Badidae

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Badidae
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Nhánh Craniata
Phân ngành (subphylum)Vertebrata
Phân thứ ngành (infraphylum)Gnathostomata
Liên lớp (superclass)Osteichthyes
Lớp (class)Actinopterygii
Nhánh Actinopteri
Phân lớp (subclass)Neopterygii
Phân thứ lớp (infraclass)Teleostei
Nhánh Osteoglossocephalai
Nhánh Clupeocephala
Nhánh Euteleosteomorpha
Nhánh Neoteleostei
Nhánh Eurypterygia
Nhánh Ctenosquamata
Nhánh Acanthomorphata
Nhánh Euacanthomorphacea
Nhánh Percomorphaceae
Nhánh Anabantaria
Bộ (ordo)Anabantiformes
Phân bộ (subordo)Nandoidei
Họ (familia)Badidae
Barlow, Liem & Wickler, 1968
Các chi
2 chi, 30 loài. Xem văn bản.

Badidae (tên tiếng Anh: chameleonfishes, nghĩa đen là cá tắc kè hoa) là một họ nhỏ chứa khoảng 30 loài cá.

Lịch sử phân loại[sửa | sửa mã nguồn]

Trong quá khứ, chi Badis được xếp trong họ Nandidae. Dựa theo các dữ liệu hình thái học, Badidae được Barlow et al. thiết lập năm 1968 cho chi duy nhất là Badis. Chi thứ hai là Dario chỉ được mô tả năm 2002. Do cấu trúc xương vây đuôi của cả hai họ này có các đặc điểm chia sẻ chung nên người ta ngoại suy ra rằng chúng có quan hệ chị em. Badidae và Nandidae trước đây xếp trong bộ Perciformes, một nhóm cận hoặc đa ngành khi xét theo thành phần hợp thành nguyên bản. Ấn bản lần thứ 5 năm 2016 của Fishes of the World phân loại họ này cùng với NandidaePristolepididae thuộc về một nhánh đơn ngành không đặt tên có quan hệ chị-em với Anabantiformes cũng như với Ovalentaria trong nhóm rộng hơn là Percomorpha.[1] Tuy nhiên, trong phiên bản 4 năm 2017 thì Betancur -R. et al. cho rằng họ này có quan hệ họ hàng gần với cá có đường rối (Anabantoidei) và cá chuối (Channoidei) và coi nó là thuộc phân bộ Nandoidei trong bộ Anabantiformes.[2]

Phân bố[sửa | sửa mã nguồn]

Các thành viên của họ này là cá nước ngọt, có kích thước nhỏ, dài 2–8 xentimét (0,79–3,15 in), được tìm thấy tại Ấn Độ, Bangladesh, Bhutan, Lào, Myanmar, Nepal, Pakistan, Thái LanTrung Quốc.[3][4][5] Loài to lớn nhất là Badis assamensis đạt tới chiều dài tiêu chuẩn (SL) tới 7,5 cm (3 in),[6] trong khi loài nhỏ nhất là Dario dario không vượt quá 2 cm (0,8 in).[7]

Đặc điểm[sửa | sửa mã nguồn]

Các loài trong họ này dài từ 1,5 tới 8 cm, với tất cả các loài trong chi Badis dài trên 2 cm, tcòn tất cả các loài Dario đều dài dưới 3 cm và vì thế chúng thuộc về nhóm cá dạng cá vược nhỏ nhất đã biết. Các loài trong họ này có màu ánh nâu, ánh đỏ hay ánh lam, hai bên cơ thể và các vây không bắt cặp đôi của chúng thường có đốm hay sọc. Chúng có thể thay đổi màu sắc rất nhanh, vì thế mà có tên tiếng Anh là chameleonfish. Số lượng đốt sống là 24 đến 30. Miệng nhỏ và chỉ có thể thò ra một chút về phía trước. Xương cánh bướm ngoài (ectopterygoid) của chúng là không răng, nắp mang và rãnh dưới hốc mắt có các gờ nhẵn. Vây lưng liên tục. Công thức vây: Lưng XIV – XVIII / 5–11; Hậu môn: 0 – V / 5–11.

Trứng được bao bọc hoàn toàn bằng một lớp sợi che phủ. Ấu trùng có cơ quan bám dính đa bào độc nhất tại đỉnh của túi noãn hoàn. Các loài trong họ này chủ yếu được tìm thấy trong các vùng nước nhỏ và chúng là những loài chiếm giữ lãnh thổ cô độc, sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ các lãnh thổ nhỏ của mình. Chúng ăn các loại động vật không xương sống nhỏ. Theo những gì người ta đã nghiên cứu thì các loài của chi Badis đẻ trứng trong hang hay dưới những vật treo lơ lửng. Chúng đẻ 30 tới 100 trứng và trứng sẽ nở sau khoảng 2-3 ngày, được cá bố bảo vệ cho tới khi chúng bơi lội tự do sau khoảng 7 ngày. Các loài Dario đẻ trứng giữa các thực vật thủy sinh hình lông chim mịn và không chăm sóc cá non.

Các chi[sửa | sửa mã nguồn]

  • Badis Bleeker, 1853: 24 loài. Tìm thấy trong các vùng đất thấp trong lưu vực sông Hằng, sông Brahmaputra và sông Mahanadi ở Ấn Độ, NepalBangladesh, cũng như tại lưu vực sông Irrawaddy ở Myanmar, miền nam Thái Lan và một số phần thuộc lưu vực sông Mê Kông.
  • Dario Kullander & Britz, 2002:[8] 6 loài. Tìm thấy trong khu vực từ đông bắc Ấn Độ, miền bắc Myanmar và thượng nguồn sông Irrawaddy ở miền nam tỉnh Vân Nam (Trung Quốc).

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  • Dữ liệu liên quan tới Badidae tại Wikispecies
  • Tư liệu liên quan tới Badidae tại Wikimedia Commons
  1. ^ J. S. Nelson; T. C. Grande; M. V. H. Wilson (2016). Fishes of the World (ấn bản 5). Wiley. tr. 394. ISBN 978-1-118-34233-6. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2021.
  2. ^ Betancur-R. R., E. Wiley, N. Bailly, A. Acero, M. Miya, G. Lecointre, G. Ortí. 2017. Phylogenetic Classification of Bony Fishes – Phiên bản 4, 2017. BMC Evolutionary Biology BMC series – open, inclusive and trusted 2017 17: 162, doi:10.1186/s12862-017-0958-3.
  3. ^ Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Các loài trong Badis trên FishBase. Phiên bản tháng 8 năm 2021.
  4. ^ Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Các loài trong Dario trên FishBase. Phiên bản tháng 8 năm 2021.
  5. ^ Dahanukar N.; Kumkar P.; Katwate U.; Raghavan R. (2015). “Badis britzi, a new percomorph fish (Teleostei: Badidae) from the Western Ghats of India”. Zootaxa. 3941 (3): 429–436. doi:10.11646/zootaxa.3941.3.9.
  6. ^ “Badis assamensis”. SeriouslyFish. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2019.
  7. ^ “Dario dario”. SeriouslyFish. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2019.
  8. ^ Kullander S. & Britz R., 2002. Revision of the family Badidae (Teleostei: Perciformes), with descriptions of a new genus and ten new species. Ichthyological Exploration of Freshwaters 13: 295–372.