Aurora (ca sĩ)
Bài viết này là công việc biên dịch đang được tiến hành từ bài viết Aurora Aksnes từ tiếng Tây Ban Nha sang tiếng Việt. Bạn có thể giúp Wikipedia bằng cách hỗ trợ dịch và trau chuốt lối hành văn tiếng Việt theo cẩm nang của Wikipedia. |
Aurora | |
---|---|
![]() | |
![]() Aurora biểu diễn tại nhạc hội Electric Castle ở Cluj-Napoca, Romania (2021) | |
Thông tin nghệ sĩ | |
Tên khai sinh | Aurora Aksnes |
Sinh | 15 tháng 6 năm 1996 Stavanger, Na Uy[1] |
Thể loại | |
Nghề nghiệp |
|
Nhạc cụ |
|
Năm hoạt động | 2012 – nay |
Hãng đĩa | |
Hợp tác với | |
Website | aurora-music |
Aurora Aksnes (phát âm tiếng Na Uy: [æʉ̯ˈɾùːɾɑ ˈɑ̂ksˌneːs]; sinh ngày 15 tháng 6 năm 1996),[2][3] còn được biết đến với nghệ danh AURORA (thường được viết in hoa tất cả các kí tự), là một ca sĩ - nhạc sĩ người Na Uy.
Đĩa đơn mở rộng đầu tay của cô "Running with the Wolves", đã được ra mắt vào tháng 5 năm 2015 thông qua hãng thu âm Decca Records,[4] nhận được nhiều sự ủng hộ từ các trang web nhạc online và giới báo chí.
Đầu đời[sửa | sửa mã nguồn]
Aurora chào đời ngày 15 tháng 6 năm 1996 tại Bệnh viện Đại học Stavanger ở Stavanger. Mẹ cô là May Britt (nhũ danh Froastad), làm nghề hộ sinh, còn cha cô là Jan Øystein Aksnes, làm nghề bán cửa garage.[5][6] Cô là em út trong gia đình gồm ba chị em gái: chị cả là Miranda, một nghệ sĩ trang điểm từng làm giáo viên;[7] người chị kia là Viktoria, một nhà thiết kế thời trang, nhà tạo mẫu, và blogger.[8][9] Cô dành ba năm thời thơ ấu tại thị trấn Høle, nơi gắn bó với cha mẹ cô suốt 15 năm cuộc đời.[5] Trong quãng thời gian ở đó, Aurora phát triển niềm yêu thích đối với tự nhiên, ca hát, và trang phục truyền thống.[5] Về sau, gia đình cô chuyển tới sống tại một ngôi làng nhỏ ở vùng Drange hẻo lánh của Hordaland, nằm giữa bạt ngàn rừng cây của dãy núi Os, gần Bergen và Lysefjord.[10] Aurora miêu tả về Høle như sau: "Hầu như chẳng có bóng dáng xe cộ, những con đường thì nhỏ nhắn và gồ ghề, cây cối thì mọc khắp nơi, nó rất yên bình, và mạng internet rất tệ."[11] Cô cũng từng ví nó như là vùng đất viễn tưởng Narnia.[12][13]
Aurora tự coi mình là "người của rừng" do cô vốn sống biệt lập giữa thiên nhiên từ thuở nhỏ và cũng một phần do sở thích "trèo cây" của cô.[14] Khi Aurora còn ngồi trên ghế nhà trường, những người chị của cô — Miranda và Viktoria Aksnes — từng lo lắng rằng cô sẽ bị bắt nạt bởi tính cách và lối ăn mặc khác thường của cô.[15] Trái lại, bạn bè trong lớp rất quý mến Aurora và muốn dành thật nhiều thời gian với cô, song bản thân cô vẫn muốn được lẩn vào rừng cây hơn.[16] Aurora nói rằng được bao bọc trong thiên nhiên giúp cô có thời gian để suy ngẫm và tìm hiểu về "sức mạnh" tâm trí hơn.[17] Hồi nhỏ, cô rất sợ bị người khác ôm: "Mình từng rất sợ bị ai đó ôm ấp", cô thổ lộ. "Mình không thích được ôm khi còn bé. Và mình từng rất sợ một giáo viên ở trường, nhưng mấy tháng trước mình gặp lại ông ấy, và cảm giác khá tuyệt. Thật kì lạ khi mọi thứ đã đổi thay."[18]
