Acid salicylic (dùng trong y tế)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Axit salicylic được sử dụng như một loại thuốc giúp loại bỏ lớp ngoài của da.[1] Vì vậy, nó được sử dụng để điều trị mụn cóc, vết chai, bệnh vẩy nến, gàu, mụn trứng cá, giun đũa và bệnh ichthyosis.[1][2] Đối với các điều kiện khác với mụn cóc, nó thường được sử dụng cùng với các loại thuốc khác.[2] Nó được áp dụng trên các khu vực da bị ảnh hưởng.[1]

Tác dụng phụ bao gồm kích ứng da và ngộ độc salicylate.[2] Ngộ độc salicylate có xu hướng chỉ xảy ra khi sử dụng cho một vùng da rộng lớn và ở trẻ em.[2] Do đó, việc sử dụng chất này không được khuyến cáo ở trẻ dưới hai tuổi.[2] Nó được sử dụng với một số liều lượng khác nhau.[3]

Axit salicylic đã được sử dụng trong y tế kể từ thời Hippocrates.[4] Nó nằm trong Danh sách các loại thuốc thiết yếu của Tổ chức Y tế Thế giới, loại thuốc hiệu quả và an toàn nhất cần có trong hệ thống y tế.[5] Ở Vương quốc Anh, 10 ml công thức axit này dạng lỏng 17% có giá cho NHS khoảng 1,71 pound.[3] Nó cũng có sẵn ở dạng trộn với nhựa than đá, oxit kẽm hoặc axit benzoic.[3]

Sử dụng trong y tế[sửa | sửa mã nguồn]

Axit salicylic được sử dụng như một loại thuốc để giúp loại bỏ lớp ngoài của da.[1] Vì vậy, nó được sử dụng để điều trị mụn cóc, vết chai, bệnh vẩy nến, gàu, mụn trứng cá, giun đũa và bệnh ichthyosis.[1][2]

Do tác dụng loại bỏ đối với tế bào da, axit salicylic được sử dụng trong một số loại dầu gội chuyên trị gàu.

Trong y học hiện đại, axit salicylic và các dẫn xuất của nó là thành phần của một số sản phẩm thuốc "làm đỏ da".

Tác dụng phụ[sửa | sửa mã nguồn]

Các dung dịch đậm đặc của axit salicylic có thể gây tăng sắc tố ở những người có loại da sẫm màu hơn (Fitzpatrick phototypes IV, V, VI), mà không có kem chống nắng phổ rộng.[6][7] Do nhạy cảm với ánh nắng mặt trời, cần phải sử dụng kem chống nắng khi sử dụng axit salicylic trên da tiếp xúc với ánh nắng mặt trời.[8]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e “Salicylic acid topical medical facts from Drugs.com”. www.drugs.com. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2017. Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “MTM2017” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
  2. ^ a b c d e f WHO Model Formulary 2008 (PDF). World Health Organization. 2009. tr. 310. ISBN 9789241547659. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 13 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2017.
  3. ^ a b c British national formulary: BNF 69 (ấn bản 69). British Medical Association. 2015. tr. 814–815, 825, 833. ISBN 9780857111562.
  4. ^ Boddice, Robert Gregory (2014). Pain and Emotion in Modern History (bằng tiếng Anh). Springer. tr. Chapter 8. ISBN 9781137372437. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2017.
  5. ^ “WHO Model List of Essential Medicines (19th List)” (PDF). World Health Organization. tháng 4 năm 2015. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 13 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2016.
  6. ^ Grimes, P. E. (1999). “The Safety and Efficacy of Salicylic Acid Chemical Peels in Darker Racial-ethnic Groups”. Dermatologic Surgery. 25 (1): 18–22. doi:10.1046/j.1524-4725.1999.08145.x. PMID 9935087.
  7. ^ Roberts, W. E. (2004). “Chemical peeling in ethnic/dark skin”. Dermatologic Therapy. 17 (2): 196–205. doi:10.1111/j.1396-0296.2004.04020.x. PMID 15113287.
  8. ^ “Beta Hydroxy Acids in Cosmetics”. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2007.