Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nghệ thuật Gothic”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
TjBot (thảo luận | đóng góp)
n r2.7.2) (Bot: Thêm stq:Gotik
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 20: Dòng 20:


Hội họa vào thời kỳ này chia làm 4 mảng: bích họa, tranh trên ván gỗ, kính màu và tranh trong các bản thảo. Bích họa vẫn được coi như một tư liệu hội họa chính trên tường nhà thờ cũng giống như truyền thống đạo Cơ-đốc và truyền thống Rôman. Ở phía Bắc, kính màu được ưa chuộng cho đến thế kỷ 15. Tranh trên ván gỗ bắt đầu ở Ý vào năm 1300 và lan rộng toàn Châu Âu, để rồi cho đến thế kỷ 15 đã hoàn toàn thế chỗ kính màu. Tranh trên các bản thảo được cho là sự lưu giữ hoàn hảo nhất của hội họa Gothic, tạo ra một phong cách lưu giữ ở một nơi mà không đài tưởng niệm nào có thể lưu giữ. Mảng tranh sơn dầu chưa bao giờ nổi trội cho đến thể kỷ 15 và 16, và trở thành dấu hiệu phân biệt hội họa thời kỳ Phục Hưng.
Hội họa vào thời kỳ này chia làm 4 mảng: bích họa, tranh trên ván gỗ, kính màu và tranh trong các bản thảo. Bích họa vẫn được coi như một tư liệu hội họa chính trên tường nhà thờ cũng giống như truyền thống đạo Cơ-đốc và truyền thống Rôman. Ở phía Bắc, kính màu được ưa chuộng cho đến thế kỷ 15. Tranh trên ván gỗ bắt đầu ở Ý vào năm 1300 và lan rộng toàn Châu Âu, để rồi cho đến thế kỷ 15 đã hoàn toàn thế chỗ kính màu. Tranh trên các bản thảo được cho là sự lưu giữ hoàn hảo nhất của hội họa Gothic, tạo ra một phong cách lưu giữ ở một nơi mà không đài tưởng niệm nào có thể lưu giữ. Mảng tranh sơn dầu chưa bao giờ nổi trội cho đến thể kỷ 15 và 16, và trở thành dấu hiệu phân biệt hội họa thời kỳ Phục Hưng.
===Bích Họa===

Bích họa vẫn tiếp tục được sử dụng như những bức tranh kể chuyện trên các bức tường trong nhà thờ ở Nam Âu được ví như một sự tiếp nối cho truyền thống đạo Cơ-đốc và Rôman. Những tàn tích đã đem lại cho Đan Mạch và một số nước Tây Âu một số lượng lớn những bức bích họa trên tường nhà thờ được vẽ theo phong cách Đoản Kinh, thông thường còn bao gồm cả kiến trúc mái vòm. Chúng gần như bị vôi vữa lấp lên sau cuộc cải cách tôn giáo ở Tây Âu thế kỷ 16. Một trong những ví dụ minh họa thiết thực nhất là những bức bích họa của ''Danish Elmelundemesteren'' trên đảo Møn ở Đan Mạch người đã trang trí cho các nhà thờ Fanefjord, Keldby hay Elmelunde.
==Chú thích==
==Chú thích==
{{reflist}}
{{reflist}}

Phiên bản lúc 16:38, ngày 5 tháng 8 năm 2012

Một cổng của Nhà thờ Đức Bà Chartres (khoảng năm 1145). Những bức tượng kiến trúc là những tác phẩm điêu khắc Gothic sớm nhất và là một cuộc cách mạng trong phong cách và khuôn mẫu cho cả một thế hệ các điêu khắc gia.
Gothic thời kỳ sau miêu tả tác phẩm Adoration of the Magi tại nhà thờ lớn Strasbourg.
Tác phẩm điêu khắc Gothic, cuối thế kỷ 15.

Nghệ thuật Gothic (tiếng Anh:Gothic art) là một phong trào nghệ thuật phát triển theo nghệ thuật RômanPháp vào thế kỷ 12, phát triển cùng lúc với kiến trúc Gothic. Nghệ thuật Gothic đã nhanh tróng lan rộng ra khắp Tây Âu, gần như toàn bộ phía bắc dãy núi Anpơ, nhưng lại không gây ảnh hưởng nhiều đến các phong cách cổ điển của Ý. Ở nhiều nơi, đặc biệt là Đức, nghệ thuật Gothic vẫn tiếp tục được sử dụng tại thế kỷ 16, trước khi sát nhập vào nghệ thuật Phục Hưng. Các thành phần chính trong nghệ thuật Gothic bao gồm điêu khắc, hội họa, thủy tinh vẽ, bích họa và trang trí bản thảo. Việc dễ dàng nhận ra sự thay đổi từ nghệ thuật Gothic đến nghệ thuật Phục Hưng hay ngược lại là đặc trưng được sử dụng để xác định rõ thời đại nghệ thuật này.

