Anampses chrysocephalus

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Anampses chrysocephalus
Cá cái
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Labriformes
Họ (familia)Labridae
Chi (genus)Anampses
Loài (species)A. chrysocephalus
Danh pháp hai phần
Anampses chrysocephalus
Randall, 1958
Danh pháp đồng nghĩa
  • Anampses rubrocaudatus Randall, 1958

Anampses chrysocephalus là một loài cá biển thuộc chi Anampses trong họ Cá bàng chài. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1958.

Từ nguyên[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh của loài được ghép bởi hai từ trong tiếng Latinh, là chrysos ("màu vàng") và cephalus ("đầu"), hàm ý đề cập đến phần đầu có màu vàng cam của cá đực[2].

Phạm vi phân bố và môi trường sống[sửa | sửa mã nguồn]

A. chrysocephalus là một loài đặc hữu của quần đảo Hawaii. Chúng sống gần các rạn san hôđá ngầm ở độ sâu có thể đến 139 m, nhưng thường được bắt gặp trong khoảng từ 12 đến 50 m[1][3].

Mô tả[sửa | sửa mã nguồn]

A. chrysocephalus có chiều dài cơ thể tối đa được ghi nhận là gần 18 cm. Cá cái có màu nâu sẫm, chi chít các đốm và chấm trắng trên cơ thể (nhỏ và nhiều hơn ở vùng lưng). Vây đuôi màu đỏ với một vệt trắng bao quanh gốc vây. Vây ngực và vây bụng màu trắng nhạt. Các vây còn lại tiệp màu với thân. Cá đực màu nâu cam với các đốm màu xanh óng trên vảy. Đầu có màu cam sáng, lốm đốm các vệt xanh. Vây lưng và vây đuôi màu nâu sẫm (dải trắng bao quanh cuống đuôi ở một số cá thể giai đoạn trung gian). Vây hậu môn có màu vàng với 2 hàng đốm xanh. Vây bụng màu xanh lam với viền vàng. Vây ngực và vây bụng màu trắng nhạt[4][5].

Số gai ở vây lưng: 9; Số tia vây ở vây lưng: 12; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 12.

Danh pháp A. rubrocaudatus mà chính Randall mô tả là dựa trên kiểu hình của cá cái[4].

Sinh thái học[sửa | sửa mã nguồn]

Thức ăn của A. chrysocephalus là những loài thủy sinh không xương sống. Cá đực thường sống theo chế độ hậu cung, gồm nhiều con cá cái bơi cùng với nó[3]. Nhiều khả năng, A. chrysocephalus là loài lưỡng tính tiền nữ, tức cá cái có thể chuyển đổi giới tính thành cá đực[1].

Loài này thường được đánh bắt trong ngành buôn bán cá cảnh[1].

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d D. Pollard; M. Craig; L. Rocha (2010). Anampses chrysocephalus. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2010: e.T187555A8567064. doi:10.2305/IUCN.UK.2010-4.RLTS.T187555A8567064.en. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2021.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  2. ^ Christopher Scharpf; Kenneth J. Lazara (2021). “Order LABRIFORMES: Family LABRIDAE (a-h)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2021.
  3. ^ a b Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Anampses chrysocephalus trên FishBase. Phiên bản tháng 10 năm 2021.
  4. ^ a b John E. Randall (2010). Shore Fishes of Hawai'i. Nhà xuất bản Đại học Hawaii. tr. 125. ISBN 978-0824834272.
  5. ^ Randall (1972), sđd, tr.175-176

Trích dẫn[sửa | sửa mã nguồn]