cảnh sát Israel.


{{flag|Lào}}
{{flag|Lào}}
Dòng 206: Dòng 202:
{{flag|Bắc Triều Tiên}}
{{flag|Bắc Triều Tiên}}


{{flag|Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa}} Loại 56
{{flag|Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa}} Loại 56


{{flag|Cộng hòa Congo}}
{{flag|Cộng hòa Congo}}


{{flag|Ba Lan}} - Được sử dụng bởi quân đội , nhưng thay thế bằng [[SKOT]] APC. Năm 1982 , Obywatelska Milicja (tổ chức dân quân tự vệ của [[Ba Lan]] đã nhận được 6 BTR-152V1 APC với các thiết bị đặc biệt từ Volkspolizei của Đông Đức . Một trong những chiếc xe vẫn được giữ trong lưu trữ trong lực lượng công an .
{{flag|Ba Lan}} - Được sử dụng bởi quân đội, nhưng thay thế bằng [[SKOT]] APC. Năm 1982, Obywatelska Milicja (tổ chức dân quân tự vệ của [[Ba Lan]] đã nhận được 6 BTR-152V1 APC với các thiết bị đặc biệt từ Volkspolizei của Đông Đức. Một trong những chiếc xe vẫn được giữ trong lưu trữ trong lực lượng công an.


{{flag|Somaliland}}
{{flag|Somaliland}}
Dòng 230: Dòng 226:
{{flag|Zimbabwe}}
{{flag|Zimbabwe}}


=== Các nhà sử dụng ===
=== Các quốc gia từng sử dụng trước đây===


{{flag|Bulgaria}} - Ngừng hoạt động trong những năm 1990 .
{{flag|Bulgaria}} - Ngừng hoạt động trong những năm 1990.


{{flag|Đông Đức}} - Chuyển giao lại cho nhà nước Đức thống nhất.
{{flag|Đông Đức}} - Chuyển giao lại cho nhà nước Đức thống nhất.
Dòng 244: Dòng 240:
{{flag|Nga}} - Loại bỏ trong năm 1991 - 1993
{{flag|Nga}} - Loại bỏ trong năm 1991 - 1993


{{flag|Liên Xô}} - Thông qua tiểu bang kế thừa .
{{flag|Liên Xô}} - Thông qua nước thành viên kế thừa.


{{flag|Đức}} - Lấy từ quân đội [[Cộng hòa Dân chủ Đức]] , tất cả được loại bỏ hoặc bán cho các quốc gia khác .
{{flag|Đức}} - Lấy từ quân đội [[Cộng hòa Dân chủ Đức]], tất cả được loại bỏ hoặc bán cho các quốc gia khác.


{{flag|Nam Tư}} - 40 , ngừng hoạt động trong năm 1970.
{{flag|Nam Tư}} - 40, ngừng hoạt động trong năm 1970.


=== Các lực lượng vũ trang và tổ chức chính trị ===
=== Các lực lượng vũ trang và tổ chức chính trị ===
Dòng 260: Dòng 256:
[[Lực lượng dân quân tự vệ Liban]]
[[Lực lượng dân quân tự vệ Liban]]


[[Obywatelska Milicja]] Tổ chức dân quân tự vệ của [[Ba Lan]] .
[[Obywatelska Milicja]] Tổ chức dân quân tự vệ của [[Ba Lan]].


== Các hình ảnh của BTR-152 tại bảo tàng Yad la-Shiryon , Israel ==
== Các hình ảnh của BTR-152 tại bảo tàng Yad la-Shiryon, Israel ==
<gallery perrow="3">
<gallery perrow="3">
Hình:BTR-152-batey-haosef-1.jpg
Hình:BTR-152-batey-haosef-1.jpg
Dòng 273: Dòng 269:


== Xem thêm ==
== Xem thêm ==

<references />
<references />


==Liên kết ngoài==
*http://giaoduc.net.vn/Quoc-te/Kham-pha-xe-boc-thep-cho-bo-binh-BTR152-cua-Viet-Nam/53604.gd
* [http://giaoduc.net.vn/Quoc-te/Kham-pha-xe-boc-thep-cho-bo-binh-BTR152-cua-Viet-Nam/53604.gd]

*http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-Quoc-phong/Anh-Xe-boc-thep-cho-bo-binh-BTR152-cua-Viet-Nam/53603.gd
* [http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-Quoc-phong/Anh-Xe-boc-thep-cho-bo-binh-BTR152-cua-Viet-Nam/53603.gd]

