Họ Cá đối

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(Đổi hướng từ Cá đối)
Họ Cá đối
Mugil cephalus chụp tại Minorca, Tây Ban Nha.
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Nhánh Actinopteri
Phân lớp (subclass)Neopterygii
Phân thứ lớp (infraclass)Teleostei
Nhánh Osteoglossocephalai
Nhánh Clupeocephala
Nhánh Euteleosteomorpha
Nhánh Neoteleostei
Nhánh Eurypterygia
Nhánh Ctenosquamata
Nhánh Acanthomorphata
Nhánh Euacanthomorphacea
Nhánh Percomorphaceae
Nhánh Carangimorpharia
Nhánh Ovalentariae
Nhánh Mugilomorphae
Bộ (ordo)Mugiliformes
Họ (familia)Mugilidae
G. Cuvier, 1829
Các chi
26. Xem bài

Họ Cá đối (Danh pháp khoa học: Mugilidae) là một họ cá trong Bộ Cá đối (Mugiliformes). Họ Cá đối là một họ cá sinh sống chủ yếu trong môi trường nước mặn hay nước lợ duyên hải nhiệt đới và cận nhiệt đới rộng khắp thế giới, nhưng có vài loài sinh sống trong vùng nước ngọt và cửa sông[1][2]. Họ này có nhiều loài có giá trị kinh tế và khoảng 13 loài được coi là đối tượng trong nuôi trồng thủy sản[cần dẫn nguồn].

Cá đối được phân biệt bởi sự hiện diện của 2 hàng vây lưng tách biệt, miệng nhỏ hình tam giác và không có cơ quan đường bên. Chúng ăn các loại mẩu vụn, và phần lớn các loài có dạ dầy nhiều cơ bắp bất thường cùng họng phức tạp để giúp tiêu hóa[1].

Phân loại[sửa | sửa mã nguồn]

Họ Cá đối có 78 loài đã biết, phân bố trong 26 chi như sau:[2][3]

Phát sinh chủng loài[sửa | sửa mã nguồn]

Biểu đồ phát sinh chủng loài vẽ theo Xia et al. (2016)[3]

 Mugilidae 
 Cheloninae 

 Chelon

 Parachelon

 Planiliza

 Oedalechilus

 Pseudomyxus

 Neochelon

 Rhinomugilinae 

 Rhinomugilini

 Crenimugilini

 Squalomugilini

 Trachystomaini

 Mugilinae 

 Myxinae 

 Myxus

 Neomyxus

Đặc điểm[sửa | sửa mã nguồn]

Cá đối là loài rộng muối, chúng có thể sống và sinh trưởng tốt trong môi trường nước lợ, lợ mặn và nước mặn. Ở các vùng cận nhiệt đới, cá giống nhỏ và cá giống thường tập trung quanh năm trong môi trường nước ngọt hoặc lợ nhạt. Đối với cá trưởng thành, môi trường sống của chúng thay đổi tuỳ theo mùa và nó liên quan tới quá trình di cư sinh sản, khi chúng bắt đầu sinh sản thì thường có khuynh hướng tránh các dòng nước ngọt.

Cá đối ở giai đoạn ấu trùng tới cá giống là loài ăn động vật phù du, khi trưởng thành chúng chuyển phổ thức ăn sang thực vật phiêu sinh, mùn bã hữa cơ lơ lửng và các thảm thực vật đáy. Trong điều kiện nuôi ngoài việc bón phân kích thích sự phát triển của tảo làm thức ăn tự nhiên cho cá đối, chúng còn có thể được cho ăn bổ sung với cám gạo, bánh dầu đậu phộng, đậu nành hoặc bột đậu phộng.