Một trong những kí ức âm nhạc sớm nhất của Aurora là dịp cô tình cờ phát hiện cây piano điện tử cũ của chị gái Miranda trong căn gác xép của bố mẹ, và bị cuốn hút bởi những giai điệu mà nó có thể tạo ra,[19] hoặc là dịp cô hát theo ca khúc "Don't Worry, Be Happy" ở bàn ăn gia đình.[20] Tuy rằng bố mẹ cô từng tham gia một dàn hợp xướng hát ca khúc đó như một thú tiêu khiển, Aurora là thành viên duy nhất trong gia đình theo đuổi nghiệp ca sĩ.[21] Cô bắt đầu tập luyện piano khi mới 6 tuổi: "Mình rất thích nhạc cổ điển, và khi mình tìm thấy cây piano này trong gác xép, mình đã bấm loạn xạ các phím và cố nghĩ ra những bài hát cổ điển mà mình ưa thích. Mình bắt đầu tạo ra những giai điệu quen thuộc. Có một điều gì đó thật đặc biệt khi mình có thể tự chơi đàn – điều gì đó liên quan đến cảm xúc cứ thôi thúc mình chơi tiếp."[19] Năm 9 tuổi, khi trình độ tiếng Anh đã được cải thiện, cô bắt đầu chắp bút viết lời bài hát.[12] Aurora kể rằng những nhạc sĩ như Leonard Cohen, Bob Dylan, Enya, và the Chemical Brothers hồi đó là niềm cảm hứng cho cô.[22][23]
Sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]
2012–2016: Running with the Wolves và All My Demons Greeting Me as a Friend[sửa | sửa mã nguồn]

Ca khúc "Puppet[24]" do Aurora tự phát hành vào tháng 12 năm 2012 là sản phẩm đơn ra mắt đầu tiên cô dùng tên khai sinh.[25] Aurora tiếp tục sáng tác khoảng một năm cho đến khi biểu diễn "tiết mục live chỉn chu đầu tiên" tại Nabovarsel Minifestival ở Bergen. Cô nhận xét về buổi diễn ấy như sau: "Mình không nghĩ là mình được sinh ra để làm người trình diễn. Mình từng rất sợ biểu diễn trực tiếp trên sân khấu. Tất nhiên là nó rất đáng sợ! Song, giờ mình đã học được, và mình đã học được cách không quá tập trung vào bản thân, bởi vì nó chưa từng là về mình. Giờ mình chỉ nghĩ đến việc mang tới cho mọi người một trải nghiệm thú vị. Một khoảnh khắc ma thuật."[18][26] Sản phẩm đơn thứ hai của cô, "Awakening", tiếp nối vào tháng 3 năm 2014; đây cũng là lần đầu tiên cô dùng nghệ danh Aurora.[27] Ca khúc đơn thứ ba của cô phát hành vào tháng 11 năm 2014, "Under Stars", là sản phẩm đầu tiên cô kí kết với hai hãng đĩa Glassnote Records và Decca Records. Hai ca khúc này đã giúp cô có được danh hiệu "Nghệ sĩ Triển vọng" của năm 2015 và thu hút sự chú ý của giới phê bình châu Âu và Hoa Kỳ, đặc biệt là với giọng ca cực kỳ nổi bật của cô.[28][29][30][31] Sản phẩm đơn tiếp theo của cô là "Runaway", được phát hành vào tháng 2 năm 2015, đã thu hút sự chú ý của hai ca sĩ Katy Perry và Troye Sivan.[32][33]
Phong cách nghệ thuật[sửa | sửa mã nguồn]
Ảnh hưởng[sửa | sửa mã nguồn]
Những ảnh hưởng ban đầu của Aurora bị hạn chế, vì ở nhà, cô không được tiếp cận với đài phát thanh hoặc các kênh âm nhạc trên truyền hình, và thậm chí cả khi bước vào sự nghiệp ca hát, cô thừa nhận rằng mình đã nghe rất ít nghệ sĩ.
