Ōi Katsushika

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Ōi Katsushika
(かつ) (しか) (おう) ()
Ōi Katsushika vào khoảng năm 1840
Thông tin cá nhân
Sinh
Ngày sinh
k. 1800 (không rõ chính xác ngày)
Nơi sinh
Edo (ngày nay là Tokyo), Nhật Bản
Mấtk. 1866 (không rõ chính xác ngày)
Giới tínhnữ
Quốc tịchNhật Bản
Gia đình
Bố mẹ
Hokusai
Anh chị em
Katsushika Tatsujo
Lĩnh vựcUkiyo-e
Sự nghiệp nghệ thuật
Có tác phẩm trongBảo tàng Nghệ thuật Cleveland, Bảo tàng Nghệ thuật Tưởng niệm Ōta, Bảo tàng Mỹ thuật Boston, Bảo tàng Saragossa, Bảo tàng Nghệ thuật Menard
Cảnh đêm ở Yoshiwara (原格子先之) của Ōi Katsushika

Ōi Katsushika (葛飾 応為 (Cát Sức Ưng Vị)? 1800 — 1866), hay còn gọi là Ei ( (えい) (Vinh)?), là một nghệ sĩ Ukiyo-e người Nhật Bản vào cuối thế kỷ 19 của thời kỳ Edo. Mẹ của bà là vợ thứ hai của Hokusai. Ōi là một họa sĩ tài ba, bà cũng làm trợ lý cho cha mình. Có nhiều giả thuyết về nguồn gốc tên của bà, bao gồm Ei (tên được đặt), Ei-jo ("jo" có nghĩa là "phụ nữ" hoặc "con gái" trong tiếng Nhật), Oi ("trung thành với itsu") và O-Ei (お栄? với "O" là chức vị danh dự cho tên phụ nữ trong thời kỳ Edo, Nhật Bản).

Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]

Kinuta hay Mỹ nhân dệt vải dưới ánh trăng (thế kỷ Edo thế kỷ 19) của Katsushika Ōi

Ngày sinh và ngày chết của Ōi không rõ. Bà là con gái của nghệ sĩ ukiyo-e Hokusai Katsushika (1760—1849). [1] Hokusai đã kết hôn hai lần; cuộc hôn nhân đầu tiên [a] sinh ra một đứa con trai và hai cô con gái, và cuộc hôn nhân thứ hai, với một người phụ nữ tên là Koto (こと), bà hạ sinh một đứa con trai và một hoặc hai cô con gái. [2] Người ta cho rằng Ōi được sinh ra vào khi ông Hokusai 37 tuổi: [1] năm Kansei thứ 12 (k. 1800). [2]

Ōi kết hôn với họa sĩ Tōmei Minamisawa [b] trong k. 1824. Hai vợ chồng không hòa hợp nhau, [2] và bà thấy ông là một họa sĩ nghèo.[1] Họ ly dị vào khoảng năm 1827; [2] bà trở về nhà của cha mình và không bao giờ tái hôn.[1] Sau đó, Ōi đã hỗ trợ ông Hokusai trong tác phẩm nghệ thuật của ông cũng và tự sản xuất các tác phẩm cho riêng mình. Về tấm chân dung bijin-ga của bà về người đẹp, Hokusai được cho là đã nói với mọi người rằng, "Chân dung bijin-ga tôi tự vẽ không phải là đối thủ của Oei." [c] Mẹ của Ōi mất vào k. 1828. [2] Nơi ở và tình hình của Ōi bặt vô âm tín trong vài năm sau cái chết của cha cô năm 1849. [1]

Ōi không chỉ thừa hưởng tài năng nghệ thuật của cha bà, mà còn tính cách của ông về một tinh thần tự do. Cả hai đều không quan tâm đến của cải vật chất và việc nhà. Cả Ōi và cha bà đều vẽ cả ngày, và vì không ai nấu ăn nên họ thường sẽ đi đến một khu chợ gần đó và mua thức ăn chế biến sẵn. Sau một thời gian khi ngôi nhà trở nên không phù hợp để sống, họ sẽ đi và tìm một nơi khác để sống.[3]

Về những lời truyền miệng về Ōi , Iitsu Tsuyuki, một học trò của Hokusai trong những năm sau này, mô tả bà có một tính cách lập dị như cha bà và thiên hướng độ lượng—bà có ước mong trở thành một nữ hiền triết Tây An. [1]

Tác phẩm[sửa | sửa mã nguồn]

Ōi nổi tiếng về viết chữ đẹp và vẽ những bức tranh bijin-ga về những người phụ nữ xinh đẹp. Sau đây là danh sách lựa chọn các tác phẩm của bà.

  • Kinuta hay Mỹ nhân dệt vải dưới Ánh trăng (không rõ ngày tháng) — Bản in mộc bản một tờ. Nằm trong bộ sưu tập của bảo tàng quốc gia Tokyo .
  • Cảnh đêm Yoshiwara (không rõ ngày tháng) — Một phần tên của bà có thể thấy trong bức tranh này, được đặt ở ba lồng đèn khác nhau với các kí hiệu "O", "i" và "Ei". Nằm trong bộ sưu tập của Bảo tàng Nghệ thuật Tưởng niệm Ukiyo-e Ōta .
  • Khung cảnh Kuruwa (không rõ ngày tháng) — thuộc bộ sưu tập của Bảo tàng Nghệ thuật Tưởng niệm Ukiyo-e Ōta.
  • Mỹ nhân đêm xu (không rõ ngày tháng) — Bộ sưu tập Bảo tàng Nghệ thuật Menard.
  • Trăm mắt (không rõ ngày tháng) — thuộc bộ sưu tập của Bảo tàng Hokusai.
  • Núi Phú Sĩ qua Rừng Tre (không rõ ngày tháng) - Tranh cuộn; mực và màu trên lụa. Thuộc bộ sưu tập của Bảo tàng Hokusai.
  • Ba người phụ nữ chơi nhạc cụ ( k. 1818–1844 , tức là từ thời kì Bunsei đến thời kì Tenpō) — Tranh cuộn; mực và màu trên lụa. Thuộc bộ sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật, Boston.
  • Mổ tay Quan Vũ (k. 1818–1854) — Tranh cuộn; mực, màu và lá vàng trên lụa. — thuộc bộ sưu tập của Bảo tàng Nghệ thuật Cleveland .
Mổ tay Quan Vũ
  • Ngàn năm Yamato trường thọ Hyakunin isshu Yamato (1829) [4] — Ảnh.
  • Cảnh đêm ở Yoshiwara — Bảo tàng Nghệ thuật Tưởng niệm Ota.[5]

