Amanita bisporigera

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Amanita bisporigera
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Fungi
Ngành (divisio)Basidiomycota
Lớp (class)Agaricomycetes
Bộ (ordo)Agaricales
Họ (familia)Amanitaceae
Chi (genus)Amanita
Loài (species)A. bisporigera
Danh pháp hai phần
Amanita bisporigera
G.F.Atk. (1906)
Danh pháp đồng nghĩa[1][2]
  • Amanita phalloides var. striatula Peck (1902)
  • Amanita vernella (Murrill) Murrill (1945)
  • Amanitina bisporigera (G.F.Atk.) E.-J. Gilbert (1941)

Amanita bisporigera là một loài nấm độc gây chết người trong họ Amanitaceae. Trong tiếng Anh tên loài này là eastern North American destroying angel (thiên thần hủy diệt đông Bắc Mỹ) hoặc destroying angel (thiên thần hủy diệt), mặc dù nó cùng tên thiên thần hủy diệt cũng chỉ ba loài Amanita trắng độc gây chết người khác, A. ocreata, A. vernaA. virosa. Quả thể được tìm thấy trên mặt đất trong các khu rừng lá kim và rụng lá hỗn hợp của Đông Bắc Mỹ nam đến Mexico, nhưng rất hiếm ở miền tây Bắc Mỹ; loài này cũng đã được tìm thấy trong các vùng trồng thông ở Colombia. Mũ nấm trắng mịn có thể đạt tới chiều cao trên 10 cm, và cây nấm dài lên đến 14 cm và dày đến 1,8 cm, có màu vòng khuyên giống váy màu trắng tinh khiết ở gần phía trên. Gốc cây nấm có hình củ hành được bao phủ với volva giống như màng. Được mô tả đầu tiên vào năm 1906, A. bisporigera được phân loại trong phần Phalloideae của chi Amanita cùng với loài chứa amatoxin khác. Amatoxins là peptide cyclic ức chế enzyme RNA polymerase II và can thiệp vào chức năng tế bào khác nhau. Các triệu chứng đầu tiên của ngộ độc xuất hiện 6-24 giờ sau khi ăn loài nấm này, sau một thời gian tiến rõ ràng, sau đó theo các triệu chứng của gan và suy thận và tử vong sau bốn ngày hoặc nhiều hơn. Amanita bisporigera gần giống với một vài amanita trắng khác, bao gồm cả các loài nấm độc gây chết người A. virosaA. verna. Những loài này, rất khó để phân biệt với A. bisporigera dựa trên đặc điểm lĩnh vực có thể nhìn thấy, không có basidia hai spore, và không gây bẩn màu vàng khi một dung dịch loãng của kali hydroxide được áp dụng. DNA của A. bisporigera đã được giải trình tự một phần, và các gen chịu trách nhiệm cho việc sản xuất các amatoxin đã được xác định.

Phân loài, phân loại, và phát sinh loài[sửa | sửa mã nguồn]

A. exitialis

A. subjunquillea var. alba

A. virosa

A. bisporigera

A. fuliginea

A. hemibapha

Các mối quan hệ của Amanita bisporigera và các loài liên quan dựa trên các số liệu chuỗi ITS. Các mẫu vật A. virosa được thu thập từ Nhật Bản, A. bisporigera từ Hoa Kỳ, các mẫu khác từ Trung Quốc.[3]

Amanita bisporigera lần đầu tiên được mô tả khoa học năm 1906 bởi nhà thực vật học người Mỹ George Francis Atkinson trong một ấn phẩm bởi đồng nghiệp của Đại học Cornell Charles E. Lewis. Loại địa phươngIthaca, New York, nơi một số bộ sưu tập đã được thực hiện.[4] Trong cuốn chuyên khảo thế giới năm 1941 các loài Amanita, Édouard-Jean Gilbert đã chuyển loài này sang chi mới Amanitina,[5] nhưng chi này nay được xem là đồng nghĩa với Amanita.[6] Năm 1944, William Murrill đã mô tả loài này là Amanita vernella, thu thập từ Gainesville, Florida;[7] loài này nay được người ta cho là đồng nghĩa với A. bisporigera sau một đợt kiểm tra mẫu năm 1979 cho thấy basidia phần lớn là 2 bào tử.[2][8] Amanita phalloides var. striatula, một đơn vị phân loại ít được biết đến mô tả ban đầu từ Hoa Kỳ vào năm 1902 bởi Charles Horton Peck,[9] được tác gia có thẩm quyền Amanita Rodham Tulloss xem là đồng nghĩa với A. bisporigera.[2] Tên thông dụng trong tiếng Anh gồm có "destroying angel", "deadly amanita", "white death cap", "angel of death"[10] and "eastern North American destroying angel".[11] Tỷ lệ tử vong do ăn phải nấm này nằm trong khoảng 25% tới 50%.[12]

