Aq Qoyunlu
Aq Qoyunlu hoặc Ak Koyunlu, còn gọi là Turkoman Cừu trắng (tiếng Ba Tư: آق قویونلو Āq Quyūnlū, còn được gọi là Bayanduriyye),[1] là một liên minh bộ lạc người Ba Tư [2][3] Sunni [4] Turkoman [5][6][7][8] cai trị các bộ phận của Đông Thổ ngày nay 1378 đến 1501, và trong những thập kỷ cuối cùng của họ cũng cai trị Armenia, Azerbaijan, hầu hết Iran và Iraq.[9]
Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]
Theo biên niên sử từ Đế quốc Byzantine, Aq Qoyunlu lần đầu tiên được chứng thực ở quận Bayburt phía nam dãy núi Pontic từ ít nhất là vào những năm 1340,[10] và một số nhà lãnh đạo của họ, bao gồm cả người sáng lập triều đại, Qara Osman,[11] và đã cưới công chúa Byzantine.[12]
Aq Qoyunlu Turkomans lần đầu tiên giành được đất vào năm 1402, khi Timur cấp cho họ toàn bộ vùng Diyar Bakr ở Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay. Trong một thời gian dài, Aq Qoyunlu không thể mở rộng lãnh thổ của mình, vì đối thủ Kara Koyunlu hay"Black Sheep Turkomans"đã kềm giữ họ. Tuy nhiên, điều này đã thay đổi với sự cai trị của Uzun Hasan, người đã đánh bại thủ lĩnh Black Sheep Turkoman Jahān Shāh vào năm 1467.
Sau thất bại của một thủ lĩnh Timurid, Abu Sa'id Mirza, Uzun Hasan đã có thể chiếm Baghdad cùng với các vùng lãnh thổ quanh Vịnh Ba Tư. Ông mở rộng sang Iran ở tận phía đông như Khorasan. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian này, Đế chế Ottoman đã tìm cách mở rộng về phía đông, một mối đe dọa nghiêm trọng đã buộc Aq Qoyunlu phải liên minh với Karamanids ở trung tâm Anatolia.
Ngay từ năm 1464, Uzun Hasan đã yêu cầu viện trợ quân sự từ một trong những kẻ thù mạnh nhất của Đế chế Ottoman, Venice. Bất chấp lời hứa của Venice, viện trợ này không bao giờ đến và kết quả là, Uzun Hassan đã bị Ottoman đánh bại trong Trận Otlukbeli năm 1473, [13] mặc dù thất bại này không phá hủy được Aq Qoyunlu.
Khi Uzun Hasan qua đời vào đầu năm 1478, ông được con trai Khalil Mirza kế vị, nhưng sau đó đã bị đánh bại bởi một liên minh dưới quyền em trai Ya'qub tại Trận Khoy vào tháng Bảy.[14]
Ya'qub, người trị vì từ năm 1478 đến 1490, đã duy trì triều đại lâu hơn. Tuy nhiên, trong bốn năm đầu tiên trị vì của ông, có bảy người giả danh ngai vàng phải bị đặt xuống.[15] Sau cái chết của Ya'qub, cuộc nội chiến lại nổ ra, Aq Qoyunlus tự hủy diệt từ bên trong và họ không còn là mối đe dọa đối với hàng xóm. Safavids ban đầu, những người theo lệnh của tôn giáo Safaviyya, bắt đầu phá hoại sự trung thành của Aq Qoyunlu. Safavids và Aq Qoyunlu đã gặp nhau trong trận chiến ở thành phố Nakhchivan năm 1501 và lãnh đạo Safavid Ismail I đã buộc Aq Qoyunlu phải rút lui.[16]
Trong cuộc rút lui khỏi Safavids, lãnh đạo Aq Qoyunlu Alwand đã phá hủy một nhà nước tự trị của Aq Qoyunlu ở Mardin. Nhà lãnh đạo Aq Qoyunlu cuối cùng, Murad, anh trai của Alwand, cũng bị đánh bại bởi cùng một nhà lãnh đạo Safavid. Mặc dù Murād đã nhanh chóng thành lập tại Baghdad vào năm 1501, nhưng ông đã sớm rút lui về Diyar Bakr, báo hiệu sự kết thúc của thời đại Aq Qoyunlu.
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ FARUK SÜMER,"AKKOYUNLULAR", TDV İslâm Ansiklopedisi, https://islamansiklopedisi.org.tr/akkoyunlular (in Turkish).
- ^ Aq Qoyunlu, R. Quiring-Zoche, Encyclopædia Iranica, (ngày 15 tháng 12 năm 1986);"Christian sedentary inhabitants were not totally excluded from the economic, political, and social activities of the Āq Qoyunlū state and that Qara ʿOṯmān had at his command at least a rudimentary bureaucratic apparatus of the Iranian-Islamic type.."
"With the conquest of Iran, not only did the Āq Qoyunlū center of power shift eastward, but Iranian influences were soon brought to bear on their method of government and their culture.."" - ^ Kaushik Roy, Military Transition in Early Modern Asia, 1400-1750, (Bloomsbury, 2014), 38;"Post-Mongol Persia and Iraq were ruled by two tribal confederations: Akkoyunlu (White Sheep) (1378–1507) and Qaraoyunlu (Black Sheep). They were Persianate Turkoman Confederations of Anatolia (Asia Minor) and Azerbaijan."
- ^ Michael M. Gunter, Historical dictionary of the Kurds (2010), p. 29
- ^ “Ak Koyunlu”. Encyclopaedia Britannica.
- ^ Mikaberidze, Alexander (2011). Conflict and Conquest in the Islamic World: A Historical Encyclopedia, vol. 1. Santa-Barbara, CA: ABC-Clio. tr. 431. ISBN 978-159884-336-1."His Qizilbash army overcame the massed forces of the dominant Ak Koyunlu (White Sheep) Turkomans at Sharur in 1501...".
- ^ The Book of Dede Korkut . University of Texas Press. 1972. tr. Introduction. ISBN 0-292-70787-8."Better known as Turkomans... the interim Ak-Koyunlu and Karakoyunlu dynasties..."
- ^ Türkmen Akkoyunlu İmparatorluğu: Türkmen Akkoyunlu İmparatorluğu makaleler antolojisi (in Turkish). Grafiker. 2003. tr. 418. ISBN 9759272172.
- ^ electricpulp.com. “AQ QOYUNLŪ – Encyclopaedia Iranica”. www.iranicaonline.org. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2018.
- ^ Sinclair, T.A. (1989). Eastern Turkey: An Architectural & Archaeological Survey, Volume I. Pindar Press. tr. 111. ISBN 9780907132325.
- ^ Minorsky, Vladimir (1955). “The Aq-qoyunlu and Land Reforms (Turkmenica, 11)”. Bulletin of the School of Oriental and African Studies, University of London. 17 (3): 449. doi:10.1017/S0041977X00112376.
- ^ Robert MacHenry. The New Encyclopædia Britannica, Encyclopædia Britannica, 1993, ISBN 0-85229-571-5, p. 184.
- ^ Eagles 2014, tr. 46.
- ^ Woods, John E. (1999) The Aqquyunlu: Clan, Confederation, Empire, University of Utah Press, Salt Lake City, p. 128, ISBN 0-87480-565-1
- ^ Woods, John E. (1999) The Aqquyunlu: Clan, Confederation, Empire, University of Utah Press, Salt Lake City, p. 125, ISBN 0-87480-565-1
- ^ Thomas & Chesworth 2015, tr. 585.