Cô ấy đã đề cập đến Enya, Bob Dylan, Leonard Cohen, the Beatles, Johnny Cash, Underworld, Oasis, Björk, Kate Bush, và Ane Brun như ảnh hưởng lớn về âm nhạc của mình. Aurora từng nói rằng album đầu tiên cô ấy mua là "Blonde on Blonde" của "Bob Dylan".
Aurora cũng nói về heavy metal như là một nguồn cảm hứng chính cho cô từ khi còn nhỏ, ban nhạc Pháp: Gojira là "ban nhạc yêu thích" của cô mình và đã tham dự hai buổi hòa nhạc của họ.
Aurora cũng bày tỏ sự ngưỡng mộ của mình đối với nhạc sĩ nhạc rock Iggy Pop, và kể rằng khi gặp anh ấy trong một lễ hội ở Bỉ, cô ấy đã "vui đến mức suýt tè ra quần"[34]
Cô ấy đã cover một số bài hát của những người có ảnh hưởng với mình, một số trong số đó là "Mr. Tambourine Man"[35], "Famous Blue Raincoat"[36], "Life on Mars"[37]...
Phong cách và chủ đề âm nhạc[sửa | sửa mã nguồn]
Trang cá nhân của Aurora trên website Glassnote Records có trích những câu nói sau:[38]
Mình không muốn viết các ca khúc sầu bi để khiến người ta buồn, [điều này sẽ khiến] mình có nhiều người hâm mộ bị trầm cảm. Đó không phải mong muốn của mình. Song mình vẫn muốn mọi người biết rằng việc khóc hoặc nghĩ về gì đó buồn trong một khoảng thời gian ngắn không có gì là nguy hiểm cả. Điều này có thể được lột tả dễ dàng hơn thông qua một bài hát, thứ mà vừa có thể đẹp lại vừa có thể buồn. Như thể uống thuốc với một muỗng đường vậy. Điều quan trọng là phải có một chút hi vọng.
Đời tư[sửa | sửa mã nguồn]

Aurora hiện đang sống ở Bergen, nhưng cũng thường xuyên về vùng quê Os để thăm bố mẹ.[39] Cô coi mình là người hướng nội.[40] Sau khi một người bạn của gia đình cô mất vào Đêm Giáng sinh, Aurora năm ấy 11 tuổi đã phải chứng kiến cảnh u sầu thảm thiết của người thân khi làm tang lễ. Trải nghiệm này đã khiến cô mắc chứng loạn phát âm, và buộc cô phải học ngôn ngữ ký hiệu.[16] Sau khi một người bạn của cô tại lớp thủ ngữ qua đời do tại nạn xe hơi, Aurora đã trình bày ca khúc "Why Did You Go a Place?" chia buồn trong tang lễ.[41] Một người bạn khác của cô cũng không may qua đời vào năm 2011 trong vụ thảm sát Utøya khi mới 17 tuổi.[16] Aurora viết bài hát "Little Boy in the Grass" để tưởng niệm người bạn cũng như các nạn nhân của biến cố ấy.[42]
Aurora nhận diện mình thuộc giới song tính luyến ái.[43] Khi được hỏi về xu hướng tính dục của bản thân trong một cuộc phỏng vấn với tờ The Independent, cô đã phát biểu như sau: "Mình chỉ muốn tận hưởng những gì tồn tại ngoài kia, và mình thích khám phá. Yêu mọi thứ xung quanh bạn và bạn đang yêu chính bản thân mình."[44] Cô từng nuôi mèo làm thú cưng hồi nhỏ,[16] và khi lớn lên cô có trồng một cây tảo cầu tên là "Igor Septimus", vốn là một món quà của người hâm mộ từ Thụy Sĩ. Theo Aurora, nó là một trong "những người bạn thân" của cô và cô rất thích đặt nó trên tủ lạnh.[45]
Cuối năm 2021, Aurora thông báo rằng cô chính thức lên chức dì sau khi chị gái để một bé trai.[46]
Hình ảnh trước công chúng[sửa | sửa mã nguồn]

