Bão Alex (1987)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bão Alex (Etang)
Bão cuồng phong (Thang JMA)
Bão cấp 1 (SSHWS/NWS)
Bão Alex gần cưởng độ cực đại vào ngày 26 tháng 7
Hình thành21 tháng 7, 1987 (21 tháng 7, 1987)
Tan2 tháng 8, 1987 (2 tháng 8, 1987)
Sức gió mạnh nhấtDuy trì liên tục trong 10 phút:
120 km/h (75 mph)
Duy trì liên tục trong 1 phút:
120 km/h (75 mph)
Áp suất thấp nhất970 mbar (hPa); 28.64 inHg
Số người chết126
Thiệt hại> $1.8 triệu (USD 1987)
Vùng ảnh hưởngĐài Loan, trung tâm Trung Quốc, Hàn Quốc
Một phần của Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 1987

Bão Alex được biết đến ở Philippines với tên gọi là Bão Etang,[1] đã gây ảnh hưởng đến Đài Loan, Trung QuốcHàn Quốc trong tháng 7 năm 1987. Bão Alex phát triển từ một rãnh gió mùa gây ra nhiễu động nhiệt đới vào cuối ngày 21 tháng 7 ở phía Tây Nam Guam. Ngày hôm sau, một áp thấp nhiệt đới hình thành. Các ước tính cường độ của vệ tinh dần dần tăng lên, và vào ngày 23 tháng 7, áp thấp nhiệt đới đã mạnh lên và trở thành bão nhiệt đới Alex. Sau khi di chuyển ban đầu theo hướng Tây-Tây Bắc, bão Alex bắt đầu tiến về phía Tây Bắc. Mắt bão phát triển vào ngày 24 tháng 7 và vào ngày hôm sau, Alex được xếp vào loại bão cuồng phong, khi Alex đạt cường độ cực đại là 120 km/h (75 dặm/giờ) và áp suất khí quyển tối thiểu là 970 mbar (29 inHg). Alex suy yếu trong khi di chuyển nhiều hơn về phía bắc, mặc dù tương tác với Đài Loan dẫn đến việc đi theo hướng tây hơn bắt đầu từ ngày 27 tháng 7. Cơn bão tấn công gần Thượng Hải (khi đấy là một cơn bão nhiệt đới) và suy yếu trên đất liền, mặc dù nó vẫn có thể nhận dạng được cho đến ngày 2 tháng 8.

Bão Alex đã đổ bộ vào tỉnh Chiết Giang của Trung Quốc trong 14 giờ. Cơn bão đã làm hư hại và phá hủy hơn 200 thuyền đánh bắt cá, xóa sổ 22 cây cầu, phá hủy 32 đường dây điện, và làm ngập bốn hồ chứa. Các thành phố Ôn ChâuGia Hưng bị ảnh hưởng nặng nề nhất, lên tới 11,4 in (290 mm) mưa rơi. Thiệt hại trong khu vực vượt quá 1,8 triệu đô la Mỹ.[2] Tại đây, 34 người đã thiệt mạng.[3] Ở Gia Hưng, ít nhất là 300,000 mẫu Anh (121,406 ha) đất nông nghiệp bị phá hủy.[2] Khắp các vùng ngoại ô Thượng Hải, phía bắc nơi cơn bão di chuyển qua có 32 người bị thương và 400 ngôi nhà bị hư hại hoặc phá hủy.[4] Hơn 100 con lợn đã bị chết ở đó.[5] Một người cũng đã thiệt mạng trong trận lốc xoáy do bão ở Thượng Hải.[6] Tổng cộng có 125 người thiệt mạng, khoảng 200 người bị thương, khoảng 700 nhà cửa bị phá hủy cùng với 27,000 ha (66,72 mẫu Anh) cây trồng,khoảng 200 tàu thuyền đánh bắt cá bị hư hỏng.[7] Sau cơn bão, quân đội địa phương và dân thường đã hỗ trợ công tác cứu hộ ở Chiết Giang.[2] Trên khắp Hàn Quốc, cơn bão đã trút lượng mưa lớn, với tổng lượng mưa hàng ngày lên tới 300mm (12 in) ở một số nơi, gây ra lũ lụtsạt lở đất.

