Bão Wukong (2000)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bão Wukong (2000)
Bão cuồng phong (Thang JMA)
Bão cuồng phong cấp 2 (SSHWS/NWS)
Bão Wukong ở cường độ mạnh nhất
Hình thành6 tháng 9 năm 2000 (2000-09-06)
Tan10 tháng 9 năm 2000
Sức gió mạnh nhấtDuy trì liên tục trong 10 phút:
140 km/h (85 mph)
Duy trì liên tục trong 1 phút:
175 km/h (110 mph)
Áp suất thấp nhất955 mbar (hPa); 28.2 inHg
Vùng ảnh hưởng
Một phần của Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 2000

Bão Wukong (tên chỉ định quốc tế:0016, tên chỉ định JTWC: 23W[1], tên NCHMF: Bão số 4[2]) là một cơn bão nhiệt đới cuồng phong hình thành trên khu vực Biển Đông vào ngày 6 tháng 9 năm 2000 và tan ngày 10 tháng 9 năm 2000 trên địa phận Thái Lan.

Từ một vùng thấp hình thành trên khu vực phía Đông Biển Đông, nó đã mạnh lên thành một áp thấp nhiệt đới rồi bão vào ngày 6 tháng 9. Nó tiếp tục mạnh lên thành bão cuồng phong vào ngày 8 tháng 9 và ngày 10 tháng 9 năm 2000, tâm bão đã đổ bộ vào tỉnh Hà Tĩnh của Việt Nam, dưới dạng cơn bão nghiêm trọng, gây ra một đợt mưa lớn trên diện rộng cho Trung Bộ Việt Nam.[1][2]

Tên bão : Wukong được đặt bởi Trung Quốc[3][4], có nghĩa là "Tôn Ngộ Không". Tên bão này được sử dụng lại vào các năm 2006, 2012, 2018

Lịch sử hình thành[sửa | sửa mã nguồn]

Đường đi của bão

Ngày 4 tháng 9, JMA phát hiện một áp thấp nhiệt đới ở vùng biển Tây Philippines. Nó đứng im cho đến khoảng 12 giờ (UTC) ngày 5 tháng 9 thì mới bắt đầu di chuyển theo hướng ngược chiều kim đồng hồ.[5] Cùng ngày, Việt Nam phát tin áp thấp nhiệt đới.[2][6] Sau đó nó mạnh lên thành bão vào khoảng 0 giờ (UTC) ngày 6 tháng 9 năm 2000. Nó tiếp tục tăng cường để đạt được cường độ bão cuồng phong lúc 18:00 (UTC) ngày 07 tháng 9 và đạt đến cường độ mạnh nhất của nó với sức gió tối đa 75 hải lý (140 km/h) lúc 06 giờ (UTC) ngày 08 tháng 9. JTWC cũng nâng mức cảnh báo lên cấp 2. Sau đó bão suy yếu dần, bão Wukong đi ven dọc bờ biển phía nam của đảo Hải Nam ngày 09 tháng 9, lúc này Việt Nam phát tin bão khẩn cấp[2][6]. Sáng sớm 10/9 khi đến vùng biển ngoài khơi tỉnh Hà Tĩnh (cách đèo Ngang khoảng 70 km về phía đông), bão suy yếu xuống cấp 10, giật trên cấp 10, chuyển hướng tây tây nam, trưa 10 tháng 9 đổ bộ vào đất liền thuộc địa phận tỉnh Hà Tĩnh (tâm bão đi qua huyện Kỳ Anh).[2][6] Sau khi đổ bộ nó suy yếu thành áp thấp nhiệt đới rồi vùng thấp ở phía đông bắc của Thái Lan lúc 12 giờ (UTC) cùng ngày.[5]

Ảnh hưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]

Do ảnh hưởng của bão, khu vực đồng bằng Bắc BộTrung Bộ đã có gió cấp 6,7. Một số nơi ở Nghệ An, Hà Tĩnh có gió cấp 8. Bão gây ra mưa lớn cho khu vực Bắc BộTrung Bộ. Việt Nam trong các ngày 9-10-11 tháng 9.[2][6] Thiệt hại do bão chưa rõ nhưng rất lớn, khoảng trên 1,5 triệu USD.[2][6]

Tên bão[sửa | sửa mã nguồn]

Wukong (phồn thể: 孫悟空; giản thể: 孙悟空; bính âm: Sūn Wùkōng; Wade-Giles: Sun Wu-k'ung), là một tên bão do Trung Quốc đặt nên, có nghĩa là "Tôn Ngộ Không", một nhân vật trong phim Tây du ký.

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b Typhoon 23W Wukong Lưu trữ 2013-12-22 tại Wayback Machine, Joint Typhoon Warning Center
  2. ^ a b c d e f g Bão Wukong năm 2000, Trung tâm khí tượng thủy Văn Tây Nguyên. Truy cập 1 tháng 12 năm 2013.
  3. ^ Gary Padgett. “Monthly Tropical Cyclone summary December 1999”. Australian Severe Weather. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2008.
  4. ^ “Tropical Cyclone names”. JMA. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2008.
  5. ^ a b JMA (1 tháng 1 năm 2001). “Annual Report on Activities of the RSMC Tokyo – Typhoon Center 2000” (PDF). Cơ quan khí tượng Nhật Bản (JMA). Truy cập 5 tháng 11 năm 2013.[liên kết hỏng]
  6. ^ a b c d e Đặc điểm KTTV 2000 Lưu trữ 2014-11-03 tại Wayback Machine, NCHMF