Vào những năm đầu, cô được chú ý với diện mạo giống con nít, da trắng nhợt không cần trang điểm và mái tóc ngắn màu vàng bạch kim, cùng màu với cặp lông mày của cô;[47][48][49] một hình ảnh mà hoàn toàn trái ngược với quãng giọng trầm và các ca khúc có ý nghĩa sâu xa của cô.[49][50] Aurora sau đổi kiểu tóc mà cô gọi là "viking Na Uy",[12][51] và kể từ năm 2018 đã chuyển sang kiểu "hai lớp" (dài ở trước và ngắn ở sau) giống với các nhân vật anime.[52] Vào giai đoạn giữa sự ra mắt của Infections of a Different Kind (Step 1) và A Different Kind of Human (Step 2), cô thường tô điểm khuôn mặt với những đường vẽ, biểu tượng cho "nước mắt và những đường nếp biểu cảm."[53]
Cô là người ủng hộ nữ quyền[44] và nhân quyền, bao gồm các quyền thiểu số và quyền LGBT.[54][55] Cô cũng ủng hộ nhiều phong trào nâng cao nhận thức môi trường, chủ đề mà được cô khai thác và quyện với những ca khúc như "Apple Tree", "The Seed", và "Soulless Creatures" trong album "A Different Kind of Human (Step 2)".[56][57] Cô cũng hưởng ứng các vận động của nhóm Coldplay và nhà hoạt động Greta Thunberg.[58]
Tủ áo quần của Aurora được thiết kế chủ yếu từ vải vóc tái sử dụng bởi chính cô và chị gái Viktoria.[59][52] Aurora là người ăn chay,[60] và có quan điểm rằng nhận thức của một cá nhân về lựa chọn thức ăn là một phần cực kỳ quan trọng của nếp sống quan tâm đến môi trường.[61]
Danh sách nhạc[sửa | sửa mã nguồn]
Album phòng thu[sửa | sửa mã nguồn]
Tên | Chi tiết | Vị trí bảng xếp hạng | |||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
NOR |
AUS |
GER |
IRL |
UK |
US | ||
All My Demons Greeting Me as a Friend |
|
1 | 51 | 24 | 66 | 28 | 150 |
A Different Kind of Human (Step 2) |
|
4 | 52 | 58 | ? | 32 | 5 |
The Gods We Can Touch |
|
Đĩa mở rộng[sửa | sửa mã nguồn]
Tên | Chi tiết |
---|---|
Infections Of A Different Kind - Step 1 |
|
Đĩa đơn[sửa | sửa mã nguồn]
Là ca sĩ chính[sửa | sửa mã nguồn]
Năm | Tên | Vị trí bảng xếp hạng | Album | |||
---|---|---|---|---|---|---|
GER |
IRE |
UK |
US Alt | |||
2013 | "Awakening" | — | — | — | — | Running with the Wolves |
2014 | "Under Stars" | — | — | — | — | For the Metal People |
2015 | "Runaway" | — | — | — | — | Running with the Wolves - EP |
"Running with the Wolves" | 72 | — | — | — | ||
"Murder Song (5, 4, 3, 2, 1)" | — | — | — | — | All My Demons Greeting Me as a Friend | |
"Half the World Away" | — | 22 | 10 | — | ||
2016 | "Conqueror" | — | — | — | 32 | |
"I Went Too Far" | — | — | — | — | ||
"In the Night" | — | — | — | — | ||
2021 | "Cure For Me" | ? | ? | ? | ? | The Gods We Can Touch |
"—"Không phát hành |
Hợp tác[sửa | sửa mã nguồn]
Năm | Tên | Album |
---|---|---|
2016 | "Home" (Icarus featuring Aurora) | N/A |
2022 | Everything Matters (ft. Pomme) | The Gods We Can Touch |
2022 | Storm (ft. Qing Feng) | N/A |
2023 | Butterfiles (Tom Odell ft. AURORA) |
Khác[sửa | sửa mã nguồn]
Năm | Tên | Album |
---|---|---|
2016 | "Life on Mars" | Girls, Vol. 3 (Music from the HBO Original Series) |
2021 | Midas Touch | HANNA SOUND TRACKS |
