Cái chết của Marilyn Monroe
Bài báo trang nhất New York Daily Mirror, ngày 6 tháng 8 năm 1962 | |
| Thời điểm | 4 tháng 8 năm 1962 |
|---|---|
| Giờ | Tối muộn |
| Địa điểm | 12305 Fifth Helena Drive, Brentwood, Los Angeles, California, Hoa Kỳ |
| Nguyên nhân | Quá liều barbiturat |
| Chôn cất | Ngày 8 tháng 8 năm 1962, tại Westwood Village Memorial Park Cemetery, Los Angeles, California, Hoa Kỳ |
| Điều tra chính thức | Ngày 17 tháng 8 năm 1962, Los Angeles |
| Điều tra viên | Theodore Curphey |
| Tội danh | Không có |
| Phán quyết | Có khả năng là tự sát |
Vào tối ngày 4 tháng 8 năm 1962, nữ diễn viên người Mỹ Marilyn Monroe qua đời ở tuổi 36 do quá liều barbiturat tại nhà riêng của bà ở 12305 Fifth Helena Drive, Brentwood, Los Angeles, California. Thi thể của bà được phát hiện vào rạng sáng hôm sau, ngày 5 tháng 8. Monroe từng là một trong những ngôi sao nổi tiếng nhất của Hollywood trong thập niên 1950 và đầu thập niên 1960, là nữ diễn viên chính được trả thù lao cao trong suốt một thập kỷ. Các bộ phim của bà đã thu về 200 triệu đô la Mỹ tính đến thời điểm bà qua đời.[1]
Monroe từng phải vật lộn với các vấn đề về sức khỏe tâm thần và lạm dụng chất kích thích, và bà không hoàn thành bộ phim nào kể từ sau The Misfits, được phát hành vào ngày 1 tháng 2 năm 1961, vốn là một bom xịt phòng vé. Năm 1961, bà dành phần lớn thời gian để điều trị các vấn đề sức khỏe, và đến tháng 4 năm 1962, bà bắt đầu quay phim Something's Got to Give cho hãng 20th Century Fox. Tuy nhiên, hãng đã sa thải bà vào đầu tháng 6. Fox công khai đổ lỗi cho Monroe về những trục trặc trong quá trình sản xuất, và trong những tuần trước khi qua đời, bà đã nỗ lực phục hồi hình ảnh bằng cách tham gia phỏng vấn với nhiều tờ báo lớn. Bà cũng bắt đầu đàm phán với Fox để được tái ký hợp đồng trong Something's Got to Give và đảm nhận vai chính trong các dự án khác.
Ngày 4 tháng 8, ngày Monroe qua đời. Bà ở nhà tại Brentwood. Trong ngày, bà có sự ghé thăm luân phiên của người quản lý truyền thông Patricia Newcomb, người giúp việc Eunice Murray, nhiếp ảnh gia Lawrence Schiller, và bác sĩ tâm thần Ralph Greenson. Theo yêu cầu của Greenson, Murray ở lại qua đêm để bầu bạn cùng Monroe. Vào khoảng 3 giờ sáng Chủ Nhật, ngày 5 tháng 8, Murray nhận thấy Monroe đã khóa trái cửa phòng ngủ và không phản ứng khi bà nhìn qua cửa sổ. Murray lập tức báo cho Greenson, người nhanh chóng đến và phá cửa sổ vào phòng, phát hiện Monroe đã qua đời. Văn phòng giám định pháp y hạt Los Angeles kết luận cái chết có khả năng cao là một vụ tự sát, dựa trên việc sử dụng thuốc quá liều và tiền sử rối loạn tâm trạng cùng các ý tưởng tự tử của Monroe.
Bất chấp kết luận của giám định viên, từ giữa thập niên 1960 đến nay đã xuất hiện nhiều giả thuyết thay thế, cho rằng đây có thể là một vụ giết người hoặc tai nạn do dùng thuốc. Nhiều giả thuyết trong số này liên quan đến Tổng thống Mỹ John F. Kennedy và em trai ông là Robert F. Kennedy, cũng như thủ lĩnh công đoàn Jimmy Hoffa và trùm mafia Sam Giancana. Do sự lan rộng của các giả thuyết này trên truyền thông, văn phòng Biện lý quận hạt Los Angeles đã xem xét lại vụ án vào năm 1982, nhưng không tìm thấy bằng chứng nào ủng hộ các giả thuyết đó và không bác bỏ kết luận ban đầu. Tuy nhiên, báo cáo cũng thừa nhận rằng vẫn còn tồn tại "nhiều điểm mâu thuẫn về mặt thực tế" và "những câu hỏi chưa có lời đáp" trong vụ án.[2]
Bối cảnh
[sửa | sửa mã nguồn]Trong vài năm trước đầu thập niên 1960, Marilyn Monroe đã phụ thuộc vào amphetamine, barbiturat và rượu, đồng thời gặp phải nhiều vấn đề sức khỏe tâm thần như trầm cảm, lo âu, mặc cảm tự ti và chứng mất ngủ mãn tính.[3] Monroe nổi tiếng là người khó hợp tác, thường xuyên đến phim trường trễ và gặp khó khăn trong việc ghi nhớ lời thoại.[4] Bà cũng bị FBI lập hồ sơ theo dõi từ năm 1956 do mối quan hệ "rắc rối" với nhà văn Arthur Miller, người bị cáo buộc có liên hệ với chủ nghĩa cộng sản.[5]
Từ năm 1960, hành vi của Monroe bắt đầu ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự nghiệp. Ví dụ, mặc dù bà là lựa chọn ưu tiên của tác giả Truman Capote cho vai Holly Golightly trong bản chuyển thể điện ảnh của Breakfast at Tiffany's, hãng Paramount Pictures đã từ chối tuyển bà vì lo ngại sẽ gây khó khăn cho quá trình sản xuất.[4] Bộ phim cuối cùng mà Monroe hoàn thành, The Misfits (1961), là một thất bại thương mại.[6] Trong thời gian quay phim, bà đã phải nhập viện một tuần để cai nghiện.[6] Cuộc hôn nhân thứ ba với Arthur Miller cũng kết thúc bằng ly hôn vào tháng 1 năm 1961.[7]
