Đồng (họ)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Họ Đồng (同) là một họ của người Việt Nam.

Biểu tượng của dòng họ Đồng tại Việt Nam

Nguồn gốc họ Đồng Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]

Các triều đại phong kiến ở Việt Nam có dòng họ của nhà vua như họ Lý, họ Trần, họ Hồ, hay các họ khác như họ Vũ, họ Vi...đều truyền lại và lập gia phả từ đời Thượng tổ là có nguồn gốc họ từ Trung Quốc sang Việt Nam, vì vậy họ Đồng có nhánh nào Tiên tổ truyền lại là từ Trung Quốc thì cũng không lấy gì phải e ngại khi biết gia tộc họ Đồng có nguồn gốc dòng tộc từ phương Bắc di chuyến xuống Việt Nam nhiều đời nay. Hiện nay, nguồn gốc họ Đồng tại Việt Nam nói chung và nguồn gốc các nhánh, chi họ Đồng ở Việt Nam nói riêng vẫn là vấn đề mà các dòng họ, các nhà nghiên cứu tìm hiểu mà chưa có sự thống nhất. Về nguồn gốc họ Đồng (同) tại Việt Nam hiện nay có nhiều ý kiến, dữ kiện khác nhau:

Dữ kiện 1[1][sửa | sửa mã nguồn]

Theo sưu tầm của bà Đồng Thị Hồng Hoàn, bản dịch của tác giả Huỳnh Chương Hưng về bài viết Vì tránh họa mà đổi họ của hai tác giả nổi tiếng về nghiên cứu Văn hóa - lịch sử Trung Hoa là Trương Tráng Niên (张壮年) – Trương Dĩnh Chấn (张颖震) trong tạp chí "Sơn Đông hoạ báo xuất bản xã", năm 2005, có đoạn như sau:

Sử học gia nổi tiếng thời Tây HánTư Mã Thiên (司马迁) (145 TCN86 TCN) vì bị liên luỵ trong vụ án Lý Lăng (李陵) nên phải chịu cung hình.

Để bảo toàn gia tộc, phải báo quan là không có con trai nối dõi, vì thế 2 người con trai của ông buộc phải đổi họ. Người con trưởng là Tư Mã Lâm (司马临) từ họ phức là Tư Mã (司马) đã lấy chữ Mã (马) đồng thời thêm 2 chấm bên trái đổi thành họ Phùng (冯). Người con thứ là Tư Mã Quan (司马观) từ họ phức Tư Mã (司马) lấy chữ Tư (司) đồng thời thêm một nét sổ bên trái chữ Tư đổi thành họ Đồng (同), nhưng 2 dòng họ này vẫn nhớ đến dòng họ gốc Tư Mã (chữ Hán: 司马) của mình.

Hiện nay tại thôn Trại Từ Long Môn (寨徐龙门) thuộc Hàn Thành (韩城) Thiểm Tây (陕西) quê hương của Tư Mã Thiên tuy không còn họ Tư Mã, nhưng người họ Phùng (冯), họ Đồng (同) rất đông, họ đều là con cháu đời sau của Tư Mã Thiên. Cả ngàn năm nay, hai họ Phùng và Đồng vì cùng tế chung một ông tổ nên không bao giờ thông hôn, vì họ đều là người một nhà...."

Có ý kiến cho là: "Người con thứ của Tư Mã Thiên chạy nạn giặc Mông Cổ đến định cư tại đất Hải Dương". Ý kiến này có dẫn chứng thái hậu họ Tống chạy giặc được thờ dọc các tỉnh ven biển Việt Nam. Giả thuyết này cũng có điều phải suy nghĩ là: Vua Tống và Hoàng hậu nhà Tống mới là đối tượng truy tìm của giặc Mông Cổ, còn họ Tư Mã thời đó chỉ là dân thường, nếu giặc Mông cũng truy đuổi thì toàn dân Trung Quốc sẽ chạy đi đâu? Đó là chưa kể chuyện con Tư Mã Thiên sống trước thời Nguyên trên 1000 năm (145 – 86TCN). Dẫn chứng rất xàm chẳng liên quan nhưng vẫn phải ghi lại để hậu thế soi xét.

Vụ án Lý Lăng

Biên giới và các cuộc chiến Hán - Hung Nô

Vào thời nhà Hán đời vua Hán Vũ Đế (汉武帝) (156 TCN87 TCN) liên tục có xung đột với người Hung Nô ở mạn Bắc. Năm 111 TCN, Hán Vũ Đế quyết định 18 vạn quân Bắc tiến, gây sức ép với Hung Nô. Trong sự kiện Bắc tiến đó, Lý Quảng Lợi dẫn 30 vạn quân lên phía Bắc giao chiến với Hữu hiền vương của Hung NôKỳ Liên Sơn.

Một tướng khác tên Lý Lăng đã dẫn 5000 binh mã thiện xạ qua phía Bắc Cư Duyên chừng hơn nghìn dặm. "...Lý Lăng đã dẫn 5000 binh mã tiến sâu vào đất giặc, cự với hàng vạn hùng binh của chúng luôn 10 ngày, giết được vô số. Vua tôi giặc là Vu Thuyền hoảng sợ đã dốc hết kỵ mã cả nước bao vây. Lăng một mình chiến đấu ở ngoài nghìn dặm, cứu binh của Lý Quảng vì đố kỵ không tới, thất bại là hiển nhiên. Lý Lăng dù can trường nhưng đơn thương độc mã tác chiến, vì tên đạn hết, lương thảo kiệt, đường về bị cắt, người chết và người bị thương chất chồng, nhưng họ vẫn nghe lời hô hào của Lý Lăng, phấn chấn, vuốt máu mặt, anh dũng giơ nắm tay không xông vào quyết chiến. Thần cho rằng Lý Lăng rất xứng danh với các dũng tướng thời xưa. Tuy thất bại nhưng ông ta vẫn nuôi chí, mong có dịp báo đền ơn nước..."

Hán Vũ Đế cho rằng Tư Mã Thiên, qua việc bảo vệ Lý Lăng đã ngầm chê Lý Quảng Lợi (anh vợ của Vũ Đế), là nhút nhát. Đồng thời Lý phu nhân bênh cho Lý Quảng Lợi, yêu cầu nhà vua trị tội Tư Mã Thiên. Hán Vũ Đế sau đó đã hạ lệnh tống ngục Tư Mã Thiên, khép vào tội khi quân, giao cho Đỗ Chu xét xử và phạt cung hình.

Dữ kiện 2[2][sửa | sửa mã nguồn]

Gia phả họ Đồng, Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội hiện nay là gia phả cổ nhất còn tìm thấy được, được viết bằng chữ Hán năm 1628, bổ sung hoàn thành năm 1678, có ghi 1 đoạn nói về họ Đồng Mã (gốc họ Tư)[3] như sau:

"…同 族 世 譜. 序. 却 說, 家 之 有 譜,猶 国 之 百 史, 史 以 记 政 事 得 失,譜 以 记 世 次 先 後 甚 矣 譜 之 不 可 無 也 我 同 族 一 今 族 也.

相 傳 其 先 中 國 人 同 馬 氏 不 知 何 緣 故 一人 適 本 国 海 陽 鎮, 南 间 社 居 焉 司 字 加 一 畫 為 同 字,至 中 間 二 人 適 乂 安 縝 一 居 石 何 社 一 居 瓊 流 社, 厥 後 一 人適 居 清 化 鎮, 廣 昌 縣 芙 留 礼 名 同 如 鴻 景 興 稹 仕 至 郡 公 …"

Phiên âm:

"...Đồng tộc thế phả. Tựa: Khước thuyết, gia chi hữu phả, do quốc chi bách sử, sử dĩ ký chính sự đắc thất, phả dĩ ký chế thứ tiên hậu thậm hỹ phả chi bất khả vô dã ngã đồng tộc nhất kim tộc dã. Tương truyền kỳ tiên Trung Quốc nhân Đồng Mã thị bất tri hà duyên cố nhất nhập thích bản quốc, Hải Dương trấn, Nam Gián xã, cư yên Tư tự gia nhất họa vị Đồng tự. Chí trung gian nhị nhân thích Nghệ An trấn, nhất cư Thạch Hà xã, nhất cư Quỳnh Lưu xã, quyết hậu nhất nhân thích cư Thanh Hóa trấn, Quảng Xương huyện, phù lưu lễ danh Đồng Như Hồng thời Cảnh Hưng là Chí sỹ quận công..."

Tạm dịch:

"...Nhà có gia phả, còn nước thì có sử. Sử ghi lại các việc lớn của đất nước. Gia phả ghi từng đời theo trước sau. Gia phả không thể không ghi lại một cách rõ ràng cụ thể. Gia phả họ Đồng, tương truyền rằng trước đây Tổ tiên là người Trung Quốc - họ Đồng Mã, nhưng không truyền tại duyên cớ gì sang bản quốc cư trú tại xã Nam Gián[4], trấn Hải Dương; Họ là từ chữ Tư (司) rồi thêm một nét xổ thành chữ Đồng (同).

Thời gian sau, có 2 vị từ Hải Dương đến trấn Nghệ An[5], một người ở xã Thạch Hà, một người đến cư trú tại xã Quỳnh Lưu. Sau đó, một người đến cư trú ở Phù Lưu, huyện Quảng Xương, trấn Thanh Hóa, lấy danh là Đồng Như Hồng- vào triều Cảnh Hưng[6] (TK XVIII) là chí sỹ quận công..."

Như vậy, có thể khẳng định được họ Đồng ở Cổ Loa có nguồn gốc từ họ Tư Mã và Tổ họ Đồng Mã Việt Nam phát tích từ trấn Hải Dương (nay cụ thể là Triền Dương, Cổ Thành), Chí Linh), rồi hậu duệ các cụ đi các tỉnh như Hà Nội (Đông Anh), Thanh Hóa và các tỉnh khác.

