Alessandro Bastoni

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Alessandro Bastoni
Bastoni năm 2021
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ Alessandro Bastoni
Ngày sinh 13 tháng 4, 1999 (24 tuổi)
Nơi sinh Casalmaggiore, Ý
Chiều cao 1,90 m (6 ft 3 in)
Vị trí Trung vệ
Thông tin đội
Đội hiện nay
Inter Milan
Số áo 95
Sự nghiệp cầu thủ trẻ
Năm Đội
Cannatese
2006–2016 Atalanta
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
2016–2017 Atalanta 3 (0)
2017– Inter Milan 58 (2)
2017–2018Atalanta (mượn) 4 (0)
2018–2019Parma (mượn) 24 (1)
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Năm Đội ST (BT)
2014 U-15 Ý 7 (0)
2014–2015 U-16 Ý 15 (1)
2015–2016 U-17 Ý 17 (0)
2016 U-18 Ý 3 (0)
2017–2018 U-19 Ý 9 (2)
2018–2019 U-21 Ý 12 (1)
2020– Ý 22 (1)
Thành tích huy chương
Đại diện cho  Ý
Bóng đá nam
UEFA European Championship
Vô địch Châu Âu 2020 Đội bóng
UEFA Nations League
Vị trí thứ ba Ý 2021 Đội bóng
CONMEBOL–UEFA Cup of Champions
Á quân Anh 2022 Đội bóng
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 23 tháng 5 năm 2021
‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia, chính xác tính đến 24 tháng 3 năm 2024

Alessandro Bastoni (sinh ngày 13 tháng 4 năm 1999) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ý thi đấu ở vị trí hậu vệ cho Inter MilanĐội tuyển bóng đá quốc gia Ý.

Thời niên thiếu[sửa | sửa mã nguồn]

Bastoni sinh ra ở Casalmaggiore, Lombardy, và bắt đầu sự nghiệp ở đội trẻ Rivarolo Mantovano, nơi bố anh là huấn luyện viên.[1] Lúc 7 tuổi, anh gia nhập đội trẻ của câu lạc bộ Serie A Atalanta.

Sự nghiệp câu lạc bộ[sửa | sửa mã nguồn]

Atalanta[sửa | sửa mã nguồn]

Bastoni trải qua nhiều đội trẻ tại Bergamo, có gần 30 lần ra sân cho đội U-17, trước khi thi đấu ở Primavera, và anh thường xuyên nằm trong đội hình xuất phát ở vị trí trung vệ. Anh lần đầu tiên có tên trong đội một vào ngày 30 tháng 10 năm 2016, trong trận đấu với Genoa, và có trận ra mắt đầy đủ một tháng sau đó trong trận đấu tại Cúp bóng đá Ý trước Pescara, thi đấu cả trận với chiến thắng 3-0.[2] Tại Serie A, Bastoni là cầu thủ dự bị không được sử dụng trong 6 trận đấu sau trận với Genoa cho đến khi có màn ra mắt trong chiến thắng 1-0 trước Sampdoria vào ngày 22 tháng 1 năm 2017, thi đấu đủ 90 phút.[3]

Inter Milan[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 31 tháng 8 năm 2017, Inter Milan công bố bản hợp đồng của Bastoni với mức giá 31 triệu euro,[4] và cùng ngày hôm đó, anh đến Atalanta theo dạng cho mượn trong hai mùa giải tiếp theo.[5] Inter chính thức triệu tập sớm Alessandro Bastoni từ Atalanta và gia hạn hợp đồng đến năm 2023 vào ngày 14 tháng 7 năm 2018.[6] Vào ngày 7 tháng 10 năm 2020, Bastoni có kết quả dương tính với COVID-19 trong đội hình U-21 Ý.[7]

Đến Parma theo dạng cho mượn[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 7 tháng 8 năm 2018, Bastoni gia nhập Parma theo dạng cho mượn đến 30 tháng 6 năm 2019.[8] Anh có màn ra mắt vào ngày 7 tháng 10 năm 2018, trong chiến thắng 3-1 trên sân khách trước Genoa.