Lịch sử khí tượng[sửa | sửa mã nguồn]

Biểu đồ thể hiện đường đi và cường độ của bão theo thang Saffir-Simpson
Chú thích biểu đồ
     Áp thấp nhiệt đới (≤38 mph, ≤62 km/h)
     Bão nhiệt đới (39–73 mph, 63–118 km/h)
     Cấp 1 (74–95 mph, 119–153 km/h)
     Cấp 2 (96–110 mph, 154–177 km/h)
     Cấp 3 (111–129 mph, 178–208 km/h)
     Cấp 4 (130–156 mph, 209–251 km/h)
     Cấp 5 (≥157 mph, ≥252 km/h)
     Không rõ
Kiểu bão
▲ Xoáy thuận ngoài nhiệt đới / Vùng áp thấp / Nhiễu động nhiệt đới / Áp thấp gió mùa

Bão Alex phát triển ở rìa phía tây của rãnh gió mùa Tây Thái Bình Dương kéo dài 2.500 km (1.600 mi) gần vĩ tuyến thứ 10 về phía bắc từ quần đảo Carolina đến đường Ngày Quốc tế. Cuối ngày 21 tháng 7, hình ảnh vệ tinh lần đầu tiên phát hiện nhiễu động nhiệt đới 370 km (230 mi) về phía tây nam của Guam,[8] đã thúc đẩy Cơ quan Khí tượng Nhật Bản (JMA) nâng cấp hệ thống lên thành áp thấp nhiệt đới.[9] Lúc 06:00 UTC vào ngày hôm sau, Trung tâm Cảnh báo Bão Liên hợp (JTWC) bắt đầu theo dõi hệ thống khi vùng nhiễu động đã phát triển các tính năng dải cong. Theo sau là sự gia tăng nhanh chóng cả về đối lưu và tổ chức, và lúc 18:00 UTC vào 22 tháng 7, hình ảnh vệ tinh cho thấy sự phát triển của vùng u ám dày đặc ở trung tâm, với ước tính cường độ Dvorak hỗ trợ với cường độ 30 mph (48 km/h) . Vào lúc 19:30 UTC, JTWC đã ban hành cảnh báo về sự hình thành bão nhiệt đới mặc dù hình ảnh vệ tinh chỉ phát hiện một hoàn lưu rộng, không xác định rõ của một khu vực áp suất thấp, với áp suất khí quyển tối thiểu là 1.005 mbar (29,68 inHg). Đến 00:00 UTC vào 23 tháng 7, ước tính cường độ Dvorak đã đạt T2,5 / 40 mph (64 km/h) và một con tàu ở phía bắc của hệ thống báo cáo gió là 35 mph (56 km/h), dẫn đến việc JTWC tuyên bố hệ thống này là một áp thấp nhiệt đới.[8]