Những tác phẩm Gothic đầu tiên là những bức tượng điêu khắc, trên tường tại các tu viện hay các thánh đường. Các bức tượng của người đạo Cơ-đốc thường phản ánh các câu chuyện trong kinh thánh. Bức tượng đức mẹ Mary là một ví dụ điển hình, từ một bức tượng mang tính hình tượng đã chuyển sang một bức tượng mang rõ hình hài của một người mẹ nhân hậu, tay bồng đứa con và thể hiện sự trong sáng, tinh tế của người phụ nữ quý phái.

Ngữ nguyên học

Từ "Gothic" ban đầu có nghĩa là "man rợ" , thường được sử dụng để miệt thị. Các nhà phê bình cảm thấy thứ nghệ thuật thời trung cổ này rất thiếu tinh tế va khác với các nghệ thuật đương thời khác về tính hoa mỹ.[1] Các tác giả thời kỳ Phục Hưng cho rằng cuộc cướp phá ở Roma của bộ tộc Gothic vao năm 410 đã gây ra sự sụp đổ của thời kỳ cổ đại và tất cả những gì tinh túy nhất còn trong nó. Vào thế kỷ 15 rất nhiều các kiến trúc sư và nhà văn Ý phàn nàn về một nền nghệ thuật tràn xuống từ bắc dãy núi Anpơ, đe dọa cho sự hồi sinh của nền nghệ thuật cổ trong thời điểm đầu thời kỳ Phục Hưng.[2] Từ "Gothic" được sử dụng để chỉ loại nghệ thuật này lần đầu tiên là trong bức thư của Raffaello gửi đến Giáo hoàng Lêô X vào khoảng năm 1518 và được phổ biến bởi nhà văn, nghệ sĩ người Ý Giorgio Vasari[3] sử dụng vào những năm đầu 1530, vào thời điểm này thì người ta đang gọi nghệ thuật Gothic là "man rợ, hỗn loạn và quái dị".[4] "Nghệ thuật" Gothic đã bị phê bình bởi các nghệ sĩ người Pháp như Boileau, La Bruyère, Rousseau, trước khi nó được công nhận là một hình thức của nghệ thuật.[5] Lời phê bình nổi tiếng của Molière:

Hương vị u mê trên những tượng đài Gothic,
Con quái vật ghê tởm của thế kỷ dốt nát
Như thứ nước phun ra từ bọn man rợ.

Thời kỳ đầu, nghệ thuật Gothic được gọi là "tác phẩm của người Pháp" (Opus Francigenum), vì vậy xác định được sự tiên phong của nước Pháp trong việc tạo ra loại hình nghệ thuật này.[7]

Điêu khắc

Điêu khắc Gothic khởi nguồn trên những bức tường, vào giữa thế kỷ 12 ở Île-de-France, khi Abbot Suger xây tu viện ở St. Denis hiện nay là một xã thuộc bắc ngoại ô nước Pháp - vào khoảng năm 1140, được coi là tu viện mang phong cách Gothic đầu tiên, và không lâu sau đó là thánh đường Chartres vào khoảng năm 1145. Trước khi xây những công trình này, ở Île-de-France không hề có truyền thống điêu khắc nên thợ điêu khắc được thuê từ Burgundy.

Ý tưởng ở Pháp lan rộng. Ở Đức, từ năm 1225 ở thánh đường tại thành phố Bamberg trở đi, ta có thể thấy sự tác động ở khắp mọi nơi. Thánh đường Bamberg tập hợp rất nhiều những thợ điêu khắc ở thế kỷ 13, nhiều nhất là vào năm 1240 với tượng kỵ sĩ Bamberg, bức tượng cưỡi ngựa đầu tiên của văn hóa phương Tây từ thế kỷ thứ 6. Ở Anh thì hiếm hơn khi chỉ có trên mồ mả và đồ trang trí vặt. Ở Ý nghệ thuật cổ vẫn có ảnh hưởng lớn, nhưng nghệ thuật Gothic cũng đã xâm nhập vào những điều khắc trên bục giảng kinh ví dụ như ở giáo đường Baptistry và Siena. Và cuối cùng ở Ý, tuyệt tác điêu khắc Gothic nằm ở hàng loạt ngôi mộ Scaliger- gồm 5 đài tưởng niệm gia đình Scaliger - ở Verona( từ đầu đến hết thế kỷ 14 ).