Các loài Amanita, bao gồm A. phalloidesA. virosa. Cách xếp loại này đã classification]] đã được duy trì với phân tích phát sinh loài, trong đó chứng minh rằng các thành viên độc tố sản xuất của section Phalloideae từ một clade—nghiax là, có nguồn gốc từ một tổ tiên chung.[13][14] Năm 2005, Zhang và các đồng nghiệp đã thực hiện một phân tích phát sinh loài dựa trên các chuỗi internal transcribed spacer (ITS) của nhiều loài nấm độc thân trắng Amanita, phần lớn chúng được tìm thấy ở châu Á. Kết quả của họ hỗ trợ một nhánh chứa A. bisporigera, A. subjunquillea var. alba, A. exitialis, và A. virosa. Loại nấm thiên thần Quảng Châu (Amanita exitialis) có basadia hai bào tử, giống như A. bisporigera.[3]

Độc tố[sửa | sửa mã nguồn]

α-amanitin, principal toxic component of A. bisporigera

Amanita bisporigera được xem là loài nấm Amanita Bắc Mỹ có mức độc cao nhất, với ít thay đổi về hàm lượng độc giữa các quả thể khác nhau.[15][16] Có ba phân loại amatoxin đã được mô tả: α-, β, và γ-amanitin. Chất độc amatoxin chủ yếu, α-amanitin, dễ được hấp thụ qua ruột và 60% chất độc được hấp thụ được bài tiết vào mật và trải qua lưu thông ruột; thận xử lý 40% còn lại. Các độc tố ức chế enzyme RNA polymerase II, từ đó can thiệp phiên mã DNA, mà ức chế sản xuất RNA và tổng hợp protein. Điều này làm cho tế bào bị hoại tử, đặc biệt là trong các tế bào mà ban đầu được tiếp xúc và có giá nhanh chóng của tổng hợp protein. kết quả quá trình này trong rối loạn chức năng gan cấp tính nghiêm trọng và cuối cùng, suy gan.[17] Các amatoxin không bị phân hủy bởi quá trình nấu, làm đông lạnh hay làm khô.[18][19] Khoảng 0.2-0.4 milligrams α-amanitin tồn tại trong 1 gram A. bisporigera; liều gây tử vong ở người nhỏ hơn 0.1 mg/kg trọng lượng cơ thể.[17] Một quả thể trưởng thành có thể chứa 10–12 mg α-amanitin, đủ một liều gây chết người.[20] Nồng độ α-amanitin trong các bào từ khoảng 17% trong mô quả thể.[21] A. bisporigera cũng chứa phallacidin phallotoxin, có liên hệ về cấu trúc với các amatoxin nhưng được xem là ít độc hơn vì bị hấp thụ kém hơn.[20] Các vụ ngộ đốc (từ các loài amanita trắng tương tự) cũng được ghi nhận ở gia súc, bao gồm chó, mèo và bò.[22]