*http://giaoduc.net.vn/Tags/BTR-152.gd

*http://thanhhoafc.net/forum/showthread.php?t=7527&page=3

*http://hoangsa.org/forum/showthread.php?t=53861

*http://www.offroad.vn/Trong-nuoc_20/Tap-huan-nang-cap-xe-thiet-giap-BTR--152_435.aspx


{{commons|BTR-152}}
{{commons|BTR-152}}
Dòng 293: Dòng 280:


[[Thể loại:Xe bọc thép chở quân]]
[[Thể loại:Xe bọc thép chở quân]]


[[ar:بي تي أر-152]]
[[az:BTR-152]]
[[cs:BTR-152]]
[[de:BTR-152]]
[[es:BTR-152]]
[[fr:BTR-152]]
[[it:BTR-152]]
[[he:BTR-152]]
[[ka:БТР-152]]
[[ja:BTR-152]]
[[no:BTR-152]]
[[pl:BTR-152]]
[[ro:BTR-152]]
[[ru:БТР-152]]
[[fi:BTR-152]]
[[en:BTR-152]]

Phiên bản lúc 03:07, ngày 14 tháng 6 năm 2012

BTR-152
BTR-152 tại Israel
BTR-152 tại Israel
LoạiXe bọc thép chở quân
Nơi chế tạo Liên Xô
Lược sử hoạt động
Phục vụ24 tháng 3 năm 1950 – nay
Lược sử chế tạo
Người thiết kếBM Fitterman
Năm thiết kế1946 - 1949
Nhà sản xuấtNhà máy số 2 Zavod Imeni Stalina (1950 - 1956) Nhà máy số 2 Zavod Imeni Likhacheva (1956 - 1962)
Giai đoạn sản xuất1950 - 1962
Số lượng chế tạoKhoảng 15.000
Thông số
Khối lượng9,91 tấn
Chiều dài6,55 m ; 6,83 m cho BTR-152V
Chiều rộng2,32 m
Chiều cao2,04 m ; 2,36 m ; 2,41 m
Kíp chiến đấu2 lái xe + 18 lính

Phương tiện bọc thép15 mm phía trước

9 mm hai bên và phía sau 10 mm mái

4 mm bao quanh gầm và phần đáy ở đuôi xe
Vũ khí
chính
Súng máy SGMB 7,62mm (1.250 viên đạn) hoặc DShK 12,7 mm (500 viên)
Động cơZIS-123 6 xi-lanh làm mát bằng nước (đối với các biến thể dựa trên ZIS-151), ZIL-137K 6 xi-lanh (đối với các biến thể dựa trên ZIL-157)
Công suất/trọng lượng11,1 mã lực / tấn (8,3 kW / tấn) 10,8 mã lực / tấn (8,1 kW / tấn) đối với BTR-152V
Sức chứa nhiên liệu300 lít
Tầm hoạt động650 km
Tốc độ65 - 75 km/h

BTR-152, còn được gọi là BTR-140, là loại xe bọc thép chở quân (không có khả năng đổ bộ và lội nước) do Liên Xô chế tạo từ năm 1950. BTR-152 được phát triển và sử dụng song song với loại xe BTR-40 của nhà thiết kế VA Dedkov dựa trên mẫu BTR-141 từ Thế chiến thứ hai. Được đưa vào biên chế Quân đội Xô Viết năm 1950 - 1991, nó được dùng nhằm bổ sung cũng như thay thế cho những chiếc BTR-40. Sau năm 1970, các xe BTR-152 và BTR-40 dần được thay thế bằng các xe BTR-60, BTR-70BTR-80. Nó còn nằm trong biên quân đội Liên Xô - Nga đến năm 1993. Các nước khu vực Châu Phi và các nước ở Châu Á thuộc khối xã hội chủ nghĩa cũng được Liên Xô cung cấp cho loại xe này và vẫn còn được quân đội nhiều nước trên thế giới sử dụng.

Lịch sử

BTR-152 là một trong những xe thiết giáp bộ binh của Liên Xô đầu tiên sau khi Thế chiến thứ hai kết thúc. Nó được phát triển từ tháng 11 năm 1946 tại nhà máy ZIS được thiết kế bởi BM Fitterman. Hai nguyên mẫu đầu tiên được hoàn thành tháng 5 năm 1947. Chiếc xe đã được quân đội Liên Xô thông qua vào ngày 24 tháng 3 năm 1950. Một số phiên bản nâng cấp được thiết kế bởi WF Rodionow và NI Orłow sau đó đưa vào sản xuất. Những nguyên mẫu BTR-152 gặp nhiều vấn đề khi bảo trì, sửa chữa như máy và bộ phận truyền động. Việc sản xuất BTR-152 ngừng lại vào năm 1962. Tổng cộng đã có 15.000 chiếc được sản xuất .

