August của Württemberg

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(Đổi hướng từ August xứ Württemberg)
August của Württemberg
August von Württemberg
Chân dung August của Württemberg
Thông tin chung
Sinh(1813-01-24)24 tháng 1 năm 1813
Stuttgart, Vương quốc Württemberg
Mất12 tháng 1 năm 1885(1885-01-12) (71 tuổi)
Ban de Teuffer, Zehdenick, tỉnh Brandenburg, Vương quốc Phổ
Phối ngẫuMarie Bethge
Hậu duệHelene von Wardenberg
Tên đầy đủ
tiếng Đức: Friedrich August Eberhard
Tước vịVương tôn August của Württemberg Điện hạ
Vương tộcNhà Württemberg
Thân phụPaul của Württemberg
Thân mẫuCharlotte xứ Sachsen-Hildburghausen

Friedrich August Eberhard của Württemberg[1][2] (tiếng Đức: Friedrich August Eberhard von Württemberg[1][2] (24 tháng 1 năm 1813 tại Stuttgart, Vương quốc Württemberg[1][2]12 tháng 1 năm 1885 tại Ban de Teuffer, Zehdenick, tỉnh Brandenburg, Vương quốc Phổ[1][2]) là một Thượng tướng Kỵ binh của Quân đội Hoàng gia Phổ với quân hàm Thống chế, và là Tướng tư lệnh của Quân đoàn Vệ binh trong vòng hơn 20 năm. Ông là một thành viên của hoàng tộc nhà Württemberg và là một hoàng tử của Vương quốc Württemberg.

Ông được nhìn nhận là một viên chỉ huy tài năng, đã đóng góp không nhỏ đến việc thành lập Đế quốc Đức vào ngày 18 tháng 1 năm 1871.[3]

Thân thế[sửa | sửa mã nguồn]

August là người con trai thứ năm và là con trai út của Hoàng thân Paul của Württemberg, em của vua Wilhelm I của Württemberg, và vợ ông này là Công nương Charlotte xứ Sachsen-Hildburghausen.[1][2]

Sự nghiệp quân sự[sửa | sửa mã nguồn]

Sau 16 phục vụ trong quân ngũ của Vương quốc Württemberg, vào năm 1831 August được thăng cấp Trưởng quan (Rittmeister) trong Trung đoàn Kỵ binh số 1. Vào tháng 4 năm 1831, August được vua bác là Wilhelm I của Württemberg chấp thuận cho gia nhập Quân đội Phổ.

Trong Quân đội Phổ, August ban đầu được đưa vào Trung đoàn Vệ binh (Gardes du Corps) và một năm sau ông được thăng cấp Thiếu tá. Đến năm 1836, August lại được phong cấp Thượng tá và vào năm 1838 ông trở thành Đại tá. August đã phục vụ với tư cách là một Biệt kích trong Trung đoàn Thiết kỵ binh Cận vệ trong vòng 4 năm. Vào năm 1844, với cấp bậc Thiếu tướng, ông nhận quyền chỉ huy Lữ đoàn Kỵ binh Cận vệ số 1 và ngay từ năm 1850 ông đã được thăng làm Trung tướng. Trong khoảng thời gian gián đoạn ngắn ngủi kéo dài 2 năm (từ năm 1854 cho đến năm 1856), ông chỉ huy Sư đoàn số 7 tại Magdeburg, nhưng vẫn trung kiên với lực lượng kỵ binh. Vào tháng 9 năm 1857, ông trở thành Tướng tư lệnh của Quân đoàn III, nhưng ngay từ ngày 3 tháng 6 năm 1858 ông đã được chuyển thành Tướng tư lệnh của Quân đoàn Vệ binh. Ông đã giữ chức vụ này trong suốt 20 năm.

Trong cuộc Chiến tranh Áo-Phổ năm 1866, August tham gia chỉ huy trong binh đoàn của Thái tử Friedrich Wilhelm. Với tư cách là Tư lệnh kỵ binh của Quân đoàn Vệ binh, ông đã chỉ đạo các lực lượng của mình đập tan sự kháng cự của quân đội Áo trong trận Soor và Burkersdorf vào ngày 28 tháng 6 năm 1866, đánh chiếm Trautenau. Sau đó, vào ngày 29 tháng 6, Quân đoàn Vệ binh tinh nhuệ cũng đột chiếm Königinhof từ tay người Áo. Trong trận Königgrätz vào ngày 3 tháng 7 năm 1866, các đơn vị dưới quyền ông đã giành thắng lợi quyết định tại Chlum. Tuy nhiên, viên tham mưu trưởng tài giỏi của August, Thượng tá von Dannenberg, đã đóng một vai trò rất nổi bật trong những chiến thắng của các lực lượng Phổ. Sau chiến dịch, vua Wilhelm I của Phổ đã ban tặng cho August Huân chương Quân công (Pour le Mérite), và bổ nhiệm ông làm chỉ huy trưởng của Trung đoàn Thương kỵ binh Posenschen số 1 tại Züllichau, và trung đoàn này đã mang tên ông cho tới khi được giải tán vào năm 1919.