Thay vì tiếp tục đóng phim, Monroe đã dành phần lớn năm 1961 để điều trị các vấn đề sức khỏe và không tham gia bất kỳ dự án điện ảnh nào mới. Bà trải qua phẫu thuật lạc nội mạc tử cung và cắt túi mật, đồng thời nằm viện bốn tuần—trong đó có một thời gian ngắn trong khu tâm thần—để điều trị trầm cảm.[8][a] Cuối năm 1961, bà chuyển về Los Angeles sau sáu năm sống ở Manhattan, và mua một căn nhà kiểu hacienda Tây Ban Nha tại 12305 Fifth Helena Drive ở khu Brentwood.[10] Đầu năm 1962, bà nhận giải "Nữ diễn viên điện ảnh được yêu thích toàn cầu" tại lễ trao giải Quả cầu vàng và bắt đầu quay bộ phim mới Something's Got to Give, làm lại từ phim My Favorite Wife (1940).[11]
Vài ngày trước khi quay phim, Monroe bị viêm xoang; hãng 20th Century Fox được khuyên nên hoãn lịch quay nhưng không làm theo, và phim bắt đầu ghi hình đúng kế hoạch vào cuối tháng 4.[12] Monroe quá ốm yếu để làm việc trong phần lớn sáu tuần sau đó, nhưng mặc dù nhiều bác sĩ xác nhận tình trạng sức khỏe của bà, Fox vẫn cố ép bà quay bằng cách tuyên bố trước công chúng rằng bà đang giả bệnh.[12] Ngày 19 tháng 5, Monroe tạm nghỉ quay để trình diễn bài "Happy Birthday" trên sân khấu tại buổi tiệc sinh nhật của Tổng thống Mỹ John F. Kennedy tại Madison Square Garden, mười ngày trước sinh nhật thật của ông.[13] Sự kiện này thu hút nhiều sự chú ý truyền thông, đồng thời làm dấy lên những suy đoán về mối quan hệ ngoài luồng giữa Monroe và tổng thống, cũng như sự quan ngại từ phía cơ quan chính phủ.[14]
Sau khi trở lại Los Angeles, Monroe tiếp tục quay phim và tổ chức sinh nhật lần thứ 36 tại phim trường Something's Got to Give vào ngày 1 tháng 6.[15] Sau đó, bà lại tiếp tục vắng mặt trong vài ngày, dẫn đến việc hãng Fox sa thải bà vào ngày 7 tháng 6 và kiện bà vì vi phạm hợp đồng, đòi bồi thường 750.000 đô la Mỹ.[16] Monroe được thay thế bởi Lee Remick, nhưng bạn diễn Dean Martin từ chối tham gia bộ phim nếu không có Monroe, khiến Fox cũng kiện ông và cuối cùng buộc phải hủy bỏ toàn bộ dự án.[17]
Fox công khai đổ lỗi cho việc phụ thuộc thuốc và bị cho là thiếu chuyên nghiệp của Monroe là nguyên nhân khiến dự án thất bại, thậm chí còn tuyên bố rằng bà có vấn đề về sức khỏe tâm thần.[18][b]
Để đối phó với làn sóng dư luận tiêu cực, Monroe đã trả lời phỏng vấn với một số tạp chí danh tiếng như Life, Cosmopolitan và Vogue trong những tuần cuối đời.[21] Năm 1961, tạp chí Time từng viết rằng: “Trong quá trình tìm kiếm sự giúp đỡ, bà có thể đã làm được nhiều hơn cả các bác sĩ tâm thần trong việc giúp công chúng chấp nhận một cái nhìn hiện đại hơn về bệnh tâm thần và phương pháp điều trị.”[22]
Sau khi đàm phán lại hợp đồng với Fox một cách thành công, lịch quay của Monroe cho Something's Got to Give được lên kế hoạch bắt đầu lại vào tháng 9, và bà cũng dự tính tham gia đóng vai chính trong các bộ phim What a Way to Go! (1964) và một bộ phim tiểu sử về Jean Harlow.[23]
Dòng thời gian
[sửa | sửa mã nguồn]Monroe đã trải qua ngày cuối cùng trong cuộc đời mình, thứ Bảy ngày 4 tháng 8 năm 1962, tại ngôi nhà ở Brentwood. Vào buổi sáng, cô gặp nhiếp ảnh gia Lawrence Schiller để bàn về khả năng tạp chí Playboy sẽ đăng những bức ảnh khỏa thân được chụp tại phim trường của bộ phim Something's Got to Give.[24] Cô cũng được mát-xa bởi chuyên viên trị liệu cá nhân, trò chuyện điện thoại với bạn bè và ký nhận một số món hàng được giao đến. Có mặt tại nhà vào buổi sáng hôm đó còn có quản gia của cô, Eunice Murray, và người phụ trách truyền thông Patricia Newcomb, người đã qua đêm tại đây. Theo lời Newcomb, giữa họ đã xảy ra cãi vã vì Monroe ngủ không ngon vào đêm trước.[25]

Lúc 4:30 chiều theo giờ PDT, bác sĩ tâm lý của Monroe là Ralph Greenson đến nhà để tiến hành một buổi trị liệu và yêu cầu Newcomb rời đi.[26] Trước khi rời đi vào khoảng 7:00 tối, ông yêu cầu Murray ở lại qua đêm để ở bên Monroe.[27] Vào khoảng 7:00–7:15 tối, Monroe nhận được cuộc gọi từ Joe DiMaggio Jr., người mà cô vẫn giữ mối quan hệ thân thiết kể từ khi ly hôn với cha anh, cựu cầu thủ Joe DiMaggio. DiMaggio thông báo với Monroe rằng anh đã chia tay với bạn gái mà cô không thích, và anh không nhận thấy điều gì bất thường trong cách cư xử của Monroe.[28] Vào khoảng 7:40–7:45, Monroe gọi điện lại cho Greenson để kể tin về việc chia tay của DiMaggio.[29] Monroe lui vào phòng ngủ vào khoảng 8:00 tối.