Bão Faxai (2019)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bão Faxai
Bão cuồng phong rất mạnh (Thang JMA)
Bão cuồng phong cấp 4 (SSHWS/NWS)
Faxai ở phía Nam Yokosuka, Nhật Bản ngày 8 tháng 9.
Hình thành30 tháng 8 năm 2019
Tan11 tháng 9 năm 2019
Sức gió mạnh nhấtDuy trì liên tục trong 10 phút:
155 km/h (100 mph)
Duy trì liên tục trong 1 phút:
215 km/h (130 mph)
Áp suất thấp nhất955 mbar (hPa); 28.2 inHg
Số người chết5
Thiệt hại7 tỷ USD
Vùng ảnh hưởng
Một phần của Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 2019

Bão Faxai (14W), là cơn bão mạnh nhất đổ bộ lên khu vực thủ đô Tokyo kể từ khi siêu bão Helen năm 1958. Faxai cũng là cơn bão đầu tiên tấn công vùng Kantō kể từ Mindulle năm 2016 và là cơn bão mạnh nhất tấn công khu vực Chiba kể từ khi siêu bão Ma-on năm 2004.

Cấp bão[sửa | sửa mã nguồn]

Cấp bão (Nhật Bản): 85kts - bão CP. Áp suất 955 hPa

Cấp bão (Hoa Kỳ): 115kts - bão CP cấp 4.

Lịch sử khí tượng[sửa | sửa mã nguồn]

Biểu đồ thể hiện đường đi và cường độ của bão theo thang Saffir-Simpson
Chú thích biểu đồ
     Áp thấp nhiệt đới (≤38 mph, ≤62 km/h)
     Bão nhiệt đới (39–73 mph, 63–118 km/h)
     Cấp 1 (74–95 mph, 119–153 km/h)
     Cấp 2 (96–110 mph, 154–177 km/h)
     Cấp 3 (111–129 mph, 178–208 km/h)
     Cấp 4 (130–156 mph, 209–251 km/h)
     Cấp 5 (≥157 mph, ≥252 km/h)
     Không rõ
Kiểu bão
▲ Xoáy thuận ngoài nhiệt đới / Vùng áp thấp / Nhiễu động nhiệt đới / Áp thấp gió mùa
Áp thấp nhiệt đới Faxai ngày 2 tháng 9.

Vào lúc 18:00 UTC ngày 29 tháng 8, một áp thấp nhiệt đới hình thành ở phía đông của Đường đổi ngày quốc tế. Nó di chuyển về phía tây qua Thái Bình Dương vào ngày hôm sau. Sau đó, nó đã được gán số hiệu 14W bởi Trung tâm Cảnh báo Bão chung sau khi JTWC phát đi những cảnh báo đầu tiên. Đến ngày 2 tháng 9, JTWC đã nâng cấp 14W thành một cơn bão nhiệt đới và duy trì cường độ của nó trong một vài ngày. Ba ngày sau, Cơ quan Khí tượng Nhật Bản JMA cuối cùng đã nâng cấp hệ thống thành một cơn bão nhiệt đới và đặt tên cho là Faxai. Faxai dần dần mạnh lên, đạt đến trạng thái bão cuồng phong vào ngày 6 tháng 9. Bão Faxai nhanh chóng mạnh lên thành cơn bão cuồng phong cấp 4 trên thang bão Saffir-Simpson vào ngày 8 tháng 9 và đạt cường độ cực đại với sức gió tối đa 1 phút là 216 km/h. Faxai suy yếu đi một chút trước khi đổ bộ trực tiếp lên thành phố Chiba vào 5:00 sáng ngày 9 tháng 9..[1]

Tác động[sửa | sửa mã nguồn]

Cây gãy đổ ở thành phố Minato sau bão.

Faxai được nhận định là cơn bão mạnh nhất ảnh hưởng trực tiếp đối với khu vực phía Đông Nhật Bản kể từ khi siêu bão Helen năm 1958.

Đêm chủ nhật ngày 8 tháng 9, bão Faxai đã đổ bộ lên vùng Kantō, Nhật Bản. Gió giật mạnh nhất lên tới 209 km/h được ghi nhận tại đảo Kozu, phá vỡ kỷ lục trước đó bởi cơn bão Higos năm 2002. Cơn bão đã khiến 3 người chết và 157 người bị thương, 934.000 hộ bị mất điện. Tại thành phố Izu, tỉnh Shizuoka, lượng mưa đo được trong 24 giờ ngày 9 tháng 9 là 440 mm, gây ngập nhiều tuyến phố và tàu điện ngầm. Dịch vụ tàu điện ở JR East đã bị hủy do bão.[2] Do ảnh hưởng của bão, cúp bóng bầu dục quốc tế tại Tokyo đã được hoãn lại. Hai người chết vì bị sốc nhiệt. Thiệt hại nông nghiệp ở Nhật Bản lên tới 47,55 tỷ Yên (443 triệu USD).).[3][4]

Tổng thiệt hại do bão gây ra cho nền kinh tế toàn cầu ước tính lên tới 5 đến 9 tỷ USD.[5]

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “令和元年 台風第15号に関する情報 第72号” (bằng tiếng Nhật). Trung tâm khí tượng Nhật Bản. 9 tháng 9 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 9 năm 2019. Truy cập 9 tháng 9 năm 2019.
  2. ^ “Powerful Typhoon Faxai kills three, injures 40 and wreaks havoc on Tokyo transport system”. The Japan Times. ngày 9 tháng 9 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2019.
  3. ^ 台風15号 千葉、農水被害193億円 台風被害で過去最大 (bằng tiếng Nhật). Mainichi Shimbun. ngày 14 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2019.
  4. ^ 農林水産業の台風被害367億円 千葉県、震災上回る (bằng tiếng Nhật). The Nikkei. ngày 26 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2019.
  5. ^ Insured Losses from Typhoon Faxai Estimated at US$5 Billion to US$9 Billion: RMS, Insurance Journal. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2019.