Trước khi phát hiện về "Gia phả họ Đồng Cổ Loa, Đông Anh", thì theo nghiên cứu của TS. Đồng Xuân Thành và gia phả Gia tộc Đồng Xuân Phái ở Đông Anh Hà Nội, thì họ Đồng là gốc Tư Mã Lượng, sang Việt Nam từ thời nhà Tấn - lập nghiệp đầu tiên tại đất Tư Nông, (Thái Nguyên ngày nay), sau đó di chuyển xuống Đông Anh, Hà Nội, rồi xuống xứ Hải Dương vùng Chí Linh, Nam SáchKim Thành sau đó cứ ven biển ra đi lập nghiệp tại các địa phương vùng biển Việt Nam.[7]

Dữ kiện 3[sửa | sửa mã nguồn]

Thời nhà Tống, do bất mãn với triều đình, một trong những người của dòng họ Tư MãTư Mạnh Hoạch[8] làm quan trong triều đã trốn sang Đại Việt và đổi tên dòng họ “Tư” thành họ “Đồng” để tồn tại và phát triển đến ngày nay. Nhiều tài liệu còn cho biết thêm, gốc họ Đồng đầu tiên ở Việt Nam là ở Nam Định. Hiện nay, ở huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định có hàng nghìn hộ mang họ Đồng.

Dòng họ Đồng ở Trực Ninh, Nam Định tới nay khoảng 36 đời, có Gia phả rõ ràng. Nhánh họ Đồng ở Hải Dương được xác định chính xác có nguồn gốc tại Nam Định, tới nay cũng khoảng 18 đời. Như thế họ Đồng đã ở Việt Nam khoảng 700 trăm năm, tương ứng với triều đại nhà TrầnViệt Nam và ở Trung Quốc là nhà Tống đang bị Mông Cổ xâm lược sau thành nhà Nguyên.

Họ Đồng ở làng Thanh Cao, xã Thạch Khê, Thạch Hà, Hà Tĩnh có nguồn gốc từ Hải Dương. Theo gia phả họ Đồng chép năm Thành Thái thập tam niên chính nguyệt thập ngũ nhật (Thành Thái năm thứ 13, ngày 15 tháng giêng) chép: "Thuỷ tổ của họ Đồng thôn Thanh Cao, xã Thạch Khê, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh là Đồng Bồi hiệu là Cặp từ Hải Dương về xã Kiều Mộc, phủ Nghệ An. Mộ Đồng Bồi táng tại “xứ xứ thượng Trản Trản”."

Bản di thảo thứ 2 chép lại năm Bảo Đại thập lục niên chính nguyệt nhị thập nhật (Bảo đại năm thứ 16, ngày 20 tháng giêng) ghi rõ: "Đồng Sỹ Khôi tức Đồng Đại La ở phủ Trạch Nội, Hải Dương đến xã Kiều Mộc, phủ Nghệ An sinh ra Đồng Bồi, và cả hai bản đều xác nhận Đồng Bồi là thuỷ tổ của họ Đồng Kiều Mộc."

Dữ kiện 4[sửa | sửa mã nguồn]

Khi xác định họ Đồng Việt Nam bắt đầu từ Tư Mã Thiên thì việc có một người họ Đồng Trung Quốc đến Nam Gián, Hải Dương nhiều khả năng sẽ là dưới thời Sĩ Nhiếp, khi “danh sĩ nhà Hán sang nương nhờ có hàng trăm người“. Sĩ Nhiếp này là các thái thú châu mục Đặng Nhượng, Tích Quang của triều nhà Tân chống lại giặc Hán, chứ không phải Sĩ Nhiếp thời Tam quốc. Cuối thời nhà Tân, đám Lục Lâm thảo khấu (được gọi là Hán quân) nhân cơ hội Trung Hoa suy yếu sau cải cách của Vương Mãng đã cướp được chủ quyền Trung Hoa. Tiền nhân họ Phùng là Phàn Sùng đã tôn một người cháu của Lý BônLưu BangLưu Bồn Tử (Lý Bôn Tử) lên ngôi và phát động cuộc khởi nghĩa Xích My đánh dẹp quân Lục Lâm. Phàn Sùng chiếm được Trường An]] (kinh đô thời nhà Hiếu) nhưng sau đó bị thất bại bởi quân của Lưu Tú (Hán Quang Vũ). Trường An là nơi có nhà Tư Mã giờ đã đổi thành họ Đồng và họ Phùng. Trong khởi nghĩa của họ Phùng này hẳn con cháu Tư Mã Thiên họ Đồng đã tham gia. Họ Tư Mã vốn là những danh sĩ của nhà Hiếu, tiếp là triều nhà Tân của Vương Mãng, nên sau khi khởi nghĩa của họ Phùng (Phàn Sùng) thất bại hẳn người họ Đồng đã phải chạy giặc xuống phương Nam, nương nhờ các thái thú châu mục ở đây lúc này là Đặng NhượngTích Quang. Đặng Nhượng là người Việt quê ở Gia Lâm nên việc họ Đồng tới vùng Hải Dương rất liên quan đến thời điểm này.

Dữ kiện 5[sửa | sửa mã nguồn]

Tác giả Đồng Ngọc Hoa (Nam Định) cho rằng họ 同 sang Việt Nam sau đời Đường ở Trung Quốc. Sau khi có Tấu thư địa lý kiểu tự của Cao Biền báo cáo về với vua Đường là đất Hải Dương ở Việt nam có đến 183 huyệt chính và 483 huyệt bàng (huyệt phát vương, phát quan). Họ sang là để làm ăn sinh sống và phát triển chứ không phải sang vì chạy loạn.

Cũng như nhà Trần chọn đất Nam Định (nơi có nhiều huyệt phát vương phát quan chỉ sau Hải Dương) làm quê hương là vậy. Như vậy họ sẽ sang Việt Nam khoảng thời là thời đại Phật giáo phát triển đến đỉnh cao, đất nước hòa bình yên ổn, không có ngoại bang xâm lược. Nhà Trần cũng từ Trung Quốc sang Việt Nam vào thời Lý. Nhưng chắc sau họ 同.

Văn bia Minh dĩ ký sự: Từ đường họ Đồng thôn, Lạc Chính, xã Trực Khang, huyện Trực Ninh, Nam Định do nhà sử học Đồng Ngọc Hoa cung cấp:

"Họ Đồng về Nam Định từ năm 1532, hiện có 18 đời với khoảng trên 800 suất đinh. Từ đường thờ thủy tổ họ Đồng đã được xếp hạng di tích LSVH cấp tỉnh; văn bia có đoạn:
"Cổ chế dã: Diên Bình xã, Lạc Chính thôn, tính Đồng kỳ tiên Hải Dương Kinh Châu, Chí Linh nhân...",
"Phần văn tế: "Tiên tổ tích do đông hải, phái dẫn Nam Giang, mộc bản thủy nguyên...

Như vậy là Thủy Tổ họ Đồng ở Trực Khang cách đây gần 500 năm cũng đến từ Nam Giang, Chí Linh, Nam Sách, Hải Dương.

Dữ kiện 6[sửa | sửa mã nguồn]

Họ Đồng ở Hoa Động, Thủy Nguyên, Hải Phòng chép trong gia phả: Tổ là thị vệ Đại tướng quân, Ân quang hầu Đồng Tế Trị, có 13 đời Tổ khảo tự Quang Trung - thụy Lưu Phúc; thụy Phúc Hiền...

Văn bia ký phả tại từ đường họ Đồng thôn Thường Sơn, Thủy Đường, Thủy Nguyên ghi rằng cụ Tiên tổ quê quán và từng giữ chức tri huyện Triền Dương- Nam Gián, Chí Linh, Hải Dương. Vị Tổ họ Đồng ở Phù Liễn, Thủy Sơn, Thủy Nguyên và vị Tổ họ Đồng ở Thường Sơn, Thủy Nguyên là huynh đệ.

Họ Đồng ở Tân Yên, Bắc Giang các cụ có tên đệm Đồng Phúc như: Đồng Phúc Hiền; Đồng Phúc Huy và Đồng Phúc Quang

Họ Đồng ở Ô Mễ, Thái Bình có các cụ tổ thái Bình tên là Đồng Phúc Mẫn- Đồng Phúc An... Vậy các cụ ở đây trùng tên với các cụ Tổ Tân Yên, Bắc Giang, hay là một ???... điều này cần rất nhiều các nhà nghiên cứu sưu tầm thêm tài liệu thư tịch cổ, như: gia phả, văn bia, câu đối, sắc phong để chứng minh nguồn gốc, cội nguồn các chi họ...

Dữ kiện 7[sửa | sửa mã nguồn]

  • Gia phả và cụ trưởng tộc cho biết cụ Viễn tổ Ô Mễ về Thái Bình năm 1632 từ Thanh Hóa ra, nhưng trong câu đối thì Tổ lại ở núi Hồng Lĩnh, Nghệ An.
  • Gia phả họ Đồng ở Văn Thai, Quỳnh Lưu, Nghệ An có nhắc tới cụ Tổ Đồng Như Hồng của Cổ Loa, Đông Anh như sau:
"Quảng Xương huyện, Quảng Thắng xã, khởi tổ Lê triều Đồng Như Hồng Quận công đại tướng quân linh vị..."

Điều này trùng hợp với gia phả họ Đồng Cổ Loa, Đông Anh. Có thể suy ra họ Đồng ở Ô Mễ Thái Bình, và họ Đồng ở Văn Thai, Quỳnh Lưu Nghệ An có gốc cùng với họ Đồng Cổ Loa Đông Anh, và xa hơn là họ Đồng Hải Dương.

Dữ kiện 8[sửa | sửa mã nguồn]

Một dòng họ Tư Mã khác phải đổi họ là: Tư Mã Lượng (司馬亮) (mất 291) tên chữ Tử Dực (子翼), tước hiệu Nhữ Nam Văn Thành vương (汝南文成王), là con thứ tư của Tư Mã Ý, vào hàng chú Tấn Vũ Đế, ông Tấn Huệ Đế. Tư Mã Lượng từng có một thời gian ngắn làm nhiếp chính dưới triều Tấn Huệ Đế nhà Tấn. Lượng là vị vương đầu tiên trong tám vương tham gia vào loạn bát vương.

