Đội tuyển bóng đá quốc gia Cộng đồng các Quốc gia Độc lập

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cộng đồng các quốc gia độc lập
Huy hiệu áo/huy hiệu Hiệp hội
Hiệp hộiHiệp hội các Liên đoàn bóng đá của CIS/SNG
Huấn luyện viên trưởngAnatoly Byshovets
Thi đấu nhiều nhấtDmitri Kharine (11)[1]
Ghi bàn nhiều nhấtSergei Kiriakov (4)
Sân nhàNhiều sân
Mã FIFACIS
Áo màu chính
Áo màu phụ
Trận quốc tế đầu tiên
Hoa Kỳ Hoa Kỳ 0–1 SNG
(Miami, Hoa Kỳ; 25 tháng 1 năm 1992)
Trận quốc tế cuối cùng

Scotland Scotland 3–0 SNG
(Norrköping, Thụy Điển; 18 tháng 6 năm 1992)
Trận thắng đậm nhất
El Salvador El Salvador 0–3 SNG
(San Salvador, El Salvador; 29 tháng 1 năm 1992)
Trận thua đậm nhất
México Mexico 4–0 SNG
(Thành phố México, México; 8 tháng 3 năm 1992)
Vô địch châu Âu
Sồ lần tham dự1 (Lần đầu vào năm 1992)
Kết quả tốt nhấtVòng 1, 1992

Đội tuyển bóng đá quốc gia Cộng đồng các quốc gia độc lập là một đội tuyển quốc gia tạm thời của Liên đoàn bóng đá Liên Xô năm 1992. Họ được chấp thuận là đội đại diện cho Cộng đồng các Quốc gia Độc lập (CIS hay SNG). Đội CIS/SNG được thành lập nằm trong một phần của sự chuyển giao đã được lên kế hoạch trước. Trước đó Đội tuyển quốc gia Liên Xô đã giành vé tham dự Euro 1992 qua vòng loại năm 1991, chỉ có một cách duy nhất để giữ suất của đội Xô Viết thi đấu tại giải đấu là có một đội thống nhất.

Kết thúc Euro 1992, đội bóng được chuyển giao thành Đội tuyển bóng đá quốc gia Nga.

Hoàn cảnh[sửa | sửa mã nguồn]

Quốc kỳ được sử dụng bởi đội CIS/SNG tại Euro 1992.

Với việc Liên Xô chính thức không còn tồn tại vào ngày 1 tháng 1 năm 1992, vì thế tất cả các tổ chức bao gồm cả liên đoàn bóng đá cũng dừng hoạt động. Hiệp hội các Liên đoàn bóng đá của CIS được thành lập ngày 11 tháng 1 năm 1992 và được FIFA chấp thuận hai ngày sau đó. Bản giao hưởng số 9 của Beethoven được chọn làm bài hát. Cùng với Hiệp hội, các liên đoàn quốc gia thành viên bắt đầu được quốc tế công nhận.

Đội tuyển bóng đá quốc gia CIS, trước đây được biết đến là Đội tuyển bóng đá quốc gia Liên Xô, tham dự Euro 1992 vào tháng 6 năm 1992. Họ ngừng hoạt động sau đó, tất cả kết quả thi đấu được chuyển giao cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Nga đội thi đấu trận đầu tiên vào tháng 8 năm 1992.

Đội tuyển bóng đá quốc gia CIS được dẫn dắt bởi Anatoly Byshovets. Đội không giành được kết quả như mong đợi tại Giải vô địch bóng đá châu Âu 1992, xếp cuối vòng bảng, nhưng cũng giành được hai trận hòa đáng chú ý với ĐứcHà Lan, trước khi thua 3–0 trước Scotland khiến họ bị loại.

Kết quả thi đấu tại Giải vô địch châu Âu[sửa | sửa mã nguồn]

Nắm Vòng Vị trí Tr T H B BT BB
Thụy Điển 1992 Vòng bảng thứ 8 3 0 2 1 1 4
Tổng cộng 1/1 thứ 8 3 0 2 1 1 4

Các liên đoàn quốc gia sau Xô Viết[sửa | sửa mã nguồn]

Các liên đoàn quốc gia của Hiệp hội CIS[sửa | sửa mã nguồn]

Armenia Armenia 18 tháng 1 năm 1992 Đội tuyển quốc gia UEFA
Azerbaijan Azerbaijan tháng 3 năm 1992 Đội tuyển quốc gia UEFA
Belarus Belarus 1989 Đội tuyển quốc gia UEFA
Gruzia Georgia 15 tháng 2 năm 1936 Đội tuyển quốc gia UEFA
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Kazakhstan Kazakhstan 1992 Đội tuyển quốc gia UEFA
Kyrgyzstan Kyrgyzstan 25 tháng 2 năm 1992 Đội tuyển quốc gia AFC
Moldova Moldova 14 tháng 4 năm 1990 Đội tuyển quốc gia UEFA
Nga Nga 8 tháng 2 năm 1992 Đội tuyển quốc gia UEFA
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Tajikistan Tajikistan 1936 Đội tuyển quốc gia AFC
Turkmenistan Turkmenistan 1992 Đội tuyển quốc gia AFC
Ukraina Ukraine 13 tháng 12 năm 1991 Đội tuyển quốc gia UEFA
Uzbekistan Uzbekistan 1946 Đội tuyển quốc gia AFC

