Bảo tàng Quận ở Toruń

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bảo tàng khu vực Toruń
Muzeum Okręgowe w Toruniu
Map
Thành lập1594 (1594)
Vị tríToruń
KiểuBảo tàng khu vực
Giám đốcMarek Rubnikowicz
Trang webwww.muzeum.torun.pl

Bảo tàng khu vực Toruń (tiếng Ba Lan: Muzeum Okręgowe w Toruniu), nằm trong hội trường RatuszToruń, là một trong những bảo tàng lâu đời nhất và lớn nhất ở Ba Lan. Nó bắt đầu vào năm 1594 với tư cách là Nội các hiếu kỳ tại thư viện của học viện Gimnazjum, được gọi là Musaeum trong tiếng Latin. Được tái lập ở Ba Lan có chủ quyền như một bảo tàng thành phố vào năm 1920 sau thế kỷ của các phân vùng quân sự, nó được cấu trúc hành chính như một bảo tàng khu vực vào năm 1965.[1]

Các phòng ban[sửa | sửa mã nguồn]

Bảo tàng bao gồm 7 phòng ban.[2]

  • Nhà Copernicus
  • Dom Eskenów
  • Bảo tàng Twierdzy Toruń (theo kế hoạch) [3]
  • Bảo tàng Toruń Gingerbread
  • Ngôi nhà dưới ngôi sao
  • Tòa thị chính cũ
    • Kho báu của Skrwilno và Nieszawa
    • Phòng xử án (thế kỷ XVI-XVII)
    • Phòng nghệ thuật gothic (hội họa, điêu khắc)
    • Old Torun: Lịch sử và Thủ công (từ 1233 đến 1793)
    • Nghệ thuật Sacral của Toruń hiện đại
    • Phòng Mieszczańska với một trong những bức chân dung sớm nhất của Nicolaus Copernicus
    • Hội trường Hoàng gia
    • Phòng trưng bày nghệ thuật Ba Lan
    • Phòng trưng bày nghệ thuật Ba Lan (sau năm 1945)
    • Militaria (từ thời cổ đại đến thế kỷ XX)
    • Triển lãm khảo cổ (từ năm 1100 trước Công nguyên đến năm 1300 trước Công nguyên)
    • Triển lãm tạm thời
  • Số 9 đường Franciszkańska (Bảo tàng Tony Halik)

Bộ sưu tập[sửa | sửa mã nguồn]

Tài sản Bảo tàng bao gồm các tác phẩm của Marcello Bacciarelli, Artur Grottger, Piotr Michałowski, Juliusz Kossak, Józef Brandt, Jan Matejko, Henryk Rodakowski, Józef Chełmoński, Julian Fałat, Leon Wyczółkowski, Stanisław Wyspianski, Jacek Malczewski, Stanisław Ignacy Witkiewicz, Wojciech Weiss, Józef Mehoffer, Konrad Krzyżanowski, Ferdynand Ruszczyc, Jan Cybis, Zbigniew Pronaszko, Piotr Potworowski, San Antonio Fałat, Edward Dwurnik, Zdzisław Beksiński, và Jerzy Duda-Gracz.[4]

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  • Bảo tàng quốc gia Ba Lan
  • Bộ Văn hóa và Di sản Quốc gia (Ba Lan)
  • Trung tâm nghệ thuật đương đại ở Torun

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Rys historyczny (Historical draft) Muzeum Okręgowe w Toruniu. (tiếng Ba Lan)
  2. ^ “District Museum in Torun”. Culture.pl (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2019.
  3. ^ “Wyborcza.pl”. torun.wyborcza.pl. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2019.
  4. ^ Perły z lamusa: najcenniejsze zbiory Muzeum Okręgowego w Toruniu. Rubnikowicz, Marek,, Skowroński, Andrzej Roman, 1949-, Bielińska-Majewska, Beata,, Muzeum Okręgowe w Toruniu. Toruń: Muzeum Okregowe w Toruniu. 2009. ISBN 9788360324301. OCLC 953676106.Quản lý CS1: khác (liên kết)
  5. ^ André Goddu, Copernicus and the Aristotelian Tradition (2010), p. 436 (note 125), citing Goddu, review of: Jerzy Gassowski, Poszukiwanie grobu Mikolaja Kopernika in: Journal for the History of Astronomy 38.2 (May 2007), p. 255.

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ The oldest known portrait of Copernicus is that on Strasbourg astronomical clock, made by Tobias Stimmer c. 1571–74. According to the inscription next to the portrait, it was made from a self-portrait by Copernicus himself. This has led to speculation that the Torun portrait may be a copy based on the same self-portrait, but its provenance is unknown.[5]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]