Mẹ Lượng là Phục phu nhân. Khi hai người anh trai là Tư Mã SưTư Mã Chiêu nắm quyền lực, ông chỉ giữ một chức quan hạng trung. Khi cháu ông là Tư Mã Viêm lên ngôi Hoàng đế, lập nhà Tây Tấn, kết thúc nhà Tào Ngụy, Tư Mã Lượng được phong làm Phù Phong Vương, chỉ huy quân đội ở Tần Châu (phía đông Cam Túc ngày nay) và Ung Châu (phía bắc và trung Thiểm Tây ngày nay). Trong những năm thời Tấn Vũ Đế, ông được biết đến với đức tính hiếu thảo của mình vì vậy ông được phép theo dõi và can ngăn các vương gia thậm chí hoàng đế lúc cần thiết.

Yu Province thời nhà Tấn, hậu Tam Quốc

Năm 277, Tấn Vũ Đế chuyển Tư Mã Lượng tới chỉ huy quân sự tỉnh Yu Pronvince (豫州, phía đông Hà Nam ngày nay) nhưng không lâu sau hoàng thượng lại đưa ông về kinh đô. Năm 289, Tấn Vũ Đế lâm bệnh nặng, triệu ông vào cung làm nhiếp chính cho Thái tử Tư Mã Trung. Năm 290, Tấn Vũ Đế băng hà, lệnh cho Tư Mã Lượng và Yang Jun (chưa rõ tên Tiếng Việt[1]) phò tá thái tử. Sau đó Tư Mã Lượng ám sát Yang Jun để một mình nắm quyền.

Sau đó năm 291, hoàng hậu Giả Nam Phong vợ Tư Mã Trung chuyên quyền muốn giết ngoại thích Dương Tuấn và gia đình ông này (bao gồm Thái hậu Dương thị) bèn cùng Đông An công Tư Mã Do và Nhữ Nam vương Tư Mã Lượng bàn mưu kết tội Dương Tuấn chuyên quyền.

Năm 292, Do và Lượng làm binh biến bắt giết cả nhà Dương Tuấn. Dương thái hậu là con Tuấn cũng bị kết tội, bị phế. Vợ Dương Tuấn, mẹ Dương thái hậu là Bàng thị cũng bị hành hình, dù Dương thái hậu nhẫn nhục viết thư xưng làm thần dân để mẹ được tha cũng không kết quả. Sau đó chính Dương thái hậu cũng bị kết tội chết.

Huệ đế ngơ ngác ngồi nhìn ông ngoại, bà ngoại và mẹ bị vợ hành hình. Giết được Dương Tuấn, Tư Mã Lượng và Tư Mã Do cầm quyền trong triều. Dần dần hai người sinh mâu thuẫn. Lượng sai người gièm pha Do với Giả hậu, Giả hậu bèn cách chức Do.

Lượng tiến cử Sở vương Tư Mã Vĩ (con thứ năm của Vũ đế, tức là em Huệ đế) cùng lão thần Vệ Quán thay chức của Do. Sau một thời gian, chính Vĩ lại lấn át quyền của Lượng. Lượng tức giận bàn mưu với Vệ Quán trừ Vĩ, nhưng việc bại lộ. Vĩ nói vu với Giả hậu rằng Quán và Lượng mưu phế Giả hậu. Giả hậu tức giận bèn sai Vĩ vây bắt, giết chết cả nhà Vệ Quán và Tư Mã Lượng, vì thế con cháu Tư Mã Lượng phải bỏ chạy và đổi họ tránh nạn.

Theo ông Đồng Văn Đạo[9] cho rằng "gốc gác từ 3 anh em Tư Mã Lượng do phe cánh bố bị thất thế trong cuộc tranh giành quyền lực ở triều đình mà con cái phải chạy trốn sang vùng núi huyện Tư NôngThái Nguyên từ thế kỷ thứ 9 sau công nguyên (Thời Bắc thuộc). Giả thuyết này cần phải suy nghĩ là: Loạn bát vương thời Tấn vào khoảng năm 397 vậy mà đến thế kỷ thứ 9, giả định năm đó là 807 (thuộc nhà Đường) thì khoảng cách 2 thời kỳ là 410 năm. Chuyện ân oán trong gia đình khi đã không còn quyền lực, trải qua 400 năm mà vẫn phải chạy sang Việt Nam, liệu có phải sự thật không? Họ Tư Mã ở Trung Quốc sẽ nghĩ gì khi ta công bố sự kiện này

Những dữ kiện khác[sửa | sửa mã nguồn]

Ở Việt Nam, họ Đồng Mã (同) chỉ xuất hiện ở sử sách Việt vào thế kỉ XIII, khi con cháu họ Đồng Mã Trung Quốc có thể đã chạy nạn khỏi cuộc xâm lược của Mông Cổ lên đất Trung Hoa, Thành Cát Tư Hãn và con cháu ông ta đã cho xâm lược nhà Kim từ 1211 đến 1234, nhà Tống từ 1235 đến 1279[10].

Với giả thuyết là tổ họ Đồng từ lãnh thổ nhà Tống chạy sang thì trùng hợp với khoảng thời điểm sụp đổ của triều Tống khi thất thủ vùng đất kinh đô Lâm An (Hàng Châu ngày nay), vùng đất Nam Sách Hải Dương lúc đó gần biển hơn nhiều so với bây giờ, có thể họ đã chạy theo đường biển, theo đường sông để vào vùng đất nêu trên. Để chạy trốn khỏi đất Tống để đến lãnh thổ Đại Việt triều Trần thì cũng cần phải có kinh tế, và theo một nhóm người chạy trốn khỏi đất Tống chiến loạn. Nói như vậy là có lý bởi vào thế kỷ 13, dưới thời nhà Trần, khi nhà Nguyên diệt Tống, một số kiều dân Trung Quốc tị nạn đã kéo sang Việt Nam, lập nên làng Hoa Dương (Xem Phố Hiến). Nên điều tra thêm về thông tin còn lại của những người đã đến làng Hoa Dương, phố Hiến sau này, thành phố Hưng Yên ngày nay. [[1]][[2]]


Tổ họ Đồng đã đến Việt Nam cư trú ở đất Nam Gián, Nam Sách – Triền Dương, sau là Cổ Thành - Nam Gián, Chí Linh, Nam Sách thời nhà Trần. Có thể căn cứ theo sách Trúc Lâm Chỉ Nguyên Thanh của Ngô Thì Nhậm, Danh nhân Yên Tử của Trần Chương, Phật giáo với văn hóa Việt Nam của Trần Đăng Duy, Cảm nhận đạo Phật của Đạo Kế Theo sách sử Phật giáo, sau vài người di cư sang xã Phù Vệ sinh ra cụ Đồng Thuần Mậu (cha Đồng Kiên Cương - Tổ Pháp Loa) tại thôn Cửu La, huyện Chí Linh, châu Nam Sách, lộ Lạng Giang nay là xã Ái Quốc, tỉnh Hải Dương, kết hôn với cụ bà Từ Cửu họ Vũ sinh được 8 người con gái, đến năm 1284 ông bà sinh được con trai Đồng Kiên Cương. Cụ Đồng Kiên Cương thành danh Pháp Loa- tu thiền Phật giáo.

Vào thế kỷ XV-XVI, có cuộc biến động chính trị lớn như Nam Bắc triều (xung đột nhà Mạc- nhà Hậu Lê) (1533-1592), người họ Đồng làm quan thì thường làm cho Hồ triềuMạc triều vì thế sau khi chính quyền nhà Mạc thất thế, bị Nhà Lê trung hưng truy đuổi, tàn sát...Để bảo tồn nòi giống, các vị Tổ tiên Đồng Mã có liên quan tới triều đình đều mai danh ẩn tích, phải dời đi lánh nạn ở Thanh Hóa, Nghệ An, Thái Bình, cùng các tỉnh lận cận Bắc Giang, Thái Nguyên, Hải Phòng… trong đó có cả Thăng Long, Hà Nội... tư liệu về dòng họ Đồng vì thế cũng thất lạc là điều dễ hiểu.

Thế kỷ XVII, XVIII lại xảy ra các cuộc xung đột Trịnh-Nguyễn chia ra Đàng Trong - Đàng Ngoài, các nhánh họ Đồng lại tiếp tục dời xuống Nam.

Hiện có rất nhiều ý kiến khác nhau rằng họ Đồng Việt Nam là gốc họ Tư Mã Thiên (司马迁) (145 TCN – 86 TCN)? Sang Việt Nam từ thời Tư Mã Lượng (司馬亮) (mất 291)? hay thời nhà Tống Tư Mã Quang (司马光) (1019–1086)???... Tuy nhiên Tư Mã Ý, Tư Mã Lượng hay Tư Mã Quang???... đều là con cháu của Tư Mã Thiên, vấn đề này cần tìm hiểu cho rõ ràng và cụ thể.

  • Gia phả họ Đồng ở Nghệ An chép rằng: "Thời Minh người họ Tư Mã di tản bằng đường thuyền sang Việt Nam, một ở Thanh Hóa, một ở Nghệ An, một ở Hải Dương" Giả thuyết này cũng có điều phải suy nghĩ là đối với nhà Minh có từ năm 1368 đến 1644 nhưng cụ Tổ sư Pháp loa Đồng Kiên Cương ở Hải Dương thì đã sinh 1284, tức là trước thời kỳ có nhà Minh 76 năm.
  • Theo Gia phả họ Đồng Đại Hợp, huyện Kiến Thụy: " Tổ tiên họ Đồng có nguồn gốc từ họ Tư ở Trung Quốc, vì thế có một nhánh nhỏ ở đây có người giỏi chữ Hán, sau khi đọc gia phả gốc, biết con cháu có gốc họ Tư, vì thế đã tự động làm giấy khai sinh và chuyển thành họ Tư được vài đời, tuy nhiên vào ngày giỗ Tổ ở Đại từ đường dòng họ Đồng, con cháu họ Tư- Đồng vẫn tham gia giỗ tổ dòng họ Đồng thôn Đại Lộc, xã Đại Hợp, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng.
  • Có ý kiến cho rằng: "Họ Tư Mã làm quan đô hộ ở Việt Nam, sau khi chế độ bị lật đổ, các cụ ở lại và chuyển sang thành họ Đồng".