Danh sách phim[sửa | sửa mã nguồn]
Phim điện ảnh[sửa | sửa mã nguồn]
Năm | Nhan đề | Vai trò | Chú thích |
---|---|---|---|
2019 | Frozen II | Tiếng gọi | |
2020 | Wolfwalkers | Soundtrack của phim | Bản ghi âm lại của "Running with the Wolves" |
Phim ngắn[sửa | sửa mã nguồn]
Năm | Nhan đề | Vai | Sản xuất |
---|---|---|---|
2015 | Into the Light | Bản thân | Greg Kotler (Kasafilms) |
2016 | Nothing Is Eternal | The Fader | |
2018 | Once Aurora | Flimmer Film | |
2020 | Daydreamer | Intro music | Apple WWDC 2020 |
Phim truyền hình[sửa | sửa mã nguồn]
Year | Title | Role | Note |
---|---|---|---|
2017 | Creeped Out | Narrator | Aurora's voice was featured in series 1 trailer |
2018 | En gang Aurora[68] | Herself | Documentary |
Giải thưởng và đề cử[sửa | sửa mã nguồn]
Năm | Tổ chức | Giải thưởng | Đối tượng nhận | Kết quả | Ref. |
---|---|---|---|---|---|
2014 | P3 Gull | Årets Nykommer (Người mới của Năm) | Bản thân | Đề cử | [69] |
2015 | EBBA Awards '16 by Eurosonic Noorderslag |
Album of the Year: Norway | Running with the Wolves | Đoạt giải | [70] |
Public Choice Award | Bản Thân | Đề cử | |||
2016 | Spellemannprisen '15 | Årets Nykommer (Người mới của Năm) | Đoạt giải | [71] | |
Gramo scholarship | Đoạt giải | [72] | |||
MTV Europe Music Awards | Best Norwegian Act | Đề cử | [73] | ||
YouTube Creator Awards | Silver Creator Awards | Đoạt giải | [74] | ||
GAFFA-Prisen | Årets Norske Album | All My Demons Greeting Me as a Friend | Đoạt giải | [75] | |
2017 | Spellemannprisen '16 | Popsolist (Pop Solo Artist) | Đoạt giải | [76] | |
Årets Album | Đề cử | [77] | |||
Årets Musikkvideo (MV của năm) | "I Went Too Far" | Đoạt giải | [76] | ||
Guild of Music Supervisors Awards | Best Song/Recording Created for Television | "Life on Mars" (Girls: Episode 505) | Đề cử | [78] | |
2018 | Spellemannprisen '17 | Music Video of the Year | "Queendom" | Đề cử | [79] |
2019 | Academy Awards | Best Original Song | "Into the Unknown" | Đề cử | [80] |
Critics' Choice Movie Awards | Best Song | Đề cử | [81] | ||
Golden Globe Awards | Best Original Song | Đề cử | [82] | ||
Satellite Awards | Best Original Song | Đề cử | [83] | ||
2020 | Spellemannprisen '19 | Årets Internasjonale Suksess (International Success of the Year) | Bản Thân | Đề cử | [84] |
2021 | P3 Gull | Årets artist (Artist of the Year) | Đề cử | [85] | |
2022 | Spellemannprisen '21 | Årets Internasjonale Suksess (International Success of the Year) | Bản Thân | Đoạt giải | [86] |
2nd NYX Awards '21 | Marketing / Advertising Campaigns – Original Song | Everything Matters | Đoạt giải | ||
Branded Content – Original Song | Đoạt giải | ||||
Cresta Awards '22 | Use of Music | Đoạt giải | [87] | ||
UK Music Video Awards | Best Live Video | "A Touch of the Divine" | Đề cử | [88] | |
P3 Gull | Honorary | Bản Thân | Đoạt giải | [89] |
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ “Aurora Aksnes”. Brak. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2016.