Các liên đoàn quốc gia không thuộc Hiệp hội CIS[sửa | sửa mã nguồn]

Estonia Estonia 14 tháng 12 năm 1921 Đội tuyển quốc gia UEFA
Latvia Latvia 1921 Đội tuyển quốc gia UEFA
Litva Lithuania 9 tháng 12 năm 1922 Đội tuyển quốc gia UEFA

Danh sách đăng ký UEFA Euro 1992[sửa | sửa mã nguồn]

Huấn luyện viên trưởng: Anatoliy Byshovets

Số Vt Cầu thủ Ngày sinh (tuổi) Số trận Câu lạc bộ
1 1TM Dmitri Kharine (1968-08-16)16 tháng 8, 1968 (23 tuổi) 12 Nga CSKA Moscow
2 2HV Andrey Chernyshov (1968-01-07)7 tháng 1, 1968 (24 tuổi) 23 Nga Spartak Moscow
3 2HV Kakhaber Tskhadadze (1968-09-07)7 tháng 9, 1968 (23 tuổi) 5 Nga Spartak Moscow
4 2HV Akhrik Tsveiba (1966-09-10)10 tháng 9, 1966 (25 tuổi) 22 Ukraina Dynamo Kiev
5 2HV Oleh Kuznetsov (1963-03-22)22 tháng 3, 1963 (29 tuổi) 60 Scotland Rangers
6 3TV Igor Shalimov (1969-02-02)2 tháng 2, 1969 (23 tuổi) 23 Ý Foggia
7 3TV Oleksiy Mykhaylychenko (1963-03-30)30 tháng 3, 1963 (29 tuổi) 38 Scotland Rangers
8 4 Andrei Kanchelskis (1969-01-23)23 tháng 1, 1969 (23 tuổi) 20 Anh Manchester United
9 3TV Sergei Aleinikov (1961-11-07)7 tháng 11, 1961 (30 tuổi) 75 Ý Lecce
10 3TV Igor Dobrovolski (1967-08-27)27 tháng 8, 1967 (24 tuổi) 26 Thụy Sĩ Servette
11 4 Sergei Yuran (1969-06-11)11 tháng 6, 1969 (22 tuổi) 13 Bồ Đào Nha Benfica
12 1TM Stanislav Cherchesov (1963-09-02)2 tháng 9, 1963 (28 tuổi) 10 Nga Spartak Moscow
13 4 Sergei Kiriakov (1970-01-01)1 tháng 1, 1970 (22 tuổi) 8 Thái Lan Muangthong United
14 4 Volodymyr Lyutyi (1962-04-20)20 tháng 4, 1962 (30 tuổi) 5 Đức MSV Duisburg
15 4 Igor Kolyvanov (1968-03-06)6 tháng 3, 1968 (24 tuổi) 22 Ý Foggia
16 3TV Dmitri Kuznetsov (1965-08-28)28 tháng 8, 1965 (26 tuổi) 17 Tây Ban Nha Espanyol
17 3TV Igor Korneev (1967-09-04)4 tháng 9, 1967 (24 tuổi) 5 Tây Ban Nha Espanyol
18 2HV Viktor Onopko (1969-10-14)14 tháng 10, 1969 (22 tuổi) 1 Nga Spartak Moscow
19 3TV Igor Lediakhov (1968-05-22)22 tháng 5, 1968 (24 tuổi) 7 Nga Spartak Moscow
20 2HV Andrei Ivanov (1967-04-06)6 tháng 4, 1967 (25 tuổi) 3 Nga Spartak Moscow

Tổng cộng đội hình CIS bao gồm 8 người Nga, 6 người Ukraina (1 sinh ra ở Đức), 1 người Gruzia, 1 người Belarus, 1 người Abkhazia, 1 người Circassia, và 1 người Ossetia. Số lần ra sân bao gồm các trận đấu thi đấu cho Liên Xô cũng như CIS. Một vài cầu thủ đồng thời thi đấu cho các đội tuyển quốc gia khá như Kakhaber Tskhadadze (Gruzia) và Akhrik Tsveiba (Ukraina).

Phần lớn các cầu thủ (được in đậm) sau đó thi đấu cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Nga, đội sau đó giành quyền thi đấu tại FIFA World Cup 1994Hoa Kỳ. Do sự cố liên quan tới Lá đơn của mười bốn người vào tháng 11 năm 1993 (vì thành tích kém của đội), Igor Shalimov, Igor Dobrovolsky, Igor Kolyvanov, Sergei Kiriakov, Vasili Kulkov, và Andrei Kanchelskis đã bị loại ra khỏi đội tuyển. Oleg SalenkoAndrei Ivanov, cũng đá ký vào lá đơn, cuối cùng thì họ đã rút lại. Tsveiba và Chernyshov sau đó được gọi vào Đội tuyển bóng đá quốc gia Nga.

Mặc dù gần một phần ba đội đến từ Ukraina, chỉ có hai cầu thủ người Ukraine và Abkhazia (Akhrik Tsveina) từng chơi cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Ukraina, trong khi đó bốn người còn lại chọn đội tuyển Nga.

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Bao gồm trận đấu giao hữu chính thức của FIFA với Mexico, mà không đăng ký với Liên đoàn bóng đá Nga.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]