Tôi đã lần tìm danh sách những quan cai trị người Trung Quốc ở Việt Nam thời Bắc thuộc từ năm 111TCN đến năm 905, không thấy ai là người họ Tư Mã cả, nhất là thời nhà Tấn (264-419) có 27 vị cai trị nhưng không có ai là họ Tư Mã.

  • Có ý kiến "Văn tế của họ Đồng ở Trực Khang có câu:

Tiên tổ tích do Đông Hải… và cho là Đông Hải thuộc Liên Vân Cảng, tỉnh Giang Tô, Trung Quốc. Giả thuyết này cần được nghiên cứu là ở Đông Hải, Giang Tô từ trước tới nay có họ Tư Mã và họ Đồng sinh sống không? Suy nghĩ của cá nhân tôi như sau: Chữ Đông Hải trong văn tế, phải chăng là chữ Hải Đông nói ngược không? Bởi theo quy luật bằng trắc trong văn tế, không thể viết "Tích do Hải Đông, phái dẫn Nam Giang". Trường hợp này trong văn tế và câu đối tôi đã gặp một số trường hợp, ví dụ câu đối ở Đình Hả, xã Tân Trung, huyện Tân Yên, Bắc Giang thờ Đề Nắm, trong đó một vế viết: "Miếu vũ trùng tu hương hỏa huy hoàng Giang Bắc Địa", đáng lẽ viết đúng là Bắc Giang địa, nhưng vì luật bằng trắc nên đã viết là Giang Bắc địa, cho nên theo tôi chữ Đông Hải trong văn tế, là "Hải đông" viết ngược là tỉnh Hải Dương cũ (thời Trần)

  • Gia phả họ Đồng ở làng Trà Đình, xã Quế Phú huyện Quế Sơn tỉnh Quảng Nam có đoạn viết "ngã môn Đồng phúc tộc, triệu tổ Đông Phước ninh công, danh tự Hồng thọ, tích Hải Dương, Dương tuyền bộ, văn lang quốc…" (dịch nghĩa: cụ Tổ Đồng Phước, Ninh tên tự là Hồng Thọ, gốc người tỉnh Hải Dương, bộ Dương tuyền nước Văn Lang).

Nếu tư liệu này là đúng thì họ Đồng có từ thời nước Văn Lang, tức là từ thời các vua Hùng, thuộc bộ Dương Tuyền là một trong 15 bộ của nước Văn Lang lúc đó. Đây cũng là một nguồn chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu.

  • Today, Sima is still the most common surname among the surnames, and it is widely distributed in Luoyang City , Yanshi City , and Wen County in Henan Province, Hancheng County in Shaanxi Province , Sushui County in Shanxi Province, and Susong County in Anhui Province . Xiangtan City , Xiangxiang City and Xiangyin City in Hunan Province, Lanling County in Shandong Province , Danyang City in Jiangsu Province, Zhiqian Town in Jintan City in Jiangsu Province, Jinsha County in Guizhou Province, Dashan Town in Panzhou City, Southwestern Guizhou Sanbanqiao Town, Pu'an Prefecture, Beijing, Shanghai, Tianjin, Hebei Province, Inner Mongolia Autonomous Region , Hong Kong, China, Taiwan, etc., are all distributed by the Sima clan. ([[3]]

Thống kê họ Đồng tại Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]

Tác giả Lê Trung Hoa trong cuốn " Họ và tên người Việt Nam", Hà Nội, Việt Nam: Nhà xuất bản Khoa học Xã hội 2005 - thì họ Nguyễn (38,41%); Trần (11%); Lê (9,5%); Phạm (7,1%); Huỳnh/Hoàng (5,1%); Phan (4,5%);Vũ/Võ (3,9%); Đặng (2,1%); Bùi (2%); Đỗ (7%); Hồ (1,3%); Ngô (1,3%); Dương (1%); Đồng (0,8%); Lý (0,5%) - Source (nguồn): Lê Trung Hoa (2005 - Social Sciences Publishing House).

Phân bố dòng họ Đồng tại Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]

Theo thống kê bước đầu, hiện có gần 170 nhánh họ Đồng tại Việt Nam, phân bố ở 25 tỉnh thành trong toàn quốc, nhưng tập trung đông đúc vào một số vùng đất ở các tỉnh phía Bắc và miền Trung như: Tỉnh Thái Nguyên, Bắc Giang, Hải Dương, Hải Phòng, Nam Định, Thái Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh…

Riêng Họ Đồng Hải Phòng mới tập hợp, khảo sát được 19 nhánh họ lớn. Theo thống kê ban đầu, tính đến nay số lượng người người họ Đồng Hải Phòng có trên 17.000, nhưng cũng có thể tới gần 2 vạn nhân khẩu (vì số liệu thống kê chưa nhất quán, đầy đủ và chính xác); phân bố như sau: huyện An Dương có hai nhánh; huyện An Lão có ba nhánh; quận Dương Kinh có hai nhánh; quận Kiến An có một nhánh; huyện Kiến Thụy có bốn nhánh; huyện Tiên Lãng có một nhánh; huyện Thủy Nguyên có bảy nhánh họ.

Một số chi họ nhỏ có nguồn gốc từ Hải Dương hoặc Nam Định về Hải Phòng lập nghiệp được mấy đời gần đây như: Chi nhánh 3 họ Đồng ở Tú Sơn, huyện Kiến Thụy; Chi nhánh 2 họ Đồng xã Tân Dân, huyện An Lão; Chi nhánh 2 họ Đồng Bá, xã Lê Lợi và chi nhánh họ Đồng xã Quỳnh Hoàng, huyện An Dương

Hiện nay có gia tộc ở 1 chi họ Đồng thuộc thôn Đại Lộc xã Đại Hợp, Kiến Thụy (gia đình cụ Tư Thiên Tá), do dòng họ có người giỏi chữ Hán (chữ Nho), khi đọc Gia phả của Tổ tiên để lại, thấy mình nguồn gốc họ Tư, vì thế các Cụ đã khuyến cáo cho con cháu đời sau đổi giấy khai sinh sang họ Tư, đến nay chi họ này đã mang họ Tư đã được mấy đời.

Theo nghiên cứu của TS. Đồng Xuân Thụ - Tổng biên tập Tạp chí Môi trường và Đô thị Việt Nam toàn tỉnh Bắc Giang có 8124 người họ Đồng (tính từ 14 tuổi trở lên) hiện sinh sống ở 193 xã, phường thuộc 10 huyện và thành phố trong đó:

1-Huyện Lạng Giang có 27 xã với 4430 người, trong đó nam có 1945 người

2-Huyện Hiệp Hòa có 25 xã với 1393 người, trong đó nam có 580 người

3-Huyện Tân Yên có 23 xã với 518 người, trong đó nam có 314 người

4-Huyện Lục Nam có 26 xã với 461 người, trong đó nam có 187 người

5-Huyện Lục Ngạn có 21 xã với 355 người, trong đó nam có 127 người

6-TP.Bắc Giang có 11 xã phường với 336 người, trong đó nam có 162 người

7-Huyện Yên Thế có 19 xã với 321 người, trong đó nam có 167 người

8-Huyện Yên Dũng có 16 xã với 304 người, trong đó nam có 142 người

9-Huyện Việt Yên có 15 xã với 63 người, trong đó nam có 21 người

10- Huyện Sơn Động có 14 xã với 43 người, trong đó nam có 17 người

Ở Việt Nam, có nhiều dòng họ Đồng không còn gia phả chữ Hán đối chứng, nên mới biết các nhánh họ Đồng Sỹ ở Huế, họ Đồng Lạng Sơn, họ Đồng Bắc Cạn mang họ Đồng (童). Theo nhà nghiên cứu Đồng Thị Hồng Hoàn: Ở Trung quốc và Việt Nam tồn tại hai nhánh họ Đồng có chữ Hán khác nhau, họ Đồng(童) ở Trung Quốc xếp thứ 142 [11] các dòng họ của Trung Quốc, nhưng ở Việt Nam lại khá ít họ Đồng này mà chủ yếu là họ Đồng (同) là một họ đông hơn của người Việt Nam.

Tuy nhiên, theo sách "Họ Đồng Việt Nam tập 1 " thì chưa có sơ sở để khẳng định Họ Đồng Việt Nam có nguồn gốc từ Trung Quốc. Chữ Tư thêm nét sổ thành chữ Đồng. Điều này chỉ có một số gia phả các nhánh họ Đồng truyền lại nhưng cũng chỉ có gần 400 năm nay.

Các hoạt động hiện nay của họ Đồng[sửa | sửa mã nguồn]

Viên thông bảo tháp - Ngôi mộ tháp của cụ Đồng Kiên Cương, sinh năm 1284 (tại chùa Thanh Mai, xã Hoàng Hoa Thám,Chí Linh, Hải Dương)
Đại hội tại đền Trình Đục Khê – 04.2019

Vào những năm cuối thập niên 80, họ Đồng tại Hải PhòngHải Dương đã có phong trào kết nối do sự khởi xướng của ông Đồng Chí Nam [12], cùng ông Đồng Tố Kim [13].

Đầu thập niên 90, các thành viên sáng lập đã thành lập Ban liên lạc họ Đồng Hải Dương và Hải Phòng (do ông Đồng Chí Nam là Trưởng Ban liên lạc và ông Đồng Tố Kim là Thư ký).