[30] Cô nhận được cuộc gọi từ nam diễn viên Peter Lawford, anh rể của Tổng thống Kennedy, người đang cố gắng thuyết phục cô đến dự tiệc của mình vào đêm đó. Lawford bắt đầu lo lắng vì Monroe nghe có vẻ như đang chịu ảnh hưởng của thuốc. Cô được cho là đã nói: "Hãy chào tạm biệt Pat, chào tạm biệt tổng thống, và chào tạm biệt anh, vì anh là một chàng trai tốt", trước khi giọng cô mờ dần. Không thể liên lạc lại được với cô, Lawford gọi cho người đại diện của mình là Milton Ebbins, người này cũng không thể liên lạc với Greenson và sau đó gọi cho luật sư của Monroe, Milton A. "Mickey" Rudin. Rudin gọi đến nhà Monroe và được Murray trấn an rằng cô vẫn ổn.[31] Vào khoảng 3:30 sáng Chủ nhật, ngày 5 tháng 8, Murray tỉnh dậy với "cảm giác có điều gì đó không ổn" và nhìn thấy ánh sáng hắt ra từ dưới khe cửa phòng ngủ của Monroe, nhưng không nhận được phản hồi và thấy cửa đã khóa. Murray gọi điện cho Greenson, theo lời khuyên của ông, bà nhìn qua cửa sổ và thấy Monroe nằm úp mặt trên giường, khỏa thân, được phủ một tấm ga và tay đang cầm ống nghe điện thoại. Greenson đến ngay sau đó. Ông vào phòng bằng cách phá vỡ cửa sổ và phát hiện Monroe đã chết. Ông gọi cho bác sĩ riêng của cô, Hyman Engelberg, người đến nhà vào khoảng 3:50 sáng và chính thức xác nhận cái chết. Lúc 4:25 sáng, họ báo tin cho Sở Cảnh sát Los Angeles (LAPD).[32]
Cuộc điều tra và xem xét lại năm 1982
[sửa | sửa mã nguồn]Phó pháp y Thomas Noguchi đã tiến hành khám nghiệm tử thi Monroe vào cùng ngày cô được phát hiện đã qua đời, tức Chủ nhật, ngày 5 tháng 8. Văn phòng pháp y Quận Los Angeles nhận được sự hỗ trợ trong cuộc điều tra từ các bác sĩ tâm thần Norman Farberow, Robert Litman và Norman Tabachnik thuộc Trung tâm Phòng chống Tự tử Los Angeles, những người đã phỏng vấn các bác sĩ và chuyên gia tâm thần của Monroe để đánh giá tình trạng tâm lý của cô.[33][34] Dựa trên mức độ tiến triển của tình trạng co cứng tử thi khi thi thể được phát hiện, thời gian tử vong của cô được ước tính nằm trong khoảng từ 8:30 đến 10:30 tối ngày 4 tháng 8.[35]
Kết quả phân tích độc chất xác định nguyên nhân cái chết là ngộ độc cấp tính barbiturat; trong máu của cô có 8 mg% (mg/dl) chloral hydrate và 4,5 mg% pentobarbital (Nembutal), cùng với 13 mg% pentobarbital trong gan.[33] Cảnh sát tìm thấy các lọ thuốc rỗng cạnh giường ngủ của cô.[33] Không có dấu hiệu ngoại thương hay vết bầm tím nào được ghi nhận trên thi thể.[36] Kết luận từ cuộc điều tra được công bố vào ngày 17 tháng 8; Trưởng pháp y Theodore Curphey phân loại cái chết của Monroe là "khả năng cao là tự sát".[33][34] Khả năng quá liều do vô ý bị loại trừ vì lượng thuốc trong cơ thể cô vượt nhiều lần ngưỡng gây chết người và được xác định là đã uống "một lần hoặc chỉ trong vòng một vài phút".[34] Vào thời điểm tử vong, Monroe được cho là đang trong trạng thái "suy sụp", "không gọn gàng" và không còn quan tâm đến việc chăm sóc ngoại hình. Không tìm thấy thư tuyệt mệnh, nhưng Litman cho biết điều này không bất thường, vì theo thống kê, chưa đến 40% người tự sát để lại thư.[1] Trong báo cáo cuối cùng, Farberow, Litman và Tabachnik kết luận:
Cô Monroe đã bị rối loạn tâm lý trong một thời gian dài. Cô thường xuyên lo âu dữ dội và trầm cảm. Tâm trạng thay đổi đột ngột và khó lường. Một trong những biểu hiện rối loạn nổi bật là chứng mất ngủ, vì thế cô đã sử dụng thuốc an thần trong nhiều năm. Do đó, cô rất quen thuộc và có kinh nghiệm sử dụng các loại thuốc này, cũng như hiểu rõ rủi ro của chúng... Qua quá trình điều tra, chúng tôi nhận thấy rằng cô Monroe nhiều lần bày tỏ mong muốn từ bỏ, rút lui và thậm chí là chết. Trong quá khứ, cô từng vài lần cố gắng tự sát bằng thuốc an thần. Trong những lần đó, cô đều gọi cầu cứu và được cứu sống. Chúng tôi cho rằng mô hình này đã lặp lại vào tối ngày 3 tháng 8, nhưng lần này không có người cứu. Thực hành tiêu chuẩn của chúng tôi trong các trường hợp tương tự là đề xuất xác nhận đây là một trường hợp tự sát có khả năng cao. Các dấu hiệu bổ sung củng cố giả thuyết tự sát từ các bằng chứng vật lý bao gồm: nồng độ barbiturat và chloral hydrate rất cao trong máu, cùng với các bằng chứng từ khám nghiệm tử thi, cho thấy đã uống một lượng lớn thuốc trong thời gian ngắn; lọ Nembutal rỗng hoàn toàn — đơn thuốc gồm 25 viên đã được cấp một ngày trước đó; và cửa phòng ngủ bị khóa, điều vốn bất thường. [34]
Vào thập niên 1970, xuất hiện các tuyên bố cho rằng Monroe không chết do tự sát mà là bị sát hại. Do những cáo buộc này, Biện lý Quận Los Angeles, John Van de Kamp đã chỉ định đồng nghiệp Ronald H. "Mike" Carroll tiến hành một "cuộc điều tra sơ bộ" vào năm 1982 để xác định có nên mở cuộc điều tra hình sự chính thức hay không.[37][38][39] Carroll làm việc cùng điều tra viên Alan B. Tomich của văn phòng biện lý trong hơn ba tháng, kết quả là một bản báo cáo dài 30 trang.[39] Họ không tìm thấy bất kỳ bằng chứng đáng tin cậy nào ủng hộ giả thuyết Monroe bị sát hại.[39][40][38]