Kiến trúc Gothic mở ra từ một phong cách cứng nhắc, không hoàn toàn giống phong cách Rôman, đến một cảm giác tự nhiên trong khoảng cuối thế kỷ 12 đến thế kỷ 13. Ảnh hưởng từ sự tồn tại của nghệ thuật điêu khắc Rôman và Hy Lạp để rồi kết hợp thành phương thuốc cho thuật khắc xếp nếp, sự biểu cảm và tư thế. Ở Bắc Châu Âu, một nhà điêu khắc tên là Claus Sluter cùng với những người thợ điêu khắc khác đã giới thiệu Chủ nghĩa Tự nhiên, và một nhóm người theo chủ nghĩa kinh điển tiếp tục phát triển để rồi đến khi phong cách Phục Hưng xuất hiện đã đánh dấu mộc cho sự thay đổi về cảnh quan và trang phục trong điêu khắc, giảm thiểu về sự phức tạp và kết cấu.

Hội họa của Gothic

Phong cách hội họa mà chúng ta gọi là "Gothic" chưa từng tồn tại cho đến năm 1200, hay 50 năm sau khi kiến trúc Gothic và điêu khắc Gothic ra đời. Sự giao thời giữa Rôman và Gothic rất mơ hồ, thiếu rõ ràng, những tác phẩm Gothic rất ít khi được giới thiệu trước khi có sự thay đổi đáng kể về dáng vẻ của nhân vật, kết cấu trong phong cách. Và rồi nhân vật trở nên sinh động hơn trong động tác, biểu cảm, có khuynh hướng tách rời cảnh vật, và được đặt tự do hơn trong bức ảnh. Sự chuyển giao này bắt đầu ở Anh và Pháp vào năm 1200, ở Đức vào năm 1220 và ở Ý vào năm 1300.

Hội họa vào thời kỳ này chia làm 4 mảng: bích họa, tranh trên ván gỗ, kính màu và tranh trong các bản thảo. Bích họa vẫn được coi như một tư liệu hội họa chính trên tường nhà thờ cũng giống như truyền thống đạo Cơ-đốc và truyền thống Rôman. Ở phía Bắc, kính màu được ưa chuộng cho đến thế kỷ 15. Tranh trên ván gỗ bắt đầu ở Ý vào năm 1300 và lan rộng toàn Châu Âu, để rồi cho đến thế kỷ 15 đã hoàn toàn thế chỗ kính màu. Tranh trên các bản thảo được cho là sự lưu giữ hoàn hảo nhất của hội họa Gothic, tạo ra một phong cách lưu giữ ở một nơi mà không đài tưởng niệm nào có thể lưu giữ. Mảng tranh sơn dầu chưa bao giờ nổi trội cho đến thể kỷ 15 và 16, và trở thành dấu hiệu phân biệt hội họa thời kỳ Phục Hưng.

Bích Họa

Bích họa vẫn tiếp tục được sử dụng như những bức tranh kể chuyện trên các bức tường trong nhà thờ ở Nam Âu được ví như một sự tiếp nối cho truyền thống đạo Cơ-đốc và Rôman. Những tàn tích đã đem lại cho Đan Mạch và một số nước Tây Âu một số lượng lớn những bức bích họa trên tường nhà thờ được vẽ theo phong cách Đoản Kinh, thông thường còn bao gồm cả kiến trúc mái vòm. Chúng gần như bị vôi vữa lấp lên sau cuộc cải cách tôn giáo ở Tây Âu thế kỷ 16. Một trong những ví dụ minh họa thiết thực nhất là những bức bích họa của Danish Elmelundemesteren trên đảo Møn ở Đan Mạch người đã trang trí cho các nhà thờ Fanefjord, Keldby hay Elmelunde.

Chú thích

  1. ^ History of Architecture Fiske Kimball, George Harold Edgell p.275 [1]
  2. ^ E. S. de Beer, Gothic: Origin and Diffusion of the Term; The Idea of Style in Architecture in Journal of the Warburg and Courtauld Institutes, Vol.11, 1948, pp.143-62
  3. ^ Vasari on technique p.135 [2]
  4. ^ The art of the sublime: principles of Christian art and architecture by Roger Homan p.70 [3]
  5. ^ History of Architecture Fiske Kimball, George Harold Edgell p.275 [4]
  6. ^ History of Architecture Fiske Kimball, George Harold Edgell p.275 [5]
  7. ^ History of Architecture Fiske Kimball, George Harold Edgell p.275 [6]