Ban đầu, áp thấp nhiệt đới đang theo dõi di chuyển về phía Tây [7] và được JTWC dự báo là sẽ di chuyển qua Quần đảo Philippines. Điều này phù hợp với hầu hết các mô hình dự báo xoáy thuận nhiệt đới cho thấy đường đi của bão qua quần đảo và chuyển hướng về phía bắc theo hướng chung của Trung Quốc, mặc dù JTWC cuối cùng đã chuyển hướng di chuyển về phía bắc vào eo biển Luzon. Lúc 06:00 UTC vào 23 tháng 7, JTWC nâng cấp áp thấp nhiệt đới thành bão nhiệt đới Alex,[8] và JMA cũng làm như vậy sáu giờ sau đó. Vào cuối buổi tối hôm sau, JMA đã nâng cấp Alex lên thành một cơn bão nhiệt đới dũ dội [9] khi các hình ảnh vệ tinh cho thấy tâm bão di chuyển dưới vùng đối lưu sâu sau khi trước đó đã lộ ra hướng đi đông bắc của nó. Tiếp tục mạnh lên từ từ,[8] Alex di chuyển về hướng Tây Bắc.[7] Nó phát triển một con mắt bão trong khoảng thời gian từ 15:00 UTC tới 18:00 UTC vào 24 tháng 7. Sáng hôm sau, JTWC tuyên bố rằng Alex là một cơn bão cuồng phong khi ước tính rằng cơn bão đạt cường độ cực đại là 75 mph (121 km/h).[8] Khi trở thành một cơn bão, Alex ở vị trí 220 km (140 mi) phía đông của cực bắc Luzon. Vào thời điểm này, hầu hết các mô hình dự báo đều cho thấy sự di chuyển về phía bắc của phía đông Đài Loan do sự suy yếu của một đới áp cao cận nhiệt đới phía nam Nhật Bản và sự hiện diện của một front thời tiết trên bờ biển phía đông của châu Á.[8] Vào tối ngày 25 tháng bảy, JMA phân loại Alex là bão cuồng phong trong khi cũng báo cáo rằng Alex đạt cường độ cao nhất là 75 mph (121 km/h) và áp suất tối thiểu là 970 mbar (29 inHg).[9] Mặc dù các hình ảnh vệ tinh tiếp tục mô tả một điểm ấm, cho thấy sự hiện diện của một con mắt,[8] cả JMA và JTWC đều ước tính rằng Alex đã giảm xuống dưới cường độ bão cuồng phong vào 26 tháng bảy.[10] Tuy nhiên, theo JMA, Alex trong một thời gian ngắn đã mạnh lên trở lại thành một cơn bão cuồng phong tối thiểu vào tối hôm đó.[9] Alex di chuyển về phía bắc vì những điều kiện thời tiết nói trên, vượt qua 55 km (34 mi) phía đông Đài Bắc. Tương tác với địa hình cao của Đài Loan khiến Alex lệch về phía tây, tấn công Ôn Châu như một cơn bão nhiệt đới đang suy yếu [8] vào tối 27 tháng 7.[7] Theo JTWC, cơn bão tan nhanh trên đất liền,[8] mặc dù JMA tiếp tục theo dõi Alex như một cơn bão nhiệt đới tối thiểu khi bão di chuyển trở lại vùng nước mở ở Biển Nhật Bản vào tối 28 tháng 7.[9] Mặc dù Alex không thể mạnh lên trở lại theo JTWC,[8] JMA vẫn tiếp tục theo dõi hệ thống như một áp thấp nhiệt đới cho đến ngày mùng 2 tháng 8.[9]

Tác động và hậu quả[sửa | sửa mã nguồn]

Đài Loan[sửa | sửa mã nguồn]

Cơn bão đầu tiên gây ra thiệt hại nhẹ ở Đài Loan, trở thành cơn bão thứ hai ảnh hưởng đến quốc gia này vào năm 1987. Một người đàn ông 35 tuổi bị bức tường đổ đè chết ở Keelung do gió mạnh.[11] Các dịch vụ hàng không và xe lửa cũng bị gián đoạn.[12]

Trung Quốc[sửa | sửa mã nguồn]

Bão Alex đã tấn công tỉnh Chiết Giang của Trung Quốc trong 14 giờ. Cơn bão đã làm hư hại hoặc phá hủy hơn 200 thuyền đánh bắt, xóa sổ 22 cây cầu, phá hủy 32 đường dây điện, và làm ngập bốn hồ chứa. Các thành phố Ôn Châu và Gia Hưng bị ảnh hưởng nặng nề nhất, tổng lượng mưa lên tới 11,4 in (290 mm) . Thiệt hại trong khu vực vượt quá 1,8 triệu đô la Mỹ.[2] Tại đây, 34 người đã thiệt mạng.[3] Ở Gia Hưng, ít nhất là 300,000 mẫu Anh (121,406 ha) đất nông nghiệp đã bị ngập lụt.[2] Khắp các vùng ngoại ô Thượng Hải, phía bắc nơi cơn bão di chuyển vào bờ, 32 người đã bị thương và 400 ngôi nhà bị hư hại hoặc phá hủy.[4] Hơn 100 con lợn đã bị giết ở đó.[5] Một người đã thiệt mạng trong trận lốc xoáy do bão ở Thượng Hải.[6] Tổng cộng, 125 người thiệt mạng và khoảng 200 người bị thương, khoảng 700 nhà cửa bị phá hủy cùng với 27,000 ha (66,72 mẫu Anh) cây trồng, khoảng 200 đánh bắt cá tàu thuyền bị hư hỏng.[7] Sau cơn bão, quân đội địa phương và dân thường đã hỗ trợ công tác cứu hộ ở Chiết Giang.[2]