Năm 1983, Noguchi xuất bản hồi ký, trong đó ông bàn luận về vụ của Monroe và các cáo buộc cho rằng có mâu thuẫn trong khám nghiệm tử thi và kết luận tự sát. Các nghi vấn bao gồm: Monroe không thể đã uống thuốc vì dạ dày trống rỗng; viên Nembutal lẽ ra phải để lại vết màu vàng; có thể cô đã được cho thuốc qua thụt tháo; và khám nghiệm không phát hiện dấu kim tiêm dù cô thường xuyên được tiêm thuốc. [41] Noguchi giải thích rằng tình trạng xuất huyết niêm mạc dạ dày cho thấy thuốc được dùng qua đường uống, và vì Monroe đã nghiện trong nhiều năm nên cơ thể hấp thụ thuốc nhanh hơn so với người bình thường. Ông cũng phủ nhận việc Nembutal để lại vết màu, và cho biết chỉ những vết kim tiêm rất mới mới có thể nhìn thấy trên thi thể. Vết bầm duy nhất được ghi nhận trên lưng dưới của Monroe là nông và vị trí cho thấy đó là tai nạn, không liên quan đến hành vi phạm tội. Noguchi cuối cùng kết luận rằng, dựa trên quan sát của ông, kết luận hợp lý nhất là Monroe đã tự sát. [41]
Phản ứng của công chúng và tang lễ
[sửa | sửa mã nguồn]
Cái chết bất ngờ của Monroe trở thành tin trang nhất tại Hoa Kỳ và châu Âu.[42] Theo tiểu sử gia Lois Banner, "người ta nói rằng tỷ lệ tự sát tại Los Angeles đã tăng gấp đôi trong tháng sau khi cô qua đời; lượng phát hành của hầu hết các tờ báo đều tăng trong tháng đó."[42] Tờ Chicago Tribune cho biết họ đã nhận được hàng trăm cuộc gọi từ công chúng yêu cầu thông tin về cái chết của cô.[43] Nhà làm phim người Pháp Jean Cocteau nhận xét rằng cái chết của cô "nên là một bài học khủng khiếp cho tất cả những ai sống bằng nghề rình mò và hành hạ các ngôi sao điện ảnh", bạn diễn cũ Laurence Olivier gọi cô là "nạn nhân hoàn toàn của sự thổi phồng và giật gân", còn đạo diễn phim Bus Stop Joshua Logan nói rằng cô là "một trong những người ít được trân trọng nhất trên thế giới".[44]
Tang lễ của Monroe được tổ chức vào ngày 8 tháng 8 tại Westwood Village Memorial Park Cemetery, nơi cha mẹ nuôi của cô, Ana Lower và Grace McKee Goddard, cũng được chôn cất. Buổi lễ do chồng cũ của cô là Joe DiMaggio, người chị cùng mẹ khác cha Berniece Baker Miracle, và người quản lý tài chính Inez Melson sắp xếp. Họ quyết định chỉ mời khoảng ba mươi người thân thiết nhất với Monroe, và loại trừ phần lớn giới Hollywood. Cảnh sát có mặt để giữ báo chí ở khoảng cách xa và kiểm soát hàng trăm người hiếu kỳ tụ tập quanh nghĩa trang.[45] Buổi lễ do một mục sư địa phương chủ trì, được tổ chức tại nhà nguyện trong khuôn viên nghĩa trang. Monroe được mặc một chiếc váy màu xanh lá cây của Emilio Pucci và cầm một bó hoa hồng nhỏ màu hồng. Chuyên gia trang điểm lâu năm và cũng là bạn thân của cô, Allan "Whitey" Snyder, đã trang điểm cho cô lần cuối. Điếu văn do huấn luyện viên diễn xuất Lee Strasberg đọc, cùng với một đoạn nhạc từ Giao hưởng số 6 của Tchaikovsky và bản thu âm Judy Garland hát "Over the Rainbow" được phát tại lễ tang. Monroe được an táng tại ngăn số 24 trong khu vực Corridor of Memories (Hành lang Ký ức). DiMaggio đã sắp xếp để hoa hồng đỏ được đặt trong bình gắn cạnh mộ của cô ba lần mỗi tuần trong suốt hai mươi năm sau đó.[45]
Năm 1992, Hugh Hefner đã trả 75.000 đô la để được chôn cất tại Westwood Memorial Park, ngay bên cạnh Monroe. Năm 2009, ông nói với tờ Los Angeles Times: "Được ở cạnh Marilyn đến tận vĩnh hằng là một cơ hội quá ngọt ngào để bỏ lỡ." [46] Năm 2022, tờ The Independent gọi cái chết của cô là một "ám ảnh toàn cầu".[47]
Quản lý tài sản thừa kế
[sửa | sửa mã nguồn]Trong di chúc, Monroe để lại vài nghìn đô la cho người chị cùng mẹ khác cha là Berniece Baker Miracle và thư ký của cô là May Reis, một phần hỗ trợ học phí cho con gái của người bạn Norman Rosten, đồng thời lập một quỹ tín thác trị giá 100.000 đô la để chi trả chi phí chăm sóc mẹ ruột cô, Gladys Pearl Baker, và vợ góa của thầy dạy diễn xuất Michael Chekhov.[48] Phần tài sản còn lại, cô chia 25% cho bác sĩ tâm thần cũ Marianne Kris, "để phục vụ cho công việc của các tổ chức hoặc nhóm điều trị tâm thần mà bà lựa chọn",[48] và 75% bao gồm đồ dùng cá nhân, tiền bản quyền phim và bất động sản cho Lee Strasberg, người cô chỉ định sẽ phân chia những món đồ kỷ niệm “cho những người bạn, đồng nghiệp và những người cô yêu quý”.[49] Do những rắc rối pháp lý, những người thừa hưởng phải đến năm 1971 mới nhận được phần của mình.[49]