Miêu tả

Mặt sau xe

Xe BTR-152 được chế tạo dựa trên khung xe tải, có động cơ ở phía trước, khoang chở lính ở phía sau. Cấu trúc của xe là cấu trúc hàn thép. Kính chắn gió được bảo vệ bằng 2 tấm sắt, chúng có thanh đóng mở riêng. Khoang lái xe có 2 cửa mỗi bên cho lái xe. Trên nóc xe có 1 khoang nhỏ dành cho xạ thủ súng máy. Xe có các cửa quan sát phía trước, sau và hai bên giúp cho binh lính và lái xe có thể quan sát từ trong xe ra trận địa. Vỏ giáp xe có độ dày khoảng từ 15 - 9 mm, phần mỏng nhất là bao quanh gầm xe và đáy đuôi 4mm. Điều này làm xe dễ bị súng máy hạng nặng tấn công, có khi còn từ vũ khí bộ binh cá nhân.

Xe chạy bằng 6 lốp, có bộ phận giảm xóc để giúp lái xe không bị mệt khi đi qua địa hình gồ ghề. Lốp xe dễ bị thủng do đạn bắn, do là loại xe bánh lốp nên BTR-152 hơi khó khăn khi đi qua các khu vực lầy lội. Mẫu BTR-152 V3 có cả thiết bị nhìn đêm.

Xe có thể chở 1,9 tấn hàng hóa hoặc nửa trung đội. Lính trong xe có thể chiến đấu bằng súng cá nhân ra ngoài do họ có thể bắn qua các cửa quan sát. Binh sĩ có thể ra vào xe bằng cách leo qua nóc xe do xe không có mái. Những chiếc dùng để chở hàng hóa thì có một tấm bạt phủ lên trên thay cho nóc khi đi qua nơi có mưa hay tuyết, bão. Các mẫu BTR-152 thì thường không có mái, việc này rất nguy hiểm khi đi qua các vùng đô thị có nhiều nhà cao tầng, quân địch ở phía trên dễ dàng nã xuống hoặc xe có khả năng bị ném lựu đạn vào khoang chở quân. Chỉ có lái xe và xạ thủ súng máy là những người duy nhất được bảo vệ ở phía trên. Sau này, mẫu BTR-152K là mẫu duy nhất thuộc dòng BTR-152 là có mái trên bảo vệ lính trong khoang.

BTR-152 được trang bị 1 súng máy 7,62mm SGMB, súng DShK 12,7mm hoặc súng phòng không 14,5mm hay 23mm.

Trước động cơ xe có các cửa mảnh nhằm bảo vệ động cơ trong quá trình di chuyển khỏi bị trúng đạn. Nhưng việc đóng cửa mảnh quá lâu dễ gây nóng động cơ làm lái xe phải chạy chậm lại. Đây là 1 điểm yếu của xe do bộ phận làm mát khó có thể đáp ứng nổi công việc.

Mặt trước xe

Ngoài ra, BTR-152 còn gặp phải nhiều vấn đề khác như vấn đề về bảo trì, hoạt động qua nước, hoàn toàn không có khả năng đổ bộ hay lội nước, độ tin cậy thấp. Những nguyên nhân trên là do xe được phát triển từ 2 mẫu xe tải của Liên XôZIS-151ZIL-157. Sau này các mẫu BTR-60, BTR-70BTR-80 đã thay thế dần dần cho BTR-152 .

Độ tin cậy làm việc thấp, hệ số kỹ thuật không cao. Động cơ của xe là động cơ thế hệ cũ có công suất nhỏ, vỏ thép nặng, khiến công suất riêng của xe không cao. Hơn nữa, hệ thống lái cơ khí của xe không có trợ lực nên điều khiển rất khó khăn, ảnh hưởng đến khả năng cơ động.[1]

Ngoài ra, khi vận hành, xe BTR-152 tiêu hao nhiên liệu lớn, khả năng bảo vệ kíp xe và bộ binh trên xe từ phía trên hạn chế vì xe không có mui thép. Xe cũng không có đầy đủ các thiết bị đèn báo xin đường, gương chiếu hậu… nên rất khó khăn trong di chuyển…[2]

Lịch sử hoạt động

2 chiếc BTR-152V2 của Liên Xô

BTR-152 bắt đầu hoạt động trong quân đội Liên Xô từ ngày 24 tháng 3 năm 1950 và công khai xuất hiện trong 1 cuộc diễu hành tại Moskva năm 1951. Nó được loại bỏ dần bằng những chiếc BTR-60 bắt đầu từ năm 1970. Nó còn hoạt động trong quân đội Xô Viết và sau đó là quân đội Nga đến năm 1993 trong cả các mục đích dân sự lẫn quân sự. BTR-152 được xuất khẩu đến những nước châu Phi và các đồng minh xã hội chủ nghĩa của Liên Xô cũ và hiện nay vẫn còn hoạt động tại nhiều nước .