- ^ Silje Kathrine Sviggum. “En fri fugl”. Magasinet, vedlegg til Dagbladet 2019.06.29 (bằng tiếng Na Uy). Oslo. tr. 28–35. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2019.
- ^ @AURORAmusic. “Love Red heartRed heart #aurorawarrior I feel so lucky to have people supporting me, thank you so much! This is the last day as an 18 year old!!” (Tweet) – qua Twitter.
- ^ "Aurora Announces Debut EP Titled Running with the Wolves" Lưu trữ 2019-12-07 tại Wayback Machine. pastemagazine.com.
- ^ a b c “– Eg trur eg har noko av magien frå Høle med på mi reise ut i verda / Aurora budde sine fyrste år i Sandnes”. sandnesposten.no (bằng tiếng Na Uy). 26 tháng 8 năm 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2019.
- ^ AURORA – på Lindmo – Interview and Runaway (Live). YouTube. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2019.
- ^ Team Aksnes on God Morgen Norge [Subtitled]. YouTube. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2019.
- ^ AURORA and Viktoria (interview). YouTube. 17 tháng 4 năm 2016.
- ^ “Victoria Aksnes”. Studio Boi. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2019.
- ^ Weiß, Katharina (19 tháng 8 năm 2019). “A Beautiful Soul”. MYP Magazine. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2020.
- ^ Jupp, Emily (14 tháng 3 năm 2016). “Singer Aurora on her debut album and the John Lewis Christmas advert”. The Independent. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2019.
- ^ a b c Petrarca, Emilia (24 tháng 7 năm 2016). “Meet Aurora, the Mythical Lovechild of Björk and Grimes”. W Magazine. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2019.
- ^ Rennert, Jenna (23 tháng 7 năm 2016). “Meet the Rising Pop Star With "Norwegian Viking Hair" That's Bringing Back the Stealth Buzzcut”. Vogue. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2019.
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênevening-standard
- ^ AURORA – Nothing is Eternal (A Documentary). YouTube. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2019.
- ^ a b c d “Jeg er vanskelig å elsk”. Dagbladet (bằng tiếng Na Uy). 25 tháng 6 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2019.
- ^ Megarry, Daniel (29 tháng 7 năm 2019). “Aurora opens up about being part of the LGBTQ community and why bigots "will never win"”. Gay Times. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2020.
- ^ a b Usinger, Mike (30 tháng 11 năm 2016). “Aurora learns not to sweat things on All My Demons Greeting Me As a Friend”. The Georgia Straight. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2019.
- ^ a b Darwin, Liza. “Aurora is Living the Teenage Dream”. Popular TV. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2019.
- ^ Sollie, Trine; Lisether, Jonas (3 tháng 10 năm 2014). “Jeg må ta vare på meg selv”. P3.no (bằng tiếng Na Uy). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2021.
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênrunning-with-aurora
- ^ Christopoulou, Danai (29 tháng 8 năm 2018). “What You Should Know About Norwegian Pop Singer Aurora”. Culture Trip. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2019.
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênauto6
- ^ AURORA - Puppet, truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2023
- ^ Vasby Bruarøy, Kjetil (16 tháng 12 năm 2012). “Debutant til topps på Urørt”. Midtsiden.no (bằng tiếng Na Uy). Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2020.
- ^ “Spotlight Interview: Aurora Aksnes”. Ja Ja Ja. 11 tháng 9 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2019.