Khi Strasberg qua đời vào năm 1982, toàn bộ tài sản của ông được chuyển cho vợ là Anna Strasberg, người tuyên bố quyền hình ảnh công chúng của Monroe và bắt đầu cấp phép thương mại cho hình ảnh của cô.[49] Năm 1990, bà đã kiện Trung tâm Anna Freud, nơi Kris đã để lại phần quyền của mình đối với Monroe nhằm giành quyền sở hữu hoàn toàn di sản Monroe, nhưng không thành công.[50] Năm 1996, Anna Strasberg thuê CMG Worldwide, một công ty chuyên quản lý bản quyền hình ảnh người nổi tiếng để quản lý việc cấp phép này.[50] Anna Strasberg sau đó đã ngăn chặn Odyssey Group, Inc. bán đấu giá các món đồ mà người quản lý tài chính của Monroe - Inez Melson đã để lại cho cháu trai của bà là Millington Conroy.[51] Từ năm 1996 đến 2001, CMG đã ký kết 700 hợp đồng cấp phép với các công ty sản xuất hàng hóa.[50] Ngược với ý nguyện của Monroe, Lee Strasberg chưa bao giờ phân chia đồ vật của cô cho bạn bè, và năm 1999 Anna đã ủy quyền cho Christie’s tổ chức một cuộc đấu giá, thu về 13,4 triệu đô la.[52] Năm 2000, bà thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn Marilyn Monroe LLC.[53]
Tuyên bố của Marilyn Monroe LLC về việc độc quyền sở hữu quyền hình ảnh của Monroe đã trở thành đối tượng của một “vụ kiện mang tính bước ngoặt” vào năm 2006, khi những người thừa kế của ba nhiếp ảnh gia tự do từng chụp ảnh Monroe là Sam Shaw, Milton Greene, và Tom Kelley đã thắng kiện công ty tại tòa án bang California và New York.[50][53] Vào tháng 5 năm 2007, tòa án phán quyết rằng Monroe không thể chuyển giao quyền hình ảnh của mình cho di sản, vì đạo luật đầu tiên về quyền hình ảnh California Celebrities Rights Act chỉ được ban hành vào năm 1985.[50][c] Di sản của Monroe đã chấm dứt hợp tác với CMG Worldwide vào năm 2010, và bán quyền cấp phép hình ảnh cho Authentic Brands Group vào năm sau đó.[50][57] Cũng trong năm 2010, di sản này đã bán ngôi nhà ở Brentwood của Monroe với giá 3,8 triệu đô la,[58] và xuất bản một tuyển tập gồm các ghi chép, nhật ký và thư từ riêng tư của cô dưới tựa đề Fragments: Poems, Intimate Notes, Letters.[59]
Thuyết âm mưu
[sửa | sửa mã nguồn]Những năm 1960: Frank A. Capell, Jack Clemmons
[sửa | sửa mã nguồn]Trong những năm 1960, chưa có những thuyết âm mưu lan rộng về cái chết của Monroe.[60] Những cáo buộc đầu tiên rằng cô đã bị sát hại bắt nguồn từ cuốn sách tự xuất bản của nhà hoạt động chống cộng Frank A. Capell, có tên The Strange Death of Marilyn Monroe (1964), trong đó ông cho rằng cái chết của cô là một phần của âm mưu cộng sản. Capell khẳng định Monroe và Bộ trưởng Tư pháp Hoa Kỳ Robert F. Kennedy đã có mối quan hệ tình cảm, và Monroe đã đe dọa gây ra một vụ bê bối, dẫn đến việc Kennedy ra lệnh ám sát cô.[61] Ngoài việc buộc tội Kennedy là người ủng hộ cộng sản, Capell còn cho rằng nhiều người khác thân cận với Monroe, như bác sĩ của cô và chồng cũ Arthur Miller, cũng là cộng sản.[61]

Uy tín của Capell bị nghi ngờ nghiêm trọng vì nguồn thông tin duy nhất của ông là nhà báo Walter Winchell, người lại nhận được phần lớn thông tin từ chính Capell; do đó, Capell đã tự trích dẫn chính mình.[61] Người bạn của Capell, Trung sĩ LAPD Jack Clemmons, đã hỗ trợ ông trong việc phát triển cuốn sách; Clemmons, người là sĩ quan cảnh sát đầu tiên có mặt tại hiện trường cái chết của Monroe, trở thành nguồn trung tâm cho các nhà thuyết âm mưu.[62] Sau đó ông đưa ra những tuyên bố mà ông chưa từng đề cập trong cuộc điều tra chính thức năm 1962: ông cho rằng khi đến nhà Monroe, Murray đang giặt ga trải giường trong phòng giặt, và ông có "cảm giác thứ sáu" rằng có điều gì đó không ổn.[62]
Những cáo buộc của Capell và Clemmons được liên kết với mục tiêu chính trị của họ. Capell dành cả đời mình để phơi bày "Âm mưu Cộng sản Quốc tế" còn Clemmons là thành viên của Tổ chức Nghiên cứu Cảnh sát và Cứu hỏa (FiPo), tổ chức nhằm vạch trần "những hoạt động phản động đe dọa lối sống Mỹ của chúng ta".[61] FiPo và các tổ chức tương tự được biết đến với lập trường chống lại gia đình Kennedy và việc gửi thư tố cáo họ cho FBI; một hồ sơ FBI năm 1964 suy đoán về mối quan hệ tình cảm giữa Monroe và Robert F. Kennedy rất có thể xuất phát từ họ.[61]
Hơn nữa, Capell, Clemmons, và một người thứ ba đã bị truy tố vào năm 1965 bởi một bồi thẩm đoàn ở California vì tội "âm mưu vu khống bằng cách lấy và phát tán một bản khai sai sự thật" cáo buộc Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ Thomas Kuchel từng bị bắt vì hành vi đồng tính như một hành động trả đũa vì Kuchel ủng hộ Civil Rights Act of 1964.[63] Capell nhận tội, và các cáo buộc đối với Clemmons được hủy bỏ sau khi ông từ chức khỏi LAPD.[63]