Các cuộc giao hiếu toàn quốc của ông Đồng Xuân Lợi (Cảng Hải Phòng) thuộc nhánh họ Đồng Hoa Động, Thủy Nguyên, Hải Phòng;

Sự nghiên cứu tìm hiểu dòng họ của ông Đồng Văn Đạo [14].

Tích cực tìm tòi nghiên cứu các Nhánh họ của TS. Đồng Xuân Thành [15].

Tìm về nguồn họ của ông Đồng Đạo Tuyết, thuộc nhánh họ Đồng Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội; Nhánh họ Đồng chùa Hương; họ Đồng Nam Định…; đã cùng thúc đẩy nhiều sự giao lưu, kết nối và nghiên cứu về nguồn gốc họ Đồng Việt Nam, trong đó có họ Đồng TP. Hải Phòng.

Ngày 20.04.2014, ông Đồng Xuân Lợi và bà Đồng Thị Hồng, cùng Ban Gia tộc họ Đồng thôn Thạch Lựu, xã An Thái, huyện An Lão đã tổ chức Hội nghị họ Đồng TP. Hải Phòng lần thứ nhất tại Từ đường họ Đồng xã An Thái, huyện An Lão.

Từ đó các hoạt động kết nối của họ Đồng Hải Phòng, Hà Nôi, Thái Nguyên, Bắc Giang, Hải Dương, Nam Định, Thái Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình… dưới sự chắp nối rất tích cực của TS. Đồng Xuân Thụ[16] đã hình thành Ban liên lạc họ Đồng Việt Nam, Ban Gia tộc dòng họ và các tỉnh, thành phố, nhiều Ban liên lạc, Hội nghị đã ra đời, các hoạt động diễn ra sôi nổi, lan tỏa, phát triển rộng khắp cả nước, có cả thành viên là bà con kiều bào nước ngoài.

Nhiều năm qua, cùng với nhiệt huyết của TS. Đồng Xuân Thành đã có nhiều công bố về nguồn gốc họ Đồng Việt Nam. Đặc biệt là mấy năm gần đây cùng với sự tâm huyết của bà Đồng Thị Hồng Hoàn, kết hợp với các nhà nghiên cứu chuyên nghiệp, điền dã, nhiều công bố tập hợp, thống kê, dịch thuật các thư tịch cổ (Văn bia; Phả tộc; Phú ý…) tìm hiểu về nguồn gốc và tư liệu giá trị về các Đồng tộc ở nhiều tỉnh, thành phố, địa phương ở Việt Nam được công bố, sáng tỏ các nhánh họ Đồng có tư liệu có giá trị.

-Ngày 26 tháng 4 năm 2015,tại Trường Cao đẳng nghề Cơ điện Hà Nội, Đại hội đại biểu toàn quốc Họ Đồng Việt Nam lần thứ nhất (Nhiệm kỳ 2015-2020) đã được tổ chức thành công tốt đẹp.

Tham dự Đại hội có Hòa thượng Thích Gia Quang, Phó Chủ tịch Hội đồng trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam; GS.TS.Trung tướng Đồng Minh Tại, nguyên Giám đốc Học viện Hậu cần, Bộ Quốc phòng -Trưởng ban liên lạc họ Đồng Việt Nam và gần 500 đại biểu gồm: Các ủy BCH lâm thời họ Đồng VN, những người họ Đồng Việt Nam tiêu biểu, thành đạt, các Doanh nhân họ Đồng VN và đại diện Hội đồng Gia tộc các nhánh họ Đồng trên toàn quốc.

-Ngày 09 tháng 4 năm 2016 (tức 3 tháng 3 Bính Thân) Lễ cầu Quốc thái dân an, cầu siêu, tưởng niệm 687 năm Thánh tổ Pháp Loa (Đồng Kiên Cương) nhập niếp bàn và gặp mặt họ Đồng toàn quốc lần thứ Nhất tại chùa Linh Thông,xã Tiên Dương; huyện Đông Anh, Hà Nội.Hòa thượng Thích Gia Quang - Phó Chủ tịch Hội đồng trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã tham dự, ủng hộ và hỗ trợ cả hai phần chính, đã để lại dấu ấn tốt đẹp, có sức hút gần 2.000 người họ Đồng đến dự. Lễ hội đầu tiên này cũng có sức hút ra ngoài tộc họ để rồi có" Bài ca họ Đồng Việt Nam" đầu tiên do nhạc sỹ,đại tá quân đội Lưu Ba sáng tác tặng bà con họ Đồng Việt Nam.

-Ngày 26 tháng 3 (tức 29 tháng 2 năm Đinh Dậu) tại thôn Văn Xá, Phường Ái Quốc, TP. Hải Dương, tỉnh Hải Dương, Ban liên lạc Họ Đồng Việt Nam phối hợp với Chùa Phúc Thắng long trọng tổ chức Lễ hội truyền thống cầu quốc thái dân an, tưởng niệm 687 năm Trúc lâm đệ nhị Tổ Pháp Loa niết bàn và tưởng nhớ Tổ tiên họ Đồng Việt Nam. Đến tham dự có Hòa thượng Thích Gia Quang, Phó Chủ tịch Hội đồng trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam; GS.TS.Trung tướng Đồng Minh Tại, nguyên Giám đốc Học viện Hậu cần, Bộ Quốc phòng -Trưởng ban liên lạc họ Đồng Việt Nam; Thượng tọa Thích Thanh Vân - Ủy viên HĐTS Giáo hội PGVN, Trưởng Ban trị sự Phật giáo tỉnh Hải Dương; đai diện cho chính quyền, đoàn thể TP.Hải Dương và phường Ái Quốc; đại diện Ban tôn giáo tỉnh Quảng Ninh; các chư tôn, đại đức, tăng ni, phật tử đến từ Chùa Ba Vàng, Chùa Hương Hải, Chùa Phúc Thắng...cùng với gần 3000 con cháu họ Đồng đến từ 152 nhánh, chi tộc họ Đồng trên toàn quốc

-Ngày 14-15.04.2018, Đại hội Đại biểu họ Đồng Hải Phòng lần thứ nhất được tổ chức vào và Lễ cầu Quốc thái dân an, cầu siêu, tưởng niệm 688 năm Thánh tổ Pháp Loa (Đồng Kiên Cương) nhập niếp bàn tại Chùa Linh, thôn Tú Đôi, xã Kiến Quốc, huyện Kiến Thụy, Hải Phòng. Tham dự có Hòa thượng Thích Gia Quang, Phó Chủ tịch Hội đồng trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam; GS.TS.Trung tướng Đồng Minh Tại, nguyên Giám đốc Học viện Hậu cần, Bộ Quốc phòng -Trưởng ban liên lạc họ Đồng Việt Nam và gần 4.000 người họ Đồng về tham dự.

-Năm 2018, Ban liên lạc họ Đồng Việt Nam đã phối hợp cùng với CLB Doanh nghiệp họ Đồng Hà Nội; BLL họ Đồng TP.HCM vận động xây dựng vườn tháp Pháp Loa Đồng Kiên Cương tại chùa Phúc Thắng, TP. Hải Dương với tổng số tiền là: 250.000.000 đồng.

Từ ngày 19 tháng 7 năm 2018 đến ngày 24 tháng 7 năm 2018, Ban liên lạc họ Đồng Việt Nam đã tổ chức đoàn gồm 20 người đi giao lưu, tìm hiểu và tri ân các anh hùng liệt sỹ nhân dịp 27.7 tại các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên với tên gọi "Họ Đồng Việt Nam: "Hành trình Kết nối họ Đồng miền Trung - Tây Nguyên". Các địa điểm đoàn đến thăm và giao lưu: Thừa Thiên Huế; Đà Nẵng; Quảng Nam; Quảng Ngãi; Bình Định và các tỉnh Tây Nguyên

Đoàn đi gồm: GS.TS.Trung tướng Đồng Minh Tại, Trưởng BLL; các Phó Trưởng Ban liên lạc: TS. Đồng Xuân Thành, doanh nhân Đồng Văn Bột; TS. Đồng Xuân Thụ, Tổng thư ký; doanh nhân Đồng Hoài Dương; các ông bà ủy viên: Đại tá Đồng Xuân Cần, Đồng Xuân Thọ, Đồng Quang Chính, cùng đại diện một số nhánh họ Đồng trên toàn quốc.

-Ngày 06.7.04.2019, Lễ cầu Quốc thái dân an, cầu siêu, tưởng niệm 689 năm Thánh tổ Pháp Loa (Đồng Kiên Cương) nhập niết bàn. Đại hội gặp mặt họ Đồng toàn quốc lần thứ 4 tại Đền Trình Đục Khê, xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, Hà Nội. Đã có hơn 5.000 bà con họ Đồng toàn quốc về dự.

-Ngày 21 và 22/03/2020; Họ Đồng Việt Nam sẽ tổ chức Lễ cầu Quốc thái dân an, cầu siêu, tưởng niệm 690 năm Thánh tổ Pháp Loa (Đồng Kiên Cương) nhập niết bàn và gặp mặt họ Đồng toàn quốc lần thứ 5 tại Thiền viện Trúc lâm Phương Nam,xã Mỹ Khánh, huyện Phong Điền, TP. Cần Thơ.