- ^ “Awakening- Single by AURORA”. iTunes Apple (bằng tiếng Anh). 23 tháng 3 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2017.
- ^ “Class Of 2015: 40 promising artists to watch this year”. KurtTrowbridge.com. 14 tháng 1 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2017.
- ^ Hvidsten, Sigrid (1 tháng 7 năm 2014). “Sabla sceneglad!”. Dagbladet.no (bằng tiếng Na Uy). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2021.
- ^ “AURORA”. Electronic Beats. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2017.
- ^ Rodriguez, Leah (tháng 4 năm 2015). “The Soundtrack to Your Wilderness Fantasy”. NYMAG.com. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2017.
- ^ @katyperry (4 tháng 3 năm 2015). “Finally. New music that makes my ❤️a flutter. Check this 17 yr old angel @AURORAmusic RUNAWAY” (Tweet). Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2021 – qua Twitter.
- ^ @troyesivan (13 tháng 3 năm 2015). “also this is 100% my fave song at the minute” (Tweet). Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2021 – qua Twitter.
- ^ Hampp, Andrew (28 tháng 7 năm 2016). “Aurora Q&A: Inside Her YouTube Deal, 'Possessed' Performance Style and Upcoming Documentary”. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2023.
- ^ “Mr. Tambourine Man”. Aurora Aksnes Wiki (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2023.
- ^ “Famous Blue Raincoat”. Aurora Aksnes Wiki (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2023.
- ^ “Life on Mars”. Aurora Aksnes Wiki (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2023.
- ^ “Aurora”. Glassnote Records. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2022.
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có têninterview
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênl'officiel
- ^ “Why Did You Go A Place”. Facebook. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2021.
- ^ @auroramusic (22 tháng 7 năm 2021). “🖤” (Tweet). Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2021 – qua Twitter.
- ^ “Tanken på at noen vil "kurere" homofili fikk Aurora til å skrive låt”. Bergens Tidende. 6 tháng 7 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2021.
- ^ a b Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênindependent interview
- ^ @AuroraFranceOff (12 tháng 9 năm 2018). “Do you want to know who Igor Septimus is ? Then check out this little story Aurora told Universal Music Switzerland 🌿” (Tweet). Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2021 – qua Twitter.
- ^ “Se bildene fra rød løper: Sigrid ankom sammen med kjæresten”. P3.no. 27 tháng 11 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2021.
- ^ Anzola, Katiuska (26 tháng 4 năm 2016). “Aurora, un hada que saluda a sus demonios…”. Noticias 7 Días. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2017.
- ^ Kaplan, Ilana (4 tháng 5 năm 2015). “Listen to Teenage Songstress AURORA's Deft Debut EP”. Noisey Vice. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2017.
- ^ a b Fernández, Raúl (7 tháng 1 năm 2015). “Aurora: talento nórdico”. La música se mueve. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2017.
- ^ Wehner, Cyclone (20 tháng 4 năm 2016). “Norway's AURORA Talks Inspirations Behind Debut Album & Drops Laneway Festival 2017 Hint”. Music Feeds. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2017.
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên:23
- ^ a b Studarus, Laura (24 tháng 6 năm 2019). “Aurora is the Warrior Weirdo the World Needs”. CR Fashion Book. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2019.
- ^ Casey, Eridio (28 tháng 10 năm 2019). “Unraveling the Mystique Behind AURORA”. Status Magazine. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2020.
- ^ Reinhall, Lori Ann (4 tháng 3 năm 2019). “Rainbow flags and Valentine hearts”. The Norwegian American. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2020.
- ^ Delgado, Bruno (27 tháng 5 năm 2019). “Aurora, la centennial que cura el dolor del planeta con canciones”. CNN Chile (bằng tiếng Tây Ban Nha). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2020.
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênforest-of-thought
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênclean-sounds
- ^ Trendell, Andrew (5 tháng 11 năm 2021). “AURORA on COP26: "We're fighting for the wellbeing of all living things"”. NME. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2021.