Trong cuộc Chiến tranh Pháp-Phổ, Quân đoàn Vệ binh đã đóng một vai trò quan trọng tại trận Gravelotte vào ngày 18 tháng 8 năm 1870. Cuộc tấn công của Vệ binh Phổ đã rơi vào nguy cơ bị quân Pháp chặn đứng lúc 4 giờ chiều. Vào 4 giờ 50 phút chiều 18 tháng 8, Lữ đoàn Cận vệ số 3 và Binh đoàn thứ hai tấn công St. Privat, nhưng sức mạnh của pháo binh hiệu Krupp của Phổ đã ngăn chặn quân Pháp. Mặc dù gặp khó khăn trước hỏa lực ác liệt của Pháp, nhiều lữ đoàn Vệ binh khác cũng nhập trận. Với sự hỗ trợ của pháo binh từ Binh đoàn thứ nhất vốn đã bại trận, Vệ binh Phổ tiến công và cuối cùng đã chiếm được St. Privat, đánh tan nát quân Pháp và buộc đối phương phải rút lui.[4] Về sau, Quân đoàn Vệ binh dưới quyền August được đã gia nhập trong các lực lượng dưới quyền Albert, Thái tử Sachsen, đồng thời tham gia trong trận Sedancuộc vây hãm Paris. Cũng trong cuộc chiến, tham mưu trưởng Ferdinand von Dannenberg đã được thăng lên cấp bậc tướng.

August đã thay mặt cho người cháu gọi ông bằng chú là vua Karl I của Württemberg đến tham dự lễ thành lập Đế quốc Đức vào ngày 18 tháng 1 năm 1871.[5][6] Sau khi cuộc chiến tranh kết thúc, Tư lệnh Quân đoàn Vệ binh August xứ Württemberg vẫn tại nhiệm và được Quốc vương Phổ ban tặng Lá sồi của Huân chương Quân công, cùng với Huân chương Thập tự Sắt hạng một và hạng hai. Vào ngày 2 tháng 9 năm 1873, ông được bổ nhiệm làm "Thượng tướng Kỵ binh" với quân hàm Thống chế. Vào tháng 6 năm 1878, ông được đổi làm tư lệnh Oberkommando der Marken, thay thế cho Thống chế Friedrich Graf von Wrangel, và ông giữ chức vụ này trong suốt 4 năm. Vào ngày 24 tháng 8 năm 1882, ông xin nghỉ hưu. Yêu cầu này đã được chấp thuận, và ông được phong làm Hiệp sĩ của Huân chương Đại Bàng đen.

Qua đời và di sản[sửa | sửa mã nguồn]

Trong một chuyến đi săn tại Zehdenick gần Berlin, Hoàng thân August vào ngày 12 tháng 1 năm 1885. Tang lễ của ông đã được tổ chức 4 ngày sau đó tại Nhà thờ quân sự Garnisonkirche của Berlin. Thi hài ông được chuyển đến Cung điện Ludwigsburg, nơi ông được chôn cất trong nhà nguyện của cung điện. Pháo đài August von Württemberg, một trong những công sự thuộc vành đai bên trong của hệ thống công sự tại Metz, đã đặt theo tên ông để vinh danh ông.

Thành viên Nghị viện Württemberg[sửa | sửa mã nguồn]

Là một Vương tôn của Vương tộc Württemberg kể từ năm 1830, August là một nghị sĩ trong Nghị viện Württemberg (Württembergische Landstände), nhưng không bao giờ tham gia trong các cuộc hội họp của nghị viện. Ông được những thành viên khác của nghị viện thay mặt, mà người cuối cùng trong số đó là Andreas Renner.

Hôn nhân và con cái[sửa | sửa mã nguồn]

August đã kết hôn không đăng đối với Marie Bethge vào ngày 14 thán 11 năm 1868.[1][2] August và Marie có một người con gái:[1][2]

Helene von Wardenberg đã kết hôn với Dedo von Schenck (11 tháng 2 năm 1853 tại Lâu đài Mansfeld28 tháng 4 năm 1918 tại Wiesbaden) năm 1884 tại thủ đô Berlin.

Tước hiệu và danh hiệu[sửa | sửa mã nguồn]

Tổ phụ[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g Darryl Lundy (24 tháng 7 năm 2005). “Friedrich August Everard Prinz von Württemberg”. The Peerage. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2010.
  2. ^ a b c d e f g Paul Theroff. “WÜRTTEMBERG”. Paul Theroff's Royal Genealogy Site. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2010.
  3. ^ "Men who have made the new German empire. A series of brief biographic sketches"
  4. ^ Nigel Cawthorne, The Immortals: History's Fighting Elites, trang 73
  5. ^ Dr. Theodor Toeche-Mittler: Die Kaiserproklamation in Versailles am 18. Januar 1871 mit einem Verzeichniß der Festtheilnehmer, Ernst Siegfried Mittler und Sohn, Berlin 1896
  6. ^ H. Schnaebeli: Fotoaufnahmen der Kaiserproklamation in Versailles, Berlin 1871

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  • Wolfgang Hausen: Königlich Preußischer Generaloberst der Kavallerie mit dem Range eines Generalfeldmarschalls Prinz August von Württemberg. In: Deutsches Soldatenjahrbuch 1985; Schild Verlag, München 1985; ISBN 3-88014-082-0.
  • G. L. M. Strauss (2 tập), "Men who have made the new German empire. A series of brief biographic sketches", London, Tinsley brothers, 1875.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

Tư liệu liên quan tới Prince August of Würrtemberg tại Wikimedia Commons