Trong những năm 1960, cái chết của Monroe cũng được thảo luận trong cuốn Who Killed Marilyn Monroe? (1966) của Charles Hamblett và trong The Mysterious Death of Marilyn Monroe (1968) của James A. Hudson.[64] Tuy nhiên, các tài liệu của Capell, Hamblett, hay Hudson không được phổ biến rộng rãi.[60]
Những năm 1970: Norman Mailer, Robert Slatzer, Anthony Scaduto
[sửa | sửa mã nguồn]Các cáo buộc về việc sát hại lần đầu tiên trở thành chủ đề thảo luận chính thống với việc xuất bản cuốn sách Marilyn: A Biography của Norman Mailer vào năm 1973.[65] Dù không có bằng chứng, Mailer đã lặp lại lời cáo buộc rằng Monroe và Robert F. Kennedy từng có quan hệ tình cảm và suy đoán rằng cô đã bị giết bởi FBI hoặc CIA, những người muốn dùng vụ án mạng như một "điểm gây áp lực ... chống lại gia đình Kennedy".[66] Cuốn sách bị chỉ trích nặng nề trong các bài đánh giá, và sau đó trong năm, Mailer đã rút lại cáo buộc của mình trong một cuộc phỏng vấn với Mike Wallace cho chương trình 60 Minutes, ông cho biết đã nói vậy để đảm bảo thành công thương mại cho cuốn sách, và ông tin rằng cái chết của Monroe "có tỷ lệ mười ăn một" là một "tự tử vô ý".[66]
Hai năm sau, Robert F. Slatzer xuất bản cuốn The Life and Curious Death of Marilyn Monroe (1975), dựa trên cuốn sách của Capell.[67] Ngoài việc khẳng định Monroe bị Robert F. Kennedy giết, Slatzer còn gây tranh cãi khi tuyên bố từng kết hôn với Monroe tại Mexico trong ba ngày vào tháng 10 năm 1952, và họ vẫn giữ quan hệ bạn bè thân thiết cho đến khi cô qua đời.[67] Dù câu chuyện của ông không được lan truyền rộng rãi lúc đó, nó vẫn là trung tâm của các thuyết âm mưu.[68]
Tháng 10 năm 1975, nhà báo âm nhạc Anthony Scaduto xuất bản một bài báo về cái chết của Monroe trên tạp chí phim khiêu dâm nhẹ Oui, và năm sau đó mở rộng thành sách Who Killed Marilyn Monroe? (1976), xuất bản dưới bút danh Tony Sciacca. Nguồn thông tin duy nhất của ông là Slatzer và thám tử riêng Milo Speriglio.[69] Ngoài việc lặp lại các cáo buộc của Slatzer, Scaduto còn cho rằng Monroe đã giữ một cuốn nhật ký màu đỏ, trong đó cô viết các thông tin chính trị bí mật mà cô nghe được từ gia đình Kennedy, và nhà cô đã bị đặt micro nghe trộm bởi chuyên gia giám sát Bernard Spindelb theo lệnh của lãnh đạo công đoàn Jimmy Hoffa, người hy vọng thu thập được thông tin buộc tội gia đình Kennedy.[69]
Những năm 1980: Milo Speriglio, Anthony Summers
[sửa | sửa mã nguồn]Năm 1982, Speriglio xuất bản cuốn Marilyn Monroe: Murder Cover-Up, trong đó ông khẳng định rằng Monroe đã bị giết bởi Hoffa và trùm mafia Sam Giancana.[70] Dựa trên các cuốn sách của Slatzer và Scaduto, Speriglio bổ sung các tuyên bố của Lionel Grandison, người từng làm việc tại văn phòng pháp y quận Los Angeles vào thời điểm Monroe qua đời.[70] Grandison khẳng định rằng thi thể của Monroe có nhiều vết bầm nghiêm trọng nhưng điều này đã bị loại bỏ khỏi báo cáo khám nghiệm tử thi, và rằng ông đã thấy “cuốn nhật ký đỏ”, nhưng nó đã biến mất một cách bí ẩn.[70]
Speriglio và Slatzer yêu cầu chính quyền mở lại cuộc điều tra về cái chết của Monroe, và Văn phòng Biện lý Quận Los Angeles đã đồng ý xem xét lại vụ việc.[70] Cuộc điều tra mới không tìm thấy bằng chứng nào ủng hộ cho các cáo buộc giết người.[70] Grandison bị coi là nhân chứng không đáng tin cậy vì ông đã bị sa thải khỏi văn phòng pháp y do trộm cắp từ thi thể.[70] Các cáo buộc rằng ngôi nhà của Monroe bị nghe lén bởi Spindel cũng bị phát hiện là sai sự thật. Căn hộ của Spindel đã bị đột kích bởi Văn phòng Biện lý Quận Manhattan vào năm 1966, trong đó các băng ghi âm của ông bị thu giữ.[70] Sau đó, Spindel tuyên bố rằng ông đã nghe lén nhà của Monroe, nhưng điều này không được chứng thực qua nội dung các băng ghi âm mà các điều tra viên đã nghe.[70]

Nhà viết tiểu sử về Monroe nổi bật nhất trong những năm 1980 là nhà báo người Anh Anthony Summers, người viết rằng cái chết của Monroe là do sử dụng thuốc quá liều một cách tình cờ, được Robert F. Kennedy dung túng và che đậy. Cuộc điều tra của ông về Monroe bắt đầu như một nhiệm vụ của tờ báo lá cải Anh Sunday Express nhằm đưa tin về cuộc rà soát lại năm 1982 của Văn phòng Biện lý Quận Los Angeles.[71] Cuốn sách của Summers, Goddess: The Secret Lives of Marilyn Monroe (1985), trở thành một trong những cuốn tiểu sử về Monroe thành công nhất về mặt thương mại.[71] Trước khi viết về Monroe, ông đã viết một cuốn sách về vụ ám sát John F. Kennedy.