Những người họ Đồng Việt Nam nổi tiếng[sửa | sửa mã nguồn]

  • Đồng Đức Luận (1893) làm quan triều Nguyễn hàm Tứ phẩm;
  • Cụ Đồng Đức Nghĩa (1902) làm quan chức Thất phẩm;
  • Cụ Đồng Đức Lợi (1921) phó chủ tịch UB hành chính kháng chiến xã Đoàn Xá;
  • Cụ Đồng Đức Phương (1929) làm phó thống đốc ngân hàng Sài Gòn - chính quyền miền Nam VN;
  • Đồng Thiên Thạch (1950) Tổng giám đốc công ty xuất nhập khẩu Nông sản, bộ Nông nghiệp và phát triển Nông thôn;
  • TS Đồng Văn Quyền (1975) công tác tại Viện hàn lâm và công nghệ VN; Thạc sĩ Đồng Thị Hậu (1988) - Giảng viên trường Đại học Bách khoa...
  • TS Đồng Xuân Thụ, Tổng thư ký Ban liên lạc họ Đồng Việt Nam thống kê trong cuốn sách Họ Đồng Việt Nam (tập 1) xuất bản năm 2016:
  • Thiền sư Pháp Loa (1284-1330), tên thật là Đồng Kiên Cương, tổ thứ hai của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Ngài là người ấn hành Đại tạng kinh Việt Nam khoảng năm 1329 và đã để lại nhiều tác phẩm Thiền học và luận thuyết về các kinh Nhập Lăng-già, Diệu pháp liên hoa, Bát-nhã-ba-la-mật-đa...
  • Đồng Thức: Quê Phù Vệ, Chí Linh, Hải Dương (xưa là xã Phù Vệ, Chí Linh, phủ Nam Sách[17])đỗ khoa thi thái học sinh năm Quý Dậu 1393 đời vua Trần Thuận Tông làm quan Ngự sử Trung tán. Sau Đồng Thức, hay Ngụy Thức, là đại thần nhà Hồ.
  • Đồng Mặc, tướng nhà Hậu Trần, Người có công lấy lại Thanh Hóa.
  • Đồng Hãng: Triền Dương (Lý Dương), Nhân Huệ, Chí Linh, Hải Dương, đỗ đồng Hoàng giáp Tiến sĩ niên hiệu Quang Bảo 5, năm Kỷ Mùi- 1559, thời Mạc Tuyên Tông làm tới chức Thượng thư Bộ lại.
  • Đồng Đắc: Triền Dương (Lý Dương), Nhân Huệ, Chí Linh, Hải Dương đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ năm Sùng Khang 3, Mậu Thìn- 1568, đời vua Lê Anh Tông làm quan công khoa Đô cấp Sự trung.
  • Đồng Văn Giáo (1528): Triền Dương (Lý Dương), Nhân Huệ, Chí Linh, Hải Dương đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ năm Đinh Sửu 1577, đời vua Lê Thế Tông làm quan thừa Chánh sứ.
  • Đồng Hưng Tạo: An Xá (Tu Linh), Nhân Huệ, Chí Linh, Hải Dương đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ năm Bính Tuất, niên hiệu Đoan Thái 1- 1586 đời vua Lê Thế Tông làm quan Hiến sát sứ.
  • Đồng Tiến Triều: Xã Đại Hợp, huyện Kiến Thuỵ vào thế kỷ thứ XVI (1527-1592), làm quan tứ trụ Mạc triều, phụ trách bộ Lễ, cụ là Tiên tổ họ Đồng ở Đại Hợp, Kiến Thụy, tỉnh Hải Dương cũ[18]
  • Đồng Nhân Phái[19]: đỗ Đệ nhị Giáp Tiến sĩ năm Mậu Thìn, niên hiệu Vĩnh Tộ 10 (1628- thời Lê Trung hưng) quê xã Thiết Úng, huyện Đông Ngàn (nay thuộc xã Vân Hà huyện Đông Anh Tp. Hà Nội- ông là cụ tổ của một nhánh họ Đồng tại Đông Anh). Ông làm quan Hữu Thị lang Bộ Công. Sau khi mất, ông được triều đình phong tặng chức Thượng thư, đời vua Lê Thần Tông.
  • Đồng Tồn Trạch: Đỗ Tiến sĩ năm Bính Tuất 1646, đời vua Lê Chân Tông, làm quan tham tụng, hộ bộ thượng thư, ông lĩnh chức Nghĩa quận công; rồi chức tham tụng (tể tướng), ông rất liêm khết: sách "lịch triều hiến chương loạn chí" chép rằng: ‘‘Ông cầm quyền 9 năm nhà không có của để thừa, ai cũng khen là trong sạch".
Năm 1664, đời vua Lê Huyền Tông, ông được thăng làm Tả thị lang bộ Công.
Năm 1669, ông được chúa Trịnh Tạc thăng làm Đô ngự sử.
Năm 1673, đời Lê Gia Tông, ông làm Hữu thị bộ Hình.
Năm 1683, ông được thăng Thượng thư bộ Hộ, làm Tham tụng trong phủ chúa Trịnh Căn(Là chức quan cao nhất thời Lê Trịnh), tước Nghĩa Trạch hầu.
Ông mất năm 1692, và truy tặng là Thượng thư bộ Lại, Thái bảo, Nghĩa quận công.
Quê tại Triền Dương (Lý Dương), Lôi Dương (nay là Nam Gián - Triền Dương, Cổ Thành), huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, Việt Nam, là cháu nội ông Đồng Đắc[20] và có bác là Đồng Hãng.
Đồng Bỉnh Do (1647): Triền Dương-Lý Dương, Nhân Huệ, Chí Linh, Hải Dương đỗ Đệ tam đồng Tiến sĩ niên hiệu Chính Hòa, năm Tân Mùi (1691), đời vua Lê Huy Tông làm quan chức Tham chính, ông là cháu Đồng Nguyên, cháu họ Tằng tôn Đồng Đắc, con của Đồng Tồn Trạch.
  • Đồng Đăng Dần, đỗ Tiến sĩ, quê Nghi Sơn, Hà Tĩnh.
  • Đồng Công Viện: Hải Lãng, Ý Yên, Nam Định.Đỗ Tiến sĩ năm Giáp Thìn 1712, đời vua Lê Dụ Tông làm quan giám sát Ngự sử.
  • Đồng Hưu: Liên Hiệp, Hưng Hà, Thái Bình đỗ Tiến sĩ năm Giáp Thìn 1724, đời vua Lê Dụ Tông làm quan Tự khanh.
  • Đồng Doãn Giai: Hùng Sơn, Đại Từ, Thái Nguyên đỗ Tiến sĩ năm Bính Thìn 1736, đời vua Lê Ý Tông làm quan đốc tổng Lạng Sơn.
  • Đồng Như Hồng: được phong chức quận công thời Lê Trung Hưng (niên hiệu Cảnh Hưng- 1740 – 1786) (tổ họ Đồng Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội và Thanh Hóa).
  • Đồng Quang Riệp: Đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ Hình hiến sát Ngự sử cuối thế kỷ XVIII từng phụng mệnh Vua đi đánh quận He ở Đồ Sơn (Hải Phòng) (theo Gia phả họ Đồng Kim Đính, Hải Dương)?!!
  • Đồng Tế Trị: Thị vệ đại tướng quân Ân Quang Hầu, làm quan thời Lê Trung Hưng (Ghi tại Bài vị nhà thờ họ Đồng ở Hoa Động,Thủy Nguyên, Hải Phòng (Tiên tổ ông Đồng Xuân Lợi, ông Đồng Xuân Cần).
  • Đồng Đức Hữu: Tiểu Trà, Hưng Đạo, Dương Kinh, Hải Phòng (Anh hùng Liệt Sỹ- trong kháng chiến chống Pháp)
  • Đồng Quốc Bình: Kiến Thụy, Hải Phòng (Anh hùng liệt sĩ Hải Quân). Tên ông đã được đặt tên cho 1 Phường (Phường Đồng Quốc Bình) và một con đường của TP.Hải Phòng
  • Đồng Sĩ Bình: Thừa Thiên Huế. Ông là một nhà cách mạng Việt Nam.
  • Đồng Văn Cống: Tân Hào, Giồng Trôm, Bến Tre.Trung tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam.Phó Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam, kiêm Tư lệnh bộ đội Việt Nam ở khu Đông Bắc Campuchia (C40). Phó Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam. Sau 1975 là Phó Tư lệnh Quân khu 7.Phó Tổng thanh tra quân đội. Ông là đại biểu Quốc hội khóa VI.
  • Đồng Đại Lộc: Ngư Lộc, Hậu Lộc, Thanh Hóa, Phó Giáo sư.Tiến sĩ, Trung tướng, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục cảnh sát. Bộ Công an.
  • Đồng Minh Tại: Nghĩa Hoà, Lạng Giang, Bắc Giang. Giáo sư,Tiến sĩ,Trung tướng, NGUT.Nguyên Giám đốc Học viện Hậu cần, Bộ Quốc phòng
  • Đồng Khắc Hưng: Cao Nhuận,Vạn Thiện,Nông Cống Thanh hóa,Thầy thuốc nhân dân,Giáo sư,Tiến sĩ,Thiếu tướng.Phó giám đốc Học viện Quân y Bộ Quốc phòng.
  • Đồng Văn Sơn: Thái Bình.Thiếu tướng Công an.Cục trưởng Cục Kế hoạch- Đầu tư- Bộ công an
  • Đồng Minh Sơn: Duyên Yết,Hồng Thái,Phú Xuyên,Hà Nội. Nguyên Phó Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội.
  • Đồng Văn Thu: (Hòa thượng Thích Gia Quang).Ý Yên,Nam Định.Tiến sỹ.Phó Chủ tịch Hội đồng trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam
  • Đồng Xuân Thọ.Đức Thọ,Hà Tĩnh. Giáo sư,Tiến sỹ,Đại tá công an. Chủ nhiệm Khoa Trường ĐH Phòng cháy chữa cháy.Bộ công an.
  • Đồng Văn Hệ: Kim Thành,Hải Dương. Phó Giáo sư.Tiến sỹ.Phó Giám Bệnh viện Việt Đức
  • Đồng Thị Thanh Thu: Thừa Thiên Huế.Phó Giáo sư.Trường ĐHKH Tự nhiên TP.HCM
  • Đồng Thị Bích Thủy: Thừa Thiên Huế. Giáo sư, Tiến sỹ. Nguyên ĐBQH, nguyên Phó Hiệu trưởng Trường ĐHKH Tự nhiên,TPHCM
  • Đồng Thị Anh Đào: Giáo sư, Tiến sỹ, Khoa công nghệ thực phẩm Trường ĐHBK TP.HCM
  • Đồng Văn Quyền: Đại Lộc, Đại Hợp, Kiến Thụy, Hải Phòng. Phó Giáo sư, Tiến sỹ, Phó Viện trưởng Viện công nghệ sinh học, Viện hàn lâm KH Việt Nam
  • Đồng Kim Hạnh: Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội. Phó Giáo sư, Tiến sỹ Trường ĐH Thủy Lợi.
  • Đồng Xuân Thành: Nghĩa Sơn, Nghĩa Hưng, Nam Định, Tiến sĩ. Trường ĐH Công nghiệp TP.Hồ Chí Minh
  • Đồng Xuân Thụ: Tân Yên, Bắc Giang. Tiến sĩ Luật sư.Tổng biên tập Tạp chí Điện tử Môi trường và Đô thị Việt Nam.(www.moitruongvadothi.vn)
  • Đồng Tố Thanh: Chí Linh, Hải Dương, Tiến sĩ, Hiệu trưởng Trường cao đẳng cộng đồng Hải Phòng
  • Đồng Xuân Ninh: Thủy Nguyên, Hải Phòng. Tiến sĩ.Nguyên Trưởng khoa Trường ĐH kinh tế Quốc dân.
  • Đồng Văn Hướng: Trực Ninh, Nam Định, Tiến sĩ, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học GTVT TP.Hồ Chí Minh
  • Đồng Văn Thưởng: Gia Phú, Bình Dương, Gia Bình, Bắc Ninh, Tiến sỹ, Giảng viên Học viện Hậu cần, Bộ Quốc phòng
  • Đồng Thế Hiển: Khê Khẩu, Văn Đức, Chí Linh, Hải Dương, Tiến sỹ, Vụ An ninh Quốc phòng Bộ GDĐT
  • Đồng Sỹ Sằng: Thừa Thiên Huế, Tiến sỹ Bênh viện Trung ương Huế.
  • Đồng Văn Lâm: Châu Thành,Trà Vinh, Chủ tịch UBND tỉnh Trà Vinh.
  • Đồng Văn Thanh: Quê Cần Thơ, Phó Chủ tịch thường trực UBND tỉnh Hậu Giang
  • Đồng Thị Ánh: Giồng Trôm, Bến Tre, Nguyên Phó chánh án TAND TP. HCM, hiện là P. Chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam, Chủ tịch Hội Luật gia TP. HCM
  • Đồng Đức Bốn: Một cố nhà thơ quê ở Hải Phòng, rất nổi tiếng về làm thơ của Việt Nam
  • Đồng Đức Thành: Quê gốc Hà Nội, sinh ở Sài Gòn, Nghệ sĩ xuất sắc Liên đoàn Nhiếp ảnh nghệ thuật quốc tế (FIAP), Phó Chủ tịch thường trực Hội Nhiếp ảnh TPHCM, Ủy viên BCH, Phó Chủ tịch Hội đồng nghệ thuật, Phó Trưởng ban Lý luận – phê bình Hội Nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam.
  • Đồng Tuyết Thanh: Quê Liên Xương, Vụ Bản, Nam Định, Nghệ sĩ Ưu tú
  • Đồng Thu Hà: (Diễn viên Thu Hà), Quê Duyên Yết, Hồng Thái, Phú Xuyên, Hà Nội, Nhà hát kịch Hà Nội
  • Đồng Lan: Quê Đồng Gia, Kim Thành, Hải Dương, Ca sĩ nổi tiếng The Voice
  • Đồng Thanh Bình: Cát Bà, Hải Phòng. Diễn viên điện ảnh. Được giải Nam diễn viên xuất sắc tại Liên hoan phim lần thứ XV.
  • Đồng Văn Khuyên  : Trung Tướng quân đội VNCH trước 1975. Tổng cục trưởng tổng cục tiếp vận quân đội VNCH.