BTR-152 được sử dụng trong cuộc Cách mạng Hungary 1956. Sau đó là ở Cuộc chiến 6 ngày. Tại đây, Israel đã thu giữ hàng chục chiếc BTR-152 của Ai CậpSyria. Nó cũng xuất hiện trong Cuộc xâm lược Tiệp Khắc năm 1968Chiến tranh Việt Nam. Quân đội Nhân dân Việt Nam đã sử dụng BTR-152 là chiếc xe bọc thép chở quân chính trong thời kỳ chiến tranh .

Biến thể

BTR-152 tại Warszawa, Ba Lan

Liên Xô cũ

BTR-152 (năm 1950) - mẫu cơ bản dựa trên xe tải ZIL-151, nhiều trong số đó sau này sẽ được chuyển đổi cho các mục đích sử dụng khác, chẳng hạn như xe cứu thương, trạm phát thanh, và các phương tiện kỹ thuật khác. Loại BTR-152 cơ bản không có mái .

BTR-152A (1951) - được chuyển đổi thành một SPAAG (xe phòng không) trang bị một đôi ZPU-2 hoặc loại 4 nòng ZPU-4, KPVT 14,5 mm súng máy phòng không hạng nặng (2400 viên), điều khiển súng chỉ bởi một người lính duy nhất. Xe có thể chở 10 binh sĩ, 5 được trang bị với ZPTU-2 và 5 binh sĩ được trang bị với ZPTU-4. Tháp pháo được đặt bên trong ngăn quân và có thể được vận hành bằng tay chỉ bởi một người. Nó có thể nâng từ -5 và 80 độ.

BTR-152 chuyển đổi thành một xe thả mìn chống tăng.

BTR-152B (1952) Xe chỉ huy pháo đoàn.

BTR-152C Xe thông tin.

BTR-152V (1955) - Biến thể dựa trên xe tải ZIL-157 với lốp xe bên ngoài hệ thống điều chỉnh áp lực, gắn các thiết bị nhìn ban đêm cho người lái xe.

BTR-152D (1955) - Vũ khí như BTR-152A, nhưng dựa trên BTR-152V.

BTR-152I phiên bản BTR-152V cho chiếc xe chỉ huy pháo binh.

BTR-152S Xe thông tin kết hợp xe chỉ huy có lắp đặt mái dày và cao.

BTR-152V1 (1957) Trang bị thiết bị nhìn đêm và tời (thiết bị kéo), dùng như xe sửa chữa chiến trường.

BTR-152K (1959) - Lắp thêm mái thép ở ngăn quân, thêm cửa di chuyển ở bên phải. Hệ thống thông gió. Trọng lượng của chiếc xe đã tăng lên, phi hành đoàn đã đi xuống từ 2 + 18 xuống 2 + 13.

BTR-152K chuyển đổi thành xe cứu thương bọc thép.

BTR-152E - Vũ khí BTR-152A, nhưng dựa trên BTR-152V1.

BTR-152U - Xe chỉ huy dựa trên BTR-152V1 được trang bị với hệ thống lốp xe bên ngoài quy định áp lực. Chiếc xe chỉ huy có một mái nhà che phủ cao hơn đáng kể, radio và ăng-ten bổ sung.

BTR-152V2 - BTR-152V phiên bản mà không có tời.

BTR-152D dựa trên BTR-152V2.

BTR-152B1 (1958) - Xe chỉ huy pháo phiên bản với phía trước gắn trên tời, hộp chứa lốp xe và thiết bị nhìn ban đêm cho người lái xe.

BTR-152V3 - BTR-152V với tời trên mặt trước, lái xe có đèn hồng ngoại và hộp lốp.

BTR-E152V (1957) - Phiên bản thử nghiệm.

Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa

BTR-152 có tời (cần trục kéo) nhằm phục vụ sửa chữa kĩ thuật trên chiến trường

Type 56 (loại 56) Phiên bản sao chép của Trung Quốc.

Ai Cập

BTR-152 trưng bày tại bảo tàng Yad la-Shiryon, Israel

BTR-152 được chuyển đổi thành SPAAG với 4 súng phòng không DShK 12,7mm đặt tại ngăn quân, Ai Cập gọi nó là xe M58. Ngừng hoạt động vào năm 1980.