Các vụ ngộ độc đầu tiên báo cáo dẫn đến tử vong từ việc tiêu thụ A. bisporigera là gần San Antonio, Mexico, vào năm 1957, nơi một chủ trại, vợ và ba đứa con tiêu thụ loại nấm này; chỉ có người đàn ông sống sót.[23] Ngộ độc Amanita có đặc trưng bởi các giai đoạn riêng biệt sau đây:[24] giai đoạn ủ bệnh là một giai đoạn không có triệu chứng kéo dài khoảng 6-12 giờ sau khi ăn. Trong giai đoạn ở ruột, khoảng 6-16 giờ sau khi ăn, có khi bắt đầu đau bụng, nôn mửa dữ dội, và tiêu chảy cho đến 24 giờ, có thể dẫn đến mất nước, mất cân bằng điện giải nặng, và sốc. Những triệu chứng sớm có thể liên quan đến các chất độc khác như phalloidin. Trong giai đoạn độc tế bào, 24-48 giờ sau khi ăn, các dấu hiệu lâm sàng và sinh hóa của tổn thương gan được quan sát, nhưng bệnh nhân thường là do các triệu chứng tiêu hóa. Các dấu hiệu của rối loạn chức năng gan như vàng da, hạ đường huyết, toanxuất huyết xuất hiện. Sau đó, có sự gia tăng về mức độ prothrombin và nồng độ amonia trong máu, và những dấu hiệu của viêm gan và/hoặc suy thận xuất hiện. Các yếu tố nguy cơ cho tỷ lệ tử vong đã được báo cáo là độ tuổi trẻ hơn 10 năm, thời gian trễ ngắn giữa tiêu hóa và có triệu chứng, nặng rối loạn đông máu (rối loạn đông máu), bilirubin (vàng da) nặng, và gia tăng huyết thanh creatinin.[17]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Amanitina bisporigera (G.F. Atk.) E.-J. Gilbert 1941”. MycoBank. International Mycological Association. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2010.
  2. ^ a b c Tulloss R, Pussiel L. (ngày 16 tháng 7 năm 2005). “Key to Species of AMANITA Section PHALLOIDEAE from North and Central America”. Amanita studies. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2010.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  3. ^ a b Zhang P, Chen Z, Hu J, Wei B, Zhang Z, Hu W. (2005). “Production and characterization of Amanitin toxins from a pure culture of Amanita exitialis”. FEMS Microbiology Letters. 252 (2): 223–228. doi:10.1016/j.femsle.2005.08.049. PMID 16198510.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  4. ^ Lewis CE. (1906). “The basidium of Amanita bisporigera”. Botanical Gazette. 41 (5): 348–352. doi:10.1086/328827. JSTOR 2465725.
  5. ^ Gilbert E-J. (1940). “Amanitaceae”. Iconographia mycologica. 27 (Suppl. 1): 78.
  6. ^ Cannon, PF; Minter, DW; Stalpers, JA. (2008). Dictionary of the Fungi (ấn bản 10). Wallingford, UK: CAB International. tr. 23. ISBN 978-0-85199-826-8. Đã định rõ hơn một tham số trong author-name-list parameters (trợ giúp); |first1= thiếu |last1= (trợ giúp)
  7. ^ Murrill WA. (1944). “More fungi from Florida”. Lloydia. 7 (4): 303–327.
  8. ^ Jenkins DT. (1979). “A study of Amanita types III. Taxa described by W. A. Murrill”. Mycotaxon. 10 (1): 175–200.
  9. ^ Peck CH. (1902). “Report of the State Botanist 1901”. Bulletin of the New York State Museum. 54: 931–982.
  10. ^ Ammirati JF, Traquair JA, Horgen PA. (1985). Poisonous Mushrooms of Canada: Including other Inedible Fungi. Markham, Ontario: Fitzhenry & Whiteside in cooperation with Agriculture Canada and the Canadian Government Publishing Centre, Supply and Services Canada. tr. 85–87. ISBN 0-88902-977-6.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  11. ^ Tulloss R. Amanita bisporigera G. F. Atk”. Amanita studies. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2010.
  12. ^ Claudio Ronco; Rinaldo Bellomo; John A. Kellum (2009). Critical Care Nephrology. Elsevier Health Sciences. tr. 927. ISBN 1-4160-4252-0.
  13. ^ Weiss M, Yang F, Oberwinkler F. (1998). “Molecular phylogenetic studies in the genus Amanita”. Canadian Journal of Botany. 76: 1170–1179. doi:10.1139/cjb-76-7-1170.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  14. ^ Drehmel D, Moncalvo J-M, Vilgalys R. (1999). “Molecular phylogeny of Amanita based on large-subunit ribosomal DNA sequences: implications for taxonomy and character evolution”. Mycologia. 91 (4): 610–618. doi:10.2307/3761246. JSTOR 3761246.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  15. ^ Tyler VE, Benedict RG, Brady LR, Robbers JE. (1966). “Occurrence of amanita toxins in American collections of deadly amanitas”. Journal of Pharmaceutical Sciences. 55 (6): 590–593. doi:10.1002/jps.2600550612. PMID 5951044.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  16. ^ Dart RC. (2003). Medical toxicology. Philadelphia, Pennsylvania: Lippincott, Williams & Wilkins. tr. 1727. ISBN 0-7817-2845-2.
  17. ^ a b c Madhok M, Scalzo AJ, Blume CM, Neuschwander-Tetri BA, Weber JA, Thompson MW. (2006). “Amanita bisporigera ingestion: mistaken identity, dose-related toxicity, and improvement despite severe hepatotoxicity”. Pediatric Emergency Care. 22 (3): 177–280. doi:10.1097/01.pec.0000202459.49731.33. PMID 16628103.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  18. ^ Benjamin DR. (1995). Mushrooms, Poisons and Panaceas. A Handbook for Naturalists, Mycologists, and Physicians. San Francisco, California: W.H. Freeman. tr. 212. ISBN 0-7167-2649-1.
  19. ^ Hall IR. (2003). Edible and Poisonous Mushrooms of the World. Portland, Oregon: Timber Press. tr. 107. ISBN 0-88192-586-1.
  20. ^ a b Hallen HE, Luo H, Scott-Craig JS, Walton JD. (2007). “Gene family encoding the major toxins of lethal Amanita mushrooms”. Proceedings of the National Academy of Sciences of the United States of America. 104 (48): 19097–19101. doi:10.1073/pnas.0707340104. PMC 2141914. PMID 18025465.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  21. ^ McKnight TA, McKnight KB, Skeels MC. (2010). “Amatoxin and phallotoxin concentration in Amanita bisporigera spores”. Mycologia. 102 (4): 763–765. doi:10.3852/09-131.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  22. ^ Tu AT. (1992). Food Poisoning. New York, New York: Dekker. tr. 321–322. ISBN 0-8247-8652-1.
  23. ^ Helm R. (1957). “Sur un cas d'empoisonnement mortel cause au Mexique par l'Amanita bisporigera Atk” [On a case of fatal poisoning caused by Amanita bisporigera Atk. in Mexico]. Revue de Mycologie (bằng tiếng Pháp). 22 (2): 208–216.
  24. ^ Fineschi V, Di Paolo M, Centini F. (1996). “Histological criteria for diagnosis of Amanita poisoning”. Journal of Forensic Science. 41 (3): 429–432. PMID 8656182.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]