Aleksandra Gintrowska

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Aleksandra Gintrowska
Ca sĩ Ola Gintrowska vào năm 2017.
Sinh28 tháng 3, 1991 (33 tuổi)
Szczecinek, Ba Lan
Quốc tịchBa Lan
Trường lớpĐại học Kingston
Nghề nghiệpNữ diễn viên, ca sĩ
Năm hoạt động2010–nay
Chiều cao1,78 m (5 ft 10 in)[chuyển đổi: số không hợp lệ]
Con cáiKhông có

Aleksandra Gintrowska (sinh ngày 28 tháng 3 năm 1991) là một nữ ca sĩ kiêm diễn viên người Ba Lan.[1] Cô còn có nghệ danh là O.L.A., dịch ra từ cụm từ "the heart of the word POLAND". (tạm dịch: trái tim của từ Ba Lan)[2][3]

Đầu đời và giáo dục[sửa | sửa mã nguồn]

Gintrowska chào đời tại Szczecinek vào năm 1991. Cô xuất thân từ một gia đình có truyền thống âm nhạc. Một người ông/bà của cô từng hát trong một hợp xướng, một người khác thì chơi đàn violin.[4] Mẹ cô là ca sĩ còn chị cô thì chơi đàn cello.[5] Cô học hát ở trường tại Szczecinek. Trong những năm tháng học tiểu học, cô học chơi đàn piano. Tiếp đó cô chuyển sang Trường trung học tư thục và 'khoa hát opera' của 'Trường trung học âm nhạc Oskar Kolberg'. Sau đó cô rời đến Warszawa và đỗ bằng tốt nghiệp trung học quốc tế. Để rồi cô đăng ký nhập học tại Đại học Kingston – nơi cô giành được một tấm bằng cử nhân về kịch và hát opera.[6] Trong những ngày ngồi trên ghế nhà trường, cô đã biểu diễn trong dàn hợp xướng và các buổi biểu diễn hàn lâm tại những địa điểm như The Fighting Cocks, bên cạnh đó là các vở nhạc kịch như This Is Musical, Gems from the ShowsCell Block Tango được tổ chức tại các sân khấu ở Luân Đôn.[7]

Sự nghiệp âm nhạc[sửa | sửa mã nguồn]

Gintrowska trong một buổi tập luyện cho vòng sơ loại cuộc thi Eurovision Song lần thứ 61 của Ba Lan vào năm 2016.

Năm 2015, cô phát hành đĩa đơn "Missing" do Robert Janson sáng tác, được Polsat dùng làm bài nhạc hiệu cho chương trình Must Be the Music.[8] Năm 2016, bài hát của cô đã đưa cô lọt vào chung kết vòng loại của Eurovision Song Contest. Bộ trang phục nàng tiên cá[9] mà cô diện trong vòng sơ loại đã trở thành chủ đề bàn tán trên khắp các phương tiện truyền thông của Ba Lan.[10] Tháng 8 năm 2016, cô phát hành đĩa đơn "Best That I've Felt," do Ryan Tedder làm nhà sản xuất.[4] Tháng 12 năm 2016, cô cho ra đời bài hát "Rowdy" và vào cuối tháng 1 năm 2017 cô giới thiệu đĩa đơn đầu tiên của mình bằng tiếng Ba Lan – "White Magic", với sự hợp tác của Robert Janson. Ngày 17 tháng 12 năm 2019, cô thể hiện các tiết mục trực tiếp tại buổi hòa nhạc ‘Most Beautiful Carols phát qua truyền hình, diễn ra tại 'Nhà thờ giáo xứ Đức Mẹ Częstochowa' tại Lubin vào đêm Giáng Sinh và buổi hòa nhạc truyền hình đón chào giao thừa tại Warszawa cùng với một dàn hợp xướng đều được phát sóng qua kênh TVN.[4][11]

Danh sách đĩa nhạc[sửa | sửa mã nguồn]

  • 2015: – Missing.
  • 2016: – Best That I’ve Felt.
  • 2016: – Rowdy.
  • 2017: – Biała magia.

Danh sách phim[sửa | sửa mã nguồn]

Điện ảnh

Năm Tựa Vai trò Đạo diễn Chú thích
2017 Gwiazdy Jola Jan Kidawa-Błoński
2011 On behalf of the devil Monika Barbara Sass W imieniu diabła

Truyền hình

Năm Tựa Vai trò Đạo diễn Chú thích
2019 Śpiewajmy razem. All Together Now chính cô Polsat dựa trên gameshow All Together Now
2018 Pierwsza miłość Urszula Dzieciatkiewicz Ewa Pytka Tiếng Anh: First Love.
2018 M jak miłość Goska TVP2 Tiếng Anh: L for Love. Mùa 1 | Tập 1360; 1366 & 1370.
2018 Diagnosis Zuza Maciej Bochniak & Lukasz Palkowski Mùa 2 Tập 6 & 7. tựa gốc: Diagnoza.
2017 Twoja twarz brzmi znajomo. chính cô Polsat dựa trên gameshow của Tây Ban Nha: Your Face Sounds Familiar.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “Aleksandra Gintrowska”. teleexpress.tvp.pl. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2020.
  2. ^ WPROST.pl (ngày 20 tháng 12 năm 2019). "Gintrowski – a jednak coś po nas zostanie". Wyjątkowy koncert w niedzielę w TVP1”. Wprost (bằng tiếng Ba Lan). Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2020.
  3. ^ o.o, Eurozet Sp z. “M jak miłość. Aleksandra Gintrowska zagra Małgosię – Radio ZET”. radiozet.pl (bằng tiếng Ba Lan). Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2020.
  4. ^ a b c “Sylwester TVN 2019/20: Aleksandra Gintrowska zaśpiewała światowy hit!”. tvn.pl (bằng tiếng Ba Lan). Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2020.[liên kết hỏng]
  5. ^ Królak, Sergiusz (ngày 20 tháng 3 năm 2016). “Ola Gintrowska: "Thanks to the siren I distinguished myself from the other participants!". eurowizja.org. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2020.
  6. ^ “Młodzi utalentowani z Polski”. Wprost (bằng tiếng Ba Lan). ngày 18 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2020.
  7. ^ Dobczyńska, Natalia (ngày 11 tháng 7 năm 2017). “Aleksandra Gintrowska: "I hope I can surprise all viewers". eurowizja.org. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2020.
  8. ^ “Aleksandra Gintrowska dołączyła do "M jak miłość". Onet Kultura (bằng tiếng Ba Lan). ngày 29 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2020.
  9. ^ o.o, Eurozet Sp z. “Pierwsza miłość. Ola Gintrowska w serialu - Radio ZET”. www.radiozet.pl (bằng tiếng Ba Lan). Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2020.[liên kết hỏng]
  10. ^ “Eurowizja 2016: internauci nie mają litości wobec Oli Gintrowskiej”. Onet Kultura (bằng tiếng Ba Lan). ngày 7 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2020.
  11. ^ “Gwiazdy zaśpiewają kolędy w TVN! Koncert obejrzycie 24 grudnia”. tvn.pl (bằng tiếng Ba Lan). Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2020.[liên kết hỏng]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]