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên:3
- ^ AURORA Full Facebook Live Stream (October 14, 2016). Sự kiện xảy ra vào lúc 8:57. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2021 – qua YouTube.
Are you vegan? Well, I'm a pescatarian. [...] I love sushi.
- ^ @AuroraFranceOff (21 tháng 4 năm 2019). “~ Aurora 🗣” (Tweet). Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2021 – qua Twitter.
- ^ http://lista.vg.no/liste/topp-40-album/2/dato/2016/uke/11
- ^ Ryan, Gavin (ngày 2 tháng 4 năm 2016).
- ^ a b c Hung, Steffen.
- ^ "AURORA" Lưu trữ 2018-08-23 tại Wayback Machine. chart-track.co.uk.
- ^ a b "AURORA".
- ^ a b "AURORA - Chart history".
- ^ “NRK TV – En gang Aurora”. 9 tháng 12 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2019 – qua tv.nrk.no.
- ^ “Dette er de nominerte til P3 Gull 2014”. P3.no (bằng tiếng Na Uy). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2021.
- ^ “AURORA announced as second winner of 2016 European Border Breakers Awards (EBBA) for pop, rock and dance music” (PDF). European Border Breakers Awards (EBBA). 12 tháng 10 năm 2015. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 18 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2017.
- ^ “Osingene hyller Aurora”. Bergen Savisen (bằng tiếng Na Uy). 26 tháng 2 năm 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2017.
- ^ “This Years' Spellemann Prize goes to...”. jajajamusic.com. tháng 2 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2017.
- ^ “MTV European Music Awards 2016: Vinnerne”. Gaffa.no (bằng tiếng Na Uy). 7 tháng 11 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2017.
- ^ “Youtube Creator Awards 2016”. IMDb. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2021.
- ^ “GAFFA-Prisen 2015: Og vinnerne er...”. GAFFA.no (bằng tiếng Na Uy). 1 tháng 5 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2017.
- ^ a b “Marcus og Martinus ble Årets Spellemenn”. NRK (bằng tiếng Na Uy). 30 tháng 1 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2017.
- ^ “Årets Nominerte (2016)”. Spelleman.no. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2015.
- ^ Waters, Michael (9 tháng 2 năm 2018). “Guild of Music Supervisors Awards: Winners List”. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2018.
- ^ “Vinnere Spellemannprisen 2018”. Musikknyheter.no (bằng tiếng Na Uy). 31 tháng 5 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2019.
- ^ “The 92nd Academy Awards (2020) Nominees and Winners”. Academy of Motion Picture Arts and Sciences (AMPAS). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2020.
- ^ Hammond, Pete (8 tháng 12 năm 2019). “'The Irishman', 'Once Upon A Time In Hollywood' Lead Critics' Choice Nominations; Netflix Dominates With 61 Noms In Movies And TV”. Deadline Hollywood. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2019.
- ^ “Golden Globes 2020: full list of nominations”. The Guardian. 9 tháng 12 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2019.
- ^ “2019 Winners”. International Press Academy. 19 tháng 12 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2020.
- ^ “Nominerte – 2019”. Spelleman.no (bằng tiếng Na Uy). 3 tháng 9 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2020.
- ^ “Disse er nominert til "Årets artist": – Jeg beundrer alle de nominerte!”. NRK P3 (bằng tiếng Na Uy). 16 tháng 11 năm 2021. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2021.
- ^ “Won – 2022”. Spelleman.no (bằng tiếng Na Uy). 7 tháng 5 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2020.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
- ^ “Cresta awards 2022 winners”.
- ^ “UK Music Video Awards 2022: All the nominations for this year's UKMVAs | News”.
- ^ “P3 Gold: These are this year's award winners – NRK Presse – Press releases | News”.
Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]
![]() |
Tập tin phương tiện từ Commons |
![]() |
Danh ngôn từ Wikiquote |
![]() |
Dữ liệu từ Wikidata |