Sự nghiệp quốc tế[sửa | sửa mã nguồn]

Bastoni thi đấu cho Ý ở mọi cấp độ từ U-15 đến U-19. Bàn thắng quốc tế đầu tiên là trong chiến thắng 4-0 trước Na Uy khi thi đấu cho đội U-16. Lần đầu tiên anh được triệu tập vào đội U-18 bởi huấn luyện viên Paolo Nicolato vào tháng 8 năm 2016,[9] và được trao băng đội trưởng trong trận đấu thứ hai; trận hòa 2-2 trước Hà Lan. Anh được triệu tập vào đội U-19 Ý bởi Paolo Nicolato vào ngày 9 tháng 8 năm 2017 lúc 18 tuổi.

Anh có màn ra mắt với U-21 Ý vào ngày 11 tháng 10 năm 2018, trong thất bại giao hữu 1-0 trước Bỉ. Sau đó anh được đá chính và tham gia Giải vô địch bóng đá U-21 châu Âu 2019 được tổ chức trên sân nhà.[10]

Bastoni lần đầu tiên được triệu tập vào đội tuyển quốc gia Ý bởi huấn luyện viên Roberto Mancini, để thi đấu UEFA Nations League với các đội tuyển Bosna và Hercegovina và Hà Lan vào tháng 9 năm 2020.[11] Anh có màn ra mắt đội tuyển Ý vào ngày 11 tháng 11, đá chính trong chiến thắng giao hữu 4-0 trước Estonia ở Florence.[12][13][14]

Vào tháng 6 năm 2021, anh nằm trong đội hình Ý thi đấu tại Giải vô địch bóng đá châu Âu 2020.[15]

Cuộc sống cá nhân[sửa | sửa mã nguồn]

Cha của Bastoni, Nicola, cũng là một cầu thủ bóng đá, thi đấu ở vị trí hậu vệ trái cho Cremonese.[16] Vào ngày 6 tháng 10 năm 2020, có thông báo rằng Bastoni có kết quả dương tính với COVID-19, nhưng không có triệu chứng.[17]

Thống kê sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Câu lạc bộ[sửa | sửa mã nguồn]

Tính đến trận đấu diễn ra ngày 23 tháng 5 năm 2021.[18]
Câu lạc bộ Mùa giải Giải vô địch Cúp Châu Âu Khác Tổng cộng
Hạng đấu Số trận Bàn thắng Số trận Bàn thắng Số trận Bàn thắng Số trận Bàn thắng Số trận Bàn thắng
Atalanta 2016-17 Serie A 3 0 1 0 - - 4 0
Atalanta (mượn) 2017-18 4 0 1 0 0 0 - 5 0
Tổng cộng 7 0 2 0 0 0 - 9 0
Parma (mượn) 2018-19 Serie A 24 1 0 0 - - 24 1
Inter Milan 2019-20 25 2 3 0 5 0 - 33 3
2020-21 33 0 2 0 6 0 - 41 0
Tổng cộng 58 2 5 0 11 0 - 74 3
Tổng kết sự nghiệp 89 3 7 0 11 0 0 0 107 4

Quốc tế[sửa | sửa mã nguồn]

Tính đến trận đấu diễn ra ngày 24 tháng 3 năm 2023.[18]
Ý
Năm Số trận Bàn thắng
2020 3 0
2021 6 0
2022 8 1
2023 4 0
2024 1 0
Tổng cộng 22 1
Bàn thắng và kết quả của Ý được để trước.[18]
# Ngày Địa điểm Số trận Đối thủ Bàn thắng Kết quả Giải đấu
1 14 tháng 6 năm 2022 Borussia-Park, Mönchengladbach, Đức 15  Đức 2–5 2–5 UEFA Nations League 2022–23

Danh hiệu[sửa | sửa mã nguồn]

Inter Milan[sửa | sửa mã nguồn]