Đông Đức cũ

SPW-152 - Phiên bản BTR-152 của Đông Đức

SPW-152 chuyển đổi thành xe cứu thương bọc thép.

SPW-152U - Phiên bản xe chỉ huy BTR-152 của Đông Đức.

Israel

BTR-152 Bắt được từ Syria, Ai Cập và được sửa đổi để đáp ứng nhu cầu cho quân đội Israel.

BTR-152 TCM-20 Xe phòng không của Israel, được trang bị 1 pháo đôi TCM - 20 20mm.

Liban

BTR-152 Dành cho Dân quân Liban. Nó được trang bị với súng ZSU-23-2 chống máy bay được đặt bên trong ngăn quân. Nó được sử dụng trong vai trò hỗ trợ hoả lực và chống máy bay.

BTR-152 Israel thu được từ Hezbollah. Nó được trang bị một cần trục bên trong. Một số bị Israel thu giữ trong cuộc Chiến tranh Liban 2006 đang được trưng bày tại Bảo tàng Yad la-Shiryon, Israel.

Ba Lan

BTR-152 chuyển đổi để phục vụ như là một xe chỉ huy di động. Nó có thêm radio.

BTR-152 chuyển đổi thành một phương tiện kỹ thuật.

BTR-152 chuyển đổi thành một máy kéo pháo binh bọc thép.

Các quốc gia sử dụng

Các quốc gia sử dụng BTR-152

Các quốc gia vẫn còn sử dụng

 Afghanistan

 Albania

 Algeria

 Angola

 Campuchia

 Cuba

 Cyprus

 Ai Cập - Hiện còn 300 BTR-152 đang hoạt động. 675 BTR-152 mua từ Liên XôTiệp Khắc. Ngoài ra, Ai Cập còn 120 BTR-152 chuyển đổi thành SPAAG nhưng ngừng phục vụ giữa những năm 1980.

 Equatorial Guinea

 Estonia - 5

 Ethiopia

 Georgia

 Guinea

 Guinea-Bissau

 Hungary

 Indonesia - Đã cho nghỉ hưu

 Ấn Độ

 Iran

 Israel Thu được trong thời gian Chiến tranh Sáu ngày từ Ai Cập và Syria. Nó được sử dụng bởi quân đội Israel chủ yếu là trong vai trò vận chuyển vũ khí như TCM BTR-152-20. Một số lượng nhỏ, phục vụ trong cảnh sát Israel.

 Lào

 Mali

 Mông Cổ

 Mozambique

 Nicaragua

 Bắc Triều Tiên

 Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Loại 56

 Cộng hòa Congo

 Ba Lan - Được sử dụng bởi quân đội, nhưng thay thế bằng SKOT APC. Năm 1982, Obywatelska Milicja (tổ chức dân quân tự vệ của Ba Lan đã nhận được 6 BTR-152V1 APC với các thiết bị đặc biệt từ Volkspolizei của Đông Đức. Một trong những chiếc xe vẫn được giữ trong lưu trữ trong lực lượng công an.

 Somaliland

 Seychelles

 Sri Lanka

 Sudan

 Syria

 Tanzania

 Việt Nam

 Yemen - 250

 Zimbabwe

Các quốc gia từng sử dụng trước đây

 Bulgaria - Ngừng hoạt động trong những năm 1990.

 Đông Đức - Chuyển giao lại cho nhà nước Đức thống nhất.

 Iraq - Tất cả bị phá hủy hoặc loại bỏ.

 Bắc Việt Nam Tiếp tục sử dụng trong Quân đội Nhân dân Việt Nam tại nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thống nhất

 Romania - Loại bỏ trong những năm 1990.

 Nga - Loại bỏ trong năm 1991 - 1993

 Liên Xô - Thông qua nước thành viên kế thừa.

 Đức - Lấy từ quân đội Cộng hòa Dân chủ Đức, tất cả được loại bỏ hoặc bán cho các quốc gia khác.

 Nam Tư - 40, ngừng hoạt động trong năm 1970.

Các lực lượng vũ trang và tổ chức chính trị

 Palestine Tổ chức Giải phóng Palestine PLO

Quân đội Nam Liban

Hezbollah

Lực lượng dân quân tự vệ Liban

Obywatelska Milicja Tổ chức dân quân tự vệ của Ba Lan.

Các hình ảnh của BTR-152 tại bảo tàng Yad la-Shiryon, Israel

Xem thêm

  1. ^ [1]
  2. ^ [2]

Liên kết ngoài