Cá đối có tập tính sống quần đàn, và tập tính này thể hiện mạnh nhất vào mùa sinh sản, cá thường tập trung thành từng bầy lớn di cư ra các vùng nước sâu ngoài biển để sinh sản. Cá đối là loài sinh sản theo mùa và mùa sinh sản của cá kéo dài từ tháng 10 tới tháng 4 năm sau, tuy nhiên ở các thủy vực nước vùng cận nhiệt đới mùa sinh sản có thể ngắn hơn (tới tháng 1-tháng 2 năm sau).

Sinh trưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Cá đối đạt tới thành thục sinh sản vào 3 năm tuổi với chiều dài thân trung bình khoảng 33 cm ở cá đực và 35 cm ở cá cái[cần dẫn nguồn]. Sức sinh sản của cá thông thường tỷ lệ thuận với trọng lượng và chiều dài thân cá, cá càng lớn sức sinh sản càng cao. Con cái có trọng lượng khoảng 1.5 kg có sức sinh sản từ 1-1.5 triệu trứng. Trứng cá đối có kích thước đường kính từ 0.9-1mm.

Trứng đã thụ tinh nở ra ấu trùng trong khoảng 16-30h ở nhiệt độ 20-24oC. Ấu trùng cá đối rất nhỏ (2.5-3.5mm) và thường có khuynh hướng tránh ánh sáng mạnh. Trứng cá và ấu trùng mới nở thường trôi dạt ngoài khơi vào một thời gian nào đó trong năm (các tháng thuộc mùa sinh sản) và cá bột xuất hiện theo mùa ở vùng cửa sông nơi được coi như các bãi ương cho cá giống.

Tại Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]

Việt Nam có khoảng 16-17 loài cá đối đã biết[4][5], trong đó ở Nam bộ có ít nhất 5 loài: cá đối mục (Mugil cephalus), cá đối đất (Chelon subviridis, đồng nghĩa: Mugil dussumieri), cá đối cháng (Chelon macrolepis), cá đối đuôi bằng (Ellochelon vaigiensis) và cá đối lá (Moolgarda cunnesius), vùng cửa sông thường gặp từ 5-7 loài có giá trị.

Danh sách các loài đã biết như sau:

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

  • J.S. Nelson, Fishes of the World. ISBN 978-0-471-25031-9.
  • Sepkoski, Jack (2002). “A compendium of fossil marine animal genera”. Bulletins of American Paleontology. 364: 560. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2011.
  • Species by family/subfamily in the catalog of fishesLưu trữ 2011-05-19 tại Wayback Machine

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  • Dữ liệu liên quan tới Mugilidae tại Wikispecies
  • Tư liệu liên quan tới Mugilidae tại Wikimedia Commons
  1. ^ a b Johnson G.D. & Gill A.C. (1998). Paxton J.R. & Eschmeyer W.N. (biên tập). Encyclopedia of Fishes. San Diego: Academic Press. tr. 192. ISBN 0-12-547665-5.
  2. ^ a b Chủ biên Ranier Froese và Daniel Pauly. (2021). "Mugilidae" trên FishBase. Phiên bản tháng 4 năm 2021.
  3. ^ a b Rong Xia, Jean-Dominique Durand, Cuizhang Fu, 2016. Multilocus resolution of Mugilidae phylogeny (Teleostei: Mugiliformes): Implications for the family’s taxonomy. Mol. Phylogenet. Evol. 96: 161-177, doi:10.1016/j.ympev.2015.12.010
  4. ^ Trần Thị Việt Thanh, Phan Kế Long, Hiện trạng và phân bố cá đối mục (Mugil cephalus) ở Việt Nam. Báo cáo tại Hội nghị Khoa học toàn quốc về sinh thái và tài nguyên sinh vật lần thứ 6, 2015
  5. ^ Nguyễn Xuân Huấn, Nguyễn Thành Nam, Nguyễn Thị Mai Dung. Thành phần loài cá ở vùng cửa sông Ba Lạt (giai đoạn 2010-2011) - Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội. Báo cáo tại Hội nghị Khoa học toàn quốc về sinh thái và tài nguyên sinh vật lần thứ 5, 10/2013.