Lời ngỏ[sửa | sửa mã nguồn]

Theo TS. Đồng Xuân Thụ, Tổng biên tập TC Môi trường và Đô thị Việt Nam, Tổng Thư ký Ban liên lạc họ Đồng Việt Nam, từ hàng nghìn năm nay, do những đặc điểm lịch sử - văn hóa, các thế hệ bà con, anh em họ Đồng ở Việt Nam, dù có hay không mối quan hệ huyết thống trực hệ, dù chưa tìm ra nguồn gốc xuất xứ ban đầu, nhưng đã kề vai sát cánh cùng bách gia trăm họ trong toàn quốc để chung sức, chung tay trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của quốc gia dân tộc. Từ thời còn chế độ phong kiến, họ Đồng ở Việt Nam đã có nhiều người đỗ đạt và thành danh được ghi vào sử sách như: Thiền sư Pháp Loa (1284 - 1330), tên thật là Đồng Kiên Cương, tổ thứ hai của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử; Cụ Đồng Thức quê ở Phụ Vệ, Nam Sách, Hải Dương, đỗ khoa thi Thái học sinh năm Quý Dậu 1393 đời vua Trần Thuận Tông làm quan Ngự sử trung tán; Tướng Đồng Mặc ở Thanh Hóa, thời nhà Hậu Trần có công tham gia đánh đuổi giặc Minh; Cụ Đồng Hãng ở Triền Dương (Lý Dương), Nhân Huệ, Chí Linh, Hải Dương, đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ (Hoàng giáp) năm Kỷ Mùi 1559, thời Mạc Tuyên Tông, làm tới chức Thượng thư Bộ Lại; Cụ Đồng Đắc ở Triền Dương (Lý Dương), Nhân Huệ, Chí Linh, Hải Dương, đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ năm Mậu Thìn 1568, đời vua Lê Anh Tông, làm quan Công khoa Đô cấp sự trung; Cụ Đồng Văn Giáo (1528) ở Triền Dương (Lý Dương), Nhân Huệ, Chí Linh, Hải Dương, đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ năm Đinh Sửu 1577, đời vua Lê Thế Tông, làm quan Thừa chánh xứ; Cụ Đồng Hưng Tạo ở An Xá (Tu Linh), Nhân Huệ, Chí Linh, Hải Dương, đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ năm Bính Tuất 1586, đời vua Lê Thế Tông, làm quan Hiến sát xứ; Cụ Đồng Nhân Phái quê ở xã Vân Hà, huyện Đông Anh, Hà Nội, đỗ Đệ nhị giáp Tiến sỹ (Hoàng Giáp) năm Mậu Thìn 1628, được giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều vua Lê Thần Tông, cuối đời được triều đình phong tặng tước Lai Xuyên hầu; Cụ Đồng Tồn Trạch quê ở Triền Dương (Lý Dương), Nhân Huệ, Chí Linh, Hải Dương, đỗ Tiến sĩ năm Bính Tuất 1646, đời vua Lê Chân Tông, làm quan Thượng thư Bộ Hộ; Cụ Đồng Bỉnh Do (1647) quê ở Triền Dương (Lý Dương) Nhân Huệ, Chí Linh, Hải Dương, đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ năm Tân Mùi 1691, đời vua Lê Hy Tông, làm quan chức Tham chính; Cụ Đồng Công Viện ở Nghĩa Thái, Nghĩa Hưng, Nam Định, đỗ Tiến sĩ năm Nhâm Thìn 1712, đời vua Lê Dụ Tông, được phong chức quan Giám sát ngự sử; Cụ Đồng Hưu ở Liên Hiệp, Hưng Hà, Thái Bình, đỗ Tiến sĩ năm Giáp Thìn 1724, đời vua Lê Dụ Tông, làm quan Tự khanh; Cụ Đồng Doãn Giai ở Hùng Sơn, Đại Từ, Thái Nguyên, đỗ Tiến sĩ năm Bính Thìn 1736, đời vua Lê Ý Tông, làm quan Đốc đồng Lạng Sơn,… Trải qua các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, người họ Đồng đã động viên hàng nghìn con em mình xếp bút nghiên ra mặt trận, xông ra nơi đầu sóng ngọn gió, mặt đối mặt với quân thù, dũng cảm chiến đấu chia lửa với chiến trường, không quản hy sinh khi Tổ quốc cần, hàng trăm chiến sĩ người họ Đồng đã ngã xuống như Anh hùng liệt sỹ Hải quân, AHLLVTND Đồng Quốc Bình (người Kiến Thụy, Hải Phòng); nhà cách mạng Đồng Sĩ Bình (Thừa Thiên Huế)...hàng chục bà mẹ Việt Nam anh hùng, hàng nghìn sĩ quan chỉ huy các cấp người họ Đồng từ cấp tướng trở xuống đã từng chiến đấu anh dũng trên các chiến trường, trên mọi mặt trận để cùng quân dân cả nước đem lại hòa bình, độc lập, thống nhất cho dân tộc Việt Nam chúng ta.