Đội tuyển quốc gia[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “Alessandro Bastoni, Pregiata Oreficeria Atalanta” (bằng tiếng Ý). Alfredo Pedulla. 23 tháng 1 năm 2017. Truy cập 30 tháng 1 năm 2017.
  2. ^ “Atalanta vs. Pescara 3-0”. Soccerway. 30 tháng 11 năm 2016. Truy cập 30 tháng 1 năm 2017.
  3. ^ “Atalanta vs. Sampdoria 1-0”. Soccerway. 22 tháng 1 năm 2017. Truy cập 30 tháng 1 năm 2017.
  4. ^ “Transfer news: Inter paid €31m for Bastoni”. calciomercato.com. Truy cập 19 tháng 1 năm 2020.
  5. ^ “Alessandro Bastoni All'Inter Ma Nerazzurro Fino Al 30 Giugno 2019” [Alessandro Bastoni At Inter But Black & Blue Until 30 tháng 6 năm 2019] (bằng tiếng Ý). Atalanta B.C. 31 tháng 8 năm 2017. Bản gốc lưu trữ 31 tháng 8 năm 2017. Truy cập 31 tháng 8 năm 2017.
  6. ^ “Alessandro Bastoni renews with Inter until 2023”. Inter Milan. 14 tháng 7 năm 2018. Bản gốc lưu trữ 31 Tháng Ba năm 2019. Truy cập 14 tháng 7 năm 2018.
  7. ^ “Inter's Alessandro Bastoni Tests Positive For COVID-19 Italian Media Claim”. SempreInter.com (bằng tiếng Anh). ngày 7 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2020.
  8. ^ “Ufficale: Parma, tris d'acquisti dall'Inter: Biabiany, Dimarco e Bastoni” (bằng tiếng Ý). Truy cập 7 tháng 8 năm 2018.
  9. ^ “Italy U-18s: 22 Azzurrini Called Up For Slovenia Friendly on 11th August”. FIGC. 4 tháng 8 năm 2016. Bản gốc lưu trữ 7 Tháng Một năm 2018. Truy cập 30 tháng 1 năm 2017.
  10. ^ “Parte l'avventura europea: Di Biagio ufficializza la lista dei 23 Azzurrini” (bằng tiếng Ý). FIGC.it. 6 tháng 6 năm 2019. Truy cập 7 tháng 1 năm 2020.
  11. ^ “Trentasette convocati per le gare con Bosnia e Paesi Bassi, prima chiamata per Bastoni, Locatelli e Caputo” (bằng tiếng Ý). Truy cập 6 tháng 9 năm 2020.
  12. ^ “A Grifo brace and goals from Bernardeschi and Orsolini secure a comfortable win against Estonia”. www.figc.it. 11 tháng 11 năm 2020. Truy cập 12 tháng 11 năm 2020.
  13. ^ “Italy vs. Estonia - Football Match Report - ngày 11 tháng 11 năm 2020 - ESPN”. ESPN.com. 11 tháng 11 năm 2020. Truy cập 12 tháng 11 năm 2020.
  14. ^ “Italy 4-0 Estonia: Grifo lights up experimental Azzurri”. www.football-italia.net. 11 tháng 11 năm 2020. Truy cập 12 tháng 11 năm 2020.
  15. ^ “Mancini names uncapped striker Raspadori in final Italy Euro 2020 squad”. Reuters. 1 tháng 6 năm 2021. Truy cập 5 tháng 6 năm 2021.
  16. ^ Spini, Matteo (24 tháng 1 năm 2017). “Atalanta, la storia di Bastoni e Melegoni: debuttanti grazie a Gasperini”. La Gazzetta dello Sport (bằng tiếng Ý). Truy cập 12 tháng 11 năm 2020.
  17. ^ “COMUNICATO UFFICIALE DI FC INTERNAZIONALE MILANO” (Thông cáo báo chí) (bằng tiếng Ý). 6 tháng 10 năm 2020. Truy cập 7 tháng 10 năm 2020.
  18. ^ a b c d e “Alessandro Bastoni”. Soccerway. Truy cập 11 tháng 11 năm 2020.
  19. ^ “Inter end Juventus' Serie A dominance with first title in 11 years”. ESPN. 2 tháng 5 năm 2021. Truy cập 2 tháng 5 năm 2021.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]