[13]

Hàn Quốc[sửa | sửa mã nguồn]

Với dự đoán rằng Alex sẽ trực tiếp tấn công Hàn Quốc, các cảnh báo về bão đã được đăng tải cho đường bờ biển. Sau khi các dự báo dịch chuyển về phía Tây,[14] cảnh báo đã được hạ xuống mức cảnh báo gió lớn.[15] Ảnh hưởng đến một quốc gia bị ngập lụt bởi một loạt hệ thống bắt đầu từ cơn bão Thelma,[16] cơn bão đã gây ra lũ lụt khắp đất nước với lượng mưa lên tới 12 in (300 mm) trong một ngày. Điều này dẫn đến lũ lụt nghiêm trọng, sạt lở đất và thiệt hại về nhân mạng.[17]

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  • Bão Mamie (1985)
  • Bão Nelson (1987)

Nguồn[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Padua, Michael V. (ngày 6 tháng 11 năm 2008). PAGASA Tropical Cyclone Names 1963–1988 (Bản báo cáo). Typhoon 2000. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2018.
  2. ^ a b c d e f “Typhoon Kills 38, Injures 200 Along Coast”. Associated Press. ngày 28 tháng 7 năm 1987. Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “AP2” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
  3. ^ a b “Typhoon death toll rises to 69 in China”. United Press International. ngày 30 tháng 7 năm 1987. (cần đăng ký mua) Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “UPI5” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
  4. ^ a b “Typhoon kills 38 in China, hits Korea”. United Press International. ngày 29 tháng 7 năm 1987.
  5. ^ a b “Storm Kills 38 in China, Bypasses South Korea”. Associated Press. ngày 29 tháng 7 năm 1987. (cần đăng ký mua)
  6. ^ a b “Typhoon Thelma death toll at 69”. United Press International. ngày 29 tháng 7 năm 1987. (cần đăng ký mua)
  7. ^ a b c d e Hong Kong Observatory. Meteorological Results: 1987 (PDF) (Bản báo cáo). Hong Kong Observatory. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 23 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2018.
  8. ^ a b c d e f g h i j Joint Typhoon Warning Center; Naval Western Oceanography Center. Annual Tropical Cyclone Report: 1984 (PDF) (Bản báo cáo). United States Navy, United States Air Force. tr. 58–60. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2018.
  9. ^ a b c d e f Japan Meteorological Agency (ngày 10 tháng 10 năm 1992). RSMC Best Track Data – 1980–1989 (Bản báo cáo). Bản gốc (.TXT) lưu trữ ngày 5 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2018.
  10. ^ Kenneth R. Knapp; Michael C. Kruk; David H. Levinson; Howard J. Diamond; Charles J. Neumann. 1987 Typhoon Alex (1987202N09144) (Bản báo cáo). Bulletin of the American Meteorological Society. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2018.
  11. ^ “Foreign News Briefs”. United Press International. ngày 27 tháng 7 năm 1987.
  12. ^ “Landslides, Floods Kill At Least 74”. Associated Press. ngày 27 tháng 7 năm 1987.
  13. ^ Joint Typhoon Warning Center; Naval Western Oceanography Center. Annual Tropical Cyclone Report: 1984 (PDF) (Bản báo cáo). United States Navy, United States Air Force. tr. 58–60. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2018.
  14. ^ Sherman, Spencer (ngày 27 tháng 7 năm 1987). “International News”. United Press International.
  15. ^ Lim, CW (ngày 28 tháng 7 năm 1987). “Rains Stop, Massive Recovery Work Starts”. Associated Press.
  16. ^ “Floods, Landslides Kill At Least 61 in Seoul Area”. Associated Press. ngày 27 tháng 7 năm 1987.
  17. ^ Joint Typhoon Warning Center; Naval Western Oceanography Center. Annual Tropical Cyclone Report: 1984 (PDF) (Bản báo cáo). United States Navy, United States Air Force. tr. 58–60. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2018.

Liên kết ngoại[sửa | sửa mã nguồn]