Từ ngày hòa bình lập lại, nối tiếp truyền thống hiếu học của dân tộc, con em họ Đồng không ngừng phát triển, đã có năm người được phong hàm cấp tướng, 12 Giáo sư, Phó Giáo sư, 56 Tiến sỹ, hàng trăm Thạc sĩ. Trong đó có rất nhiều người thành đạt như:Trung tướng Đồng Văn Cống quê xã Tân Hào, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre, nguyên Phó Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam kiêm Tư lệnh bộ đội Việt Nam ở khu Đông Bắc Campuchia (C40), Phó Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam, sau năm 1975 là Phó Tư lệnh Quân khu 7, Phó Tổng thanh tra quân đội, là đại biểu Quốc hội khóa VI; Giáo sư, Tiến sĩ, Trung tướng Đồng Minh Tại quê ở Nghĩa Hoà, Lạng Giang, Bắc Giang, nguyên Giám đốc Học viện Hậu cần, Bộ Quốc phòng; Trung tướng, Tiến sĩ Đồng Đại Lộc quê ở Ngư Lộc, Hậu Lộc, Thanh Hóa, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục cảnh sát, Bộ Công an; Giáo sư,Tiến sỹ, Thiếu tướng Đồng Khắc Hưng quê ở Hải Dương, Phó Giám đốc Học viện Quân Y, Bộ Quốc phòng; PGS.TS Đồng Văn Hệ, quê Liên Hoà, Kim Thành, Hải Dương, Phó Giám đốc Bệnh viện Việt Đức; Thiếu tướng Đồng Văn Sơn quê ở Diêm Điền,Thái Thụy,Thái Bình, Cục trưởng Cục Kế hoạch - Đầu tư, Bộ Công an; Ông Đồng Văn Lâm ở Châu Thành, Trà Vinh -Chủ tịch UBND tỉnh Trà Vinh. Ông Đồng Văn Thanh,Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hậu Giang; Bà Đồng Thị Ánh quê ở Giồng Trôm, Bến Tre, nguyên Phó Chánh án TAND TP. HCM, Phó Chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam, Chủ tịch Hội Luật gia TP. HCM; Nhà thơ Đồng Đức Bốn; Nghệ sỹ nhiếp ảnh Đồng Đức Thành; Nghệ sỹ ưu tú Đồng Tuyết Thanh; Nghệ sỹ ưu tú Đồng Tường Thụ, Nghệ sỹ ưu tú Đồng Thu Hà; Nghệ sỹ ưu tú Đồng Thị Quế Anh, Ca sĩ Đồng Lan ở Hải Dương, là Ca sỹ nổi tiếng The Voice; Diễn viên Đồng Thanh Bình người Cát Bà, Hải Phòng, đã từng được giải Nam diễn viên xuất sắc tại Liên hoan phim lần thứ XV... Đồng thời, có khá nhiều con em họ Đồng đã và đang là những doanh nhân xuất sắc hoặc là những người nổi tiếng thành đạt trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ và văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao. Có thể rút ra một điểm chung là: người họ Đồng dù ở đâu, làm nghề gì cũng bộc lộ những tính cách Đồng rất rõ nét là:tự trọng, trách nhiệm, cương trực, giàu trí sáng tạo, dám nghĩ dám làm và đặc biệt: hết lòng vì lẽ phải,vì sự tiến bộ và công bằng xã hội. Tuy nhiên, lại là những người lúc nào cũng đau đáu nhớ đến ân đức tổ tiên, thành tâm cung kính nhớ về cội nguồn, sẵn sàng đóng góp công sức, tiền của, trí tuệ cho việc bảo tồn và phát huy những di sản của văn hóa dòng tộc, một bộ phận của di sản văn hóa dân tộc.

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Dịch từ nguyên tác Trung văn (VỊ TỊ HOẠ NHI XẢO CẢI TÍNH THỊ- 为避祸而巧改姓氏). Trong quyển: TRUNG QUỐC NHÂN DANH ĐÍCH CỐ SỰ(中国人名的故事)
    Tác giả: Trương Tráng Niên (张壮年)- Trương Dĩnh Chấn (张颖震). Sơn Đông hoạ báo xuất bản xã, 2005
    Nguồn: http://www.huynhchuonghung.com/2012/05/dich-thuat-vi-tranh-hoa-ma-oi-ho.html Lưu trữ 2014-07-14 tại Wayback Machine
  2. ^ Gia phả họ Đồng, Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội được sao lại vào năm Giáp Ngọ. Được cung cấp bởi Đồng Đạo Tuyết - GV ĐH Thủy Lợi
  3. ^ Gia phả viết theo lối thảo nên rất khó đọc, tác giả đã chế bản lại mặc dù một số chữ Nôm không có trong từ điển, phải thay chữ tương đương.
  4. ^ Theo sách Chí Linh Phong vật chí có chép đoạn liên quan đến địa danh xã Nam Gián xưa:
    "..."Tiếp cận nơi này, có chùa Sùng Nghiêm dựng ở địa phận xã Nam Gián. Thầy địa lý bảo đó là: "An Nam quý cục" nghĩa là: "thế đất quý báu của nước An Nam". Lấy xã Cổ Bi làm chi giữa, thành Thăng Long làm chi hữu, xã Nam Gián làm chi tả..."
    Chùa Sùng Nghiêm nay thuộc phường Phả Lại, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương.
  5. ^ Có thể dịch là Ngãi An hoặc Nghệ An, nhưng Ngãi An là nơi nào? Chỉ có trấn Nghệ An có địa danh Quỳnh Lưu và Thạch Hà?
  6. ^ Niên hiệu Cảnh Hưng đời vua Lê Hiển Tông: 1740 – 1786, cụ Đồng Như Hồng là cụ Tổ họ Đồng Thanh HóaCổ Loa, Đông Anh
  7. ^ Cần làm rõ TS. Đồng Xuân Thành lấy thông tin ở đâu để khẳng định như vậy
  8. ^ http://hodong.vn/15/377.html
  9. ^ Nguyên Chủ tịch UBND Huyện Tân Yên, Nguyên Ủy viên Thư ký kiêm Chánh Văn phòng Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Bắc
  10. ^ “Mongol invasion of China”. Truy cập 15 tháng 10 năm 2015.
  11. ^ Theo sách Bách gia tính
  12. ^ Nguyên Giám đốc Sở Xây dựng và Thương mại tỉnh Hải Dương (thuộc chi nhánh họ Đồng Kim Thành, Hải Dương)
  13. ^ nguyên Giám đốc Xí nghiệp Cây quả Côn Sơn, Chí Linh, Hải Dương (thuộc nhánh họ Đồng Phả Lại, Chí Linh, Hải Dương)
  14. ^ .Nguyên Chủ tịch huyện Tân Yên, tỉnh Hà Bắc, thuộc nhánh họ Đồng Làng Châu, xã Cao Xá, Tân Yên, Bắc Giang
  15. ^ .Nguyên Trưởng bộ môn Khoa Cơ Khí, Trường Đại học Công nghiệp TP.HCM, thuộc nhánh họ Đồng Nghĩa Thái, tỉnh Nam Định
  16. ^ Tổng biên tập Tạp chí Môi trường và Đô thị Việt Nam
  17. ^ Vào thời nhà Trần, Nam Sách là tên gọi của một xứ, bao gồm Chí Linh, Nam Sách, Thanh Hà và Tiên Lãng (Hải Phòng) ngày nay. Đến cuối thời nhà Trần, là tên gọi của một châu (Nam Sách châu) thuộc phủ Lạng Giang.
  18. ^ Theo cụ Đồng Văn Bẩm hậu duệ cụ Đồng Tiến Triều, có cụ Đồng Yên Tông về xã An Thái, An Lão lập ấp, cụ Bẩm kể rằng: hậu duệ chi An Thái, An Lão kể rằng theo tổ tiên về nhà cụ Chánh Thất (tức cụ Đồng Đức Nghĩa(1902) làm quan chức Thất phẩm) khi cúng giỗ; cũng nhánh họ Đồng Đại Hợp có cụ Đồng Pháp Tín về khu Tiểu Trà, Hưng Đạo, Kiến Thụy - nay thuộc quận Dương Kinh lập ra nhánh họ Đồng Dương Kinh; một nhánh họ Đồng Tiểu Trà lại về Mỹ Khê, Quán Trữ, Kiến An - và lập ra Tổ ở đây… vấn đề này cần được nghiên cứu và cân nhắc kỹ lưỡng, rất mong các Trưởng tộc họ và các cụ cao niên trong Tộc họ tham khảo, đặc biệt là các nhà chuyên môn, nghiên cứu tham gia, đóng góp và cho ý kiến). Sau khi nhà Mạc thất thủ, các cụ Tổ tiên họ Đồng ở Hải Phòng bị liên luỵ, vì thế các cụ phải mai danh ẩn tích, cho nên Đồng tộc phả ký Hải Phòng bị thất lạc.
  19. ^ Văn bia đề danh tiến sĩ khoa Mậu Thìn niên hiệu Vĩnh Tộ 10 (1628)- Bia dựng ngày 16 tháng 11 niên hiệu Thịnh Đức thứ 1 (1653) Hoàng Việt. Ghi danh Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân, 3 người: Dương Cảo (楊暠) người xã Hà Lỗ huyện Đông Ngàn; Đồng Nhân Phái (同仁派) người xã Thiết Ứng huyện Đông Ngàn. Nguyễn Duy Hiếu (阮惟曉) người xã Yên Lãng huyện Yên Lãng. Trích bia: Hoàng Việt muôn vạn năm, niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 10, năm Mậu Thìn, mùa xuân thi Hội các sĩ nhân. Các sĩ đại phu được chọn dự tuyển 18 người, chính là khoa thi thứ nhất đời Trung hưng vậy.
  20. ^ Có sách chép là cháu nội cụ Đồng Văn Giáo

Tài liệu dẫn và tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  • 1. Nguyễn Huy Đại và Nguyễn Thanh Giản dịch, sách "Chí Linh phong vật chí"- Ty VH Hải Hưng- Thư viện KH tổng hợp- 1976
  • 2. Nguyễn Phước Sơn dịch và chú- "Tam tổ thực lục" -Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành, 1995.
  • 3. Nguyễn Lang, "Việt Nam Phật giáo Sử Luận", Nhà Xuất Bản Lá Bối, 1974.
  • 4. Tăng Bá Hoành, Nguyễn Huy Thiêm, Nguyễn Thị Quế, Hà Trí-, sách "Tiến sĩ nho học Hải Dương 1075-1919"- Hội đồng chỉ đạo biên soạn Địa chí tỉnh Hải Dương, 1999.
  • 5. Gia phả họ Đồng Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội; Gia phả họ Đồng Văn Thái, Quỳnh Lưu; Văn bia họ Đồng Thường Sơn, Thủy Nguyên; Văn bia họ Đồng Trực Ninh, Nam Định….
  • 6. Sách Họ Đồng Việt Nam (Tập 1) xuất bản năm 2016. Nhà xuất bản Hồng Đức
  • 7. phóng sự: Tự hào dòng tộc họ Đồng Việt Nam[liên kết hỏng]