Bà cũng đã được ghi nhận là một họa sĩ minh họa cho các cuốn sách sau.

  • Cẩm nang minh họa cho cuộc sống hàng ngày cho phụ nữ (1847) - Sách in khắc gỗ. Bộ sưu tập của Ravicz.[6]
  • Một từ điển ngắn gọn của Sencha (1848) [7]

Ngoài cạnh vẽ tranh nghệ thuật, Ōi còn làm búp bê keshi ningyō và bán chúng để kiếm sống.[8]

Di sản[sửa | sửa mã nguồn]

Rất ít tác phẩm của Ōi được biết đến: trong số đó, một vài bức tranh nikuhitsu-ga, tranh minh họa cho cuốn sách Onna Chōhō-ki ( 女重宝記, 1847) bởi Ranzan Takai (高井 蘭山), và không có bản in. [1]

Tiểu thuyết gia người Canada Kinda Govier đã viết một cuốn tiểu thuyết dưới góc nhìn thứ nhất về Ōi với tựa đề The Ghost Brush (2010, [9] cũng có tựa đề Con gái của nhà họa sĩ). [10]

Câu chuyện về Ōi đã được chuyển thể thành truyện tranh với tên Miss Hokusai (1983, 87), và đã được chuyển thể thành phim hoạt hình vào năm 2015. Câu chuyện kể về một O-Ei thẳng thắn, con gái của nghệ sĩ nổi tiếng Tetsuzō, người mà đôi khi tranh của cô vẽ không được công nhận. Bộ phim đã giành được nhiều giải thưởng.[11]

Katsushika Ōi cũng xuất hiện trong trò chơi Fate/Grand Order với tư cách là một Anh Linh lớp Foreigner, cùng với Hokusai Katsushika.

Asai Makate viết tiểu thuyết Kurara (novel) (ja) dựa trên cuộc đời của Ōi và được xuất bản vào năm 2016 sau khi xuất bản sê-ri trong năm 2014–2015, và một bộ phim truyền hình của NHK với tựa đề Kurara: Hokusai no Musume ( "Kurara: Con gái của Hokusai" ) công chiếu vào năm 2017, với sự tham gia của Miyazaki Aoi .  

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Không rõ Hokusai ly dị vợ đầu hay vợ đầu mất trước.[2]
  2. ^ 南澤 等明 Minamisawa Tōmei
  3. ^ (tiếng Nhật) 「自分が描く美人画は阿栄にはかなわない」 "Jibun ga kaku bijin-ga wa O-Ei in wa kanawanai."[1]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g h Kamiya 2006, tr. 116.
  2. ^ a b c d e f Suzuki 2016, tr. 188.
  3. ^ 1953-, Fister, Pat (1988). Japanese women artists, 1600-1900. Yamamoto, Fumiko Y., Helen Foresman Spencer Museum of Art., Honolulu Academy of Arts. (ấn bản 1). Lawrence: Spencer Museum of Art, University of Kansas. ISBN 9780913689257. OCLC 17682726.Quản lý CS1: tên số: danh sách tác giả (liên kết)
  4. ^ Ōi, Katsushika (1829). Senzai Hyakunin isshu yamato-kotobuki 千歳百人 一首倭寿.
  5. ^ "Courtesans Showing Themselves to the Strollers through the Grille" by Katsushika Ōi”. Ota Memorial Museum of Art. tháng 2 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2014.
  6. ^ Fister, Pat (1988). Japanese women artists, 1600–1900. Yamamoto, Fumiko Y., Helen Foresman Spencer Museum of Art., Honolulu Academy of Arts. (ấn bản 1). Lawrence: Spencer Museum of Art, University of Kansas. ISBN 9780913689257. OCLC 17682726.
  7. ^ Kobayashi Tadashi and Julie Nelson Davis. "The Floating World in Light and Shadow: Ukiyo-e Paintings by Hokusai's Daughter Oi". in Carpenter, J. T. et al (eds). Hokusai and his age: Ukiyo-e painting, printmaking and book illustration in late Edo Japan. Amsterdam: Hotei Publishing. 2005.
  8. ^ Fister, Pat (1988). Japanese women artists, 1600–1900. Yamamoto, Fumiko Y., Helen Foresman Spencer Museum of Art., Honolulu Academy of Arts. (ấn bản 1). Lawrence: Spencer Museum of Art, University of Kansas. ISBN 9780913689257. OCLC 17682726.
  9. ^ Hanrahan 2010.
  10. ^ Tanabe 2011.
  11. ^ “Director Keiichi Hara Wins Asiagraph 2015 Tsumugi Prize for Miss Hokusai Film”. Anime News Network. 11 tháng 8 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2015.

Tài liệu tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]