Theo Summers, Monroe có vấn đề nghiêm trọng về lạm dụng chất kích thích và bị loạn thần trong những tháng cuối đời.[72] Ông cáo buộc rằng Monroe đã có quan hệ tình cảm với cả John và Robert Kennedy, và khi Robert chấm dứt mối quan hệ, cô đã đe dọa sẽ công khai mối liên hệ đó. Kennedy và Lawford đã cố gắng ngăn chặn điều này bằng cách tiếp tay cho chứng nghiện của cô.[72] Theo Summers, Monroe đã trở nên kích động và dùng thuốc quá liều một cách tình cờ, qua đời trên đường đến bệnh viện trong xe cứu thương.[72] Kennedy muốn rời khỏi Los Angeles trước khi cái chết của Monroe bị phát hiện nhằm tránh liên quan đến vụ việc, do đó thi thể cô đã được đưa trở lại phòng ngủ và hiện trường quá liều được dàn dựng như một vụ tự sát bởi Lawford, gia đình Kennedy và J. Edgar Hoover.[72]
Summers dựa vào các cuộc phỏng vấn với 650 người có liên quan đến Monroe để xây dựng luận điểm của mình, nhưng nghiên cứu của ông bị chỉ trích bởi các nhà viết tiểu sử Donald Spoto và Sarah Churchwell.[71] Theo Spoto, Summers tự mâu thuẫn, trình bày thông tin sai sự thật như thể đó là sự thật, và xuyên tạc những gì bạn bè của Monroe từng nói về cô.[73] Churchwell viết rằng mặc dù Summers thu thập được một lượng lớn tư liệu mang tính giai thoại, phần lớn các cáo buộc đều là suy đoán; nhiều người mà ông phỏng vấn chỉ cung cấp thông tin gián tiếp hoặc từ người khác, và họ “nói những gì họ tin, chứ không phải những gì họ chắc chắn biết”.[74] Summers cũng là nhà viết tiểu sử lớn đầu tiên coi Slatzer là nhân chứng đáng tin, và ông phụ thuộc nhiều vào lời khai của các nhân chứng gây tranh cãi khác, bao gồm Jack Clemmons và Jeanne Carmen, một người mẫu-diễn viên tự nhận là bạn thân của Monroe nhưng bị Spoto và Lois Banner bác bỏ.[75][76] Các cáo buộc của Summers là cơ sở cho bộ phim tài liệu của BBC Marilyn: Say Goodbye to the President (1985), và cho một phân đoạn dài 26 phút được sản xuất cho chương trình 20/20 của ABC.[73] Tuy nhiên, phân đoạn này của 20/20 chưa bao giờ được phát sóng, vì Chủ tịch ABC Roone Arledge cho rằng những tuyên bố trong đó cần có thêm bằng chứng để xác minh.[73] Summers cho rằng quyết định của Arledge bị ảnh hưởng bởi áp lực từ gia đình Kennedy.[77]
Ghi chú
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Monroe tự nguyện nhập viện tại Payne Whitney Psychiatric Clinic ở New York City theo đề nghị của bác sĩ tâm thần Marianne Kris.[9] Kris sau này thừa nhận rằng đây là lựa chọn sai lầm: Monroe bị đưa vào khu dành cho bệnh nhân mắc loạn thần nặng, nơi bà bị nhốt trong phòng cách âm và không được chuyển sang khu phù hợp hơn hay rời khỏi bệnh viện.[9] Monroe cuối cùng rời viện sau ba ngày nhờ sự can thiệp của chồng cũ Joe DiMaggio và được chuyển đến Columbia University Medical Center, nơi bà ở lại thêm 23 ngày.[9]
- ^ Phiên bản này gần như không bị bác bỏ cho đến năm 1990, khi các cảnh phim còn sót lại của Something's Got to Give được công bố, cho thấy rằng Monroe, khi có mặt tại phim trường, hoàn toàn tỉnh táo và có thể quay được một số phân đoạn.[19] Theo lời kể sau này của nhà sản xuất phim Henry Weinstein, việc Monroe bị sa thải liên quan đến các vấn đề tài chính nghiêm trọng của hãng và sự thiếu kinh nghiệm của giám đốc điều hành Peter Levathes, chứ không hoàn toàn do hành vi của chính bà.[20]
- ^ Ngay sau đó, vào tháng 10 năm 2007, Thống đốc California Arnold Schwarzenegger đã ký dự luật Senate Bill 771, được Anna Strasberg và Screen Actors Guild cùng nhiều bên khác vận động, cho phép người không phải thân nhân có thể thừa hưởng quyền hình ảnh qua điều khoản thặng dư trong di chúc, miễn là người quá cố là cư dân California vào thời điểm qua đời.[50][54] Tuy nhiên, điều này không giúp được di sản Monroe, vì Tòa án Quận Liên bang Hoa Kỳ tại Los Angeles phán quyết vào tháng 3 năm 2008 rằng Monroe là cư dân New York khi qua đời, dựa trên tuyên bố của người thi hành di chúc với cơ quan thuế California và bản lời khai tuyên thệ năm 1966 của người quản gia của cô.[55] Quyết định này được Tòa án Quận của New York tái khẳng định vào tháng 9 năm 2008.[56] Sau đó, Anna Strasberg bị phạt 200.000 đô la và buộc phải trả 30.000 đô la bởi một tòa án New York vì “cố tình trì hoãn việc giao nộp các tài liệu chứng minh Monroe là cư dân hợp pháp của New York lúc qua đời”.[50]
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b Hertel, Howard; Neff, Don (ngày 6 tháng 8 năm 1962). "From the Archives: Marilyn Monroe Dies; Pills Blamed". Los Angeles Times. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2015.
- ^ Times, The Los Angeles (ngày 8 tháng 8 năm 2005). "Death of a star still an enigma". Chicago Tribune (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2024.
- ^ Spoto 2001, tr. 328–329, 368–376; Churchwell 2004, tr. 238; Banner 2012, tr. 211–214.
- ^ a b Banner 2012, tr. 335.
- ^ "New data show how closely FBI monitored Marilyn Monroe". CBS News (bằng tiếng Anh). ngày 28 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2023.
- ^ a b Riese & Hitchens 1988, tr. 270; Solomon 1988, tr. 139; Spoto 2001, tr. 435–445, 456; Churchwell 2004, tr. 266; Banner 2012, tr. 353–356, 361.
- ^ Spoto 2001, tr. 450–455.
- ^ Spoto 2001, tr. 453, for a new role, 466–467 for operations, 456–464 for psychiatric hospital stays.
- ^ a b c Spoto 2001, tr. 456–459.
- ^ Spoto 2001, tr. 465–470, 484–485.
- ^ Spoto 2001, tr. 495–496; Churchwell 2004, tr. 74–75.
- ^ a b Spoto 2001, tr. 524–525; Banner 2012, tr. 391–392; Rollyson 2014, tr. 264–272.
- ^ Spoto 2001, tr. 520–521; Churchwell 2004, tr. 284–285.
- ^ "Marilyn Monroe called Jackie Kennedy about JFK affair, book claims". CBS News (bằng tiếng Anh). ngày 5 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2023.
- ^ Spoto 2001, tr. 523; Churchwell 2004, tr. 74–75.
- ^ Churchwell 2004, tr. 74–75.
- ^ Spoto 2001, tr. 535–536.
- ^ Churchwell 2004, tr. 75.
- ^ Churchwell 2004, tr. 285–288.
- ^ Spoto 2001, tr. 535.
- ^ Spoto 2001, tr. 538–543; Churchwell 2004, tr. 285.
- ^ "Medicine: Marilyn's New Role". TIME (bằng tiếng Anh). ngày 17 tháng 2 năm 1961. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2024.
- ^ Summers 1985, tr. 301; Spoto 2001, tr. 537, 545–549; Churchwell 2004, tr. 286–288; Banner 2012, tr. 401–402.
- ^ Churchwell 2004, tr. 296–297; Spoto 2001, tr. 566; Banner 2012, tr. 410–411.
- ^ Spoto 2001, tr. 566; Banner 2012, tr. 410–411.
- ^ Banner 2012, tr. 410–411; Leaming 1998, tr. 422.
- ^ Banner 2012, tr. 410–411.
- ^ Spoto 2001, tr. 570–571; Banner 2012, tr. 410–411.
- ^ Banner 2012, tr. 410–411; Leaming 1998, tr. 423–424; Rollyson 2014, tr. 285.
- ^ Rollyson 2014, tr. 285.
- ^ Spoto 2001, tr. 570–571; Leaming 1998, tr. 423–424.
- ^ Banner 2012, tr. 410–411; Spoto 2001, tr. 574–577.
- ^ a b c d Banner 2012, tr. 411–412; Spoto 2001, tr. 580–583.
- ^ a b c d Kormam, Seymour (ngày 18 tháng 8 năm 1962). "Marilyn Monroe Ruled 'Probable Suicide' Victim". Chicago Tribune. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2015.
- ^ Banner 2012, tr. 411.
- ^ Spoto 2001, tr. 580–583.
- ^ Churchwell 2004, tr. 88, 300; Spoto 2001, tr. 605–606.
- ^ a b "Los Angeles Inquiry on Marilyn Monroe Rules Out Murder". The New York Times. ngày 29 tháng 12 năm 1982. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2016.
- ^ a b c McLellan, Dennis (ngày 7 tháng 10 năm 2010). "Ronald H. 'Mike' Carroll dies at 74; assistant D.A. led 1982 probe of Marilyn Monroe's death". Los Angeles Times. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2015.
- ^ Spoto 2001, tr. 606.
- ^ a b Churchwell 2004, tr. 302–304
- ^ a b Banner 2012, tr. 427.
- ^ Hopper, Hedda (ngày 6 tháng 8 năm 1962). "Pill Death Secret Goes With Marilyn". Chicago Tribune. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2015.
- ^ "Brilliant Stardom and Personal Tragedy Punctuated the Life of Marilyn Monroe". The New York Times. ngày 6 tháng 8 năm 1962. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2015.
- ^ a b Spoto 2001, tr. 594–597; Banner 2012, tr. 427–428.
- ^ Gottlieb, Jeff (ngày 14 tháng 8 năm 2009). "For sale: eternity with Marilyn Monroe". Los Angeles Times. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2020.
- ^ "Marilyn Monroe was a remarkable actor – so why are we only fixated on her death?". The Independent (bằng tiếng Anh). ngày 27 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2023.
- ^ a b Spoto 2001, tr. 454
- ^ a b c Churchwell 2004, tr. 247–248
- ^ a b c d e f g h Kirsta, Alix (ngày 3 tháng 2 năm 2012). "Selling the dead". The Daily Telegraph. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2015.
- ^ "Strasberg v. Odyssey Group, Inc. (1996)". Justia. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2015.
- ^ Bosworth, Patricia (ngày 1 tháng 6 năm 2003). "The Mentor and the Movie Star". Vanity Fair. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2015.
- ^ a b Koppel, Nathan (ngày 10 tháng 4 năm 2006). "A Battle Erupts Over the Right To Market Marilyn". The Wall Street Journal. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2015.
- ^ Lewis, Jordana (ngày 24 tháng 10 năm 2007). "Long-Dead Celebrities Can Now Breathe Easier". The New York Times. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2008.
- ^ Koppel, Nathan (ngày 1 tháng 4 năm 2008). "Marilyn Monroe Estate Takes a Hit". The Wall Street Journal. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2008.
- ^ "Indiana Company Loses Marilyn Monroe Lawsuit". Inside Indiana Business. ngày 4 tháng 9 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2008.
- ^ Gardner, Eriq (ngày 23 tháng 3 năm 2012). "Marilyn Monroe Images Prompt New Legal Dispute". The Hollywood Reporter. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2015.
- ^ Beale, Lauren (ngày 18 tháng 9 năm 2010). "Home where Marilyn Monroe died is sold". Los Angeles Times. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2015.
- ^ Kashner, Sam (ngày 5 tháng 10 năm 2010). "Marilyn and Her Monsters". Vanity Fair. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2011.
- ^ a b Churchwell 2004, tr. 89–90
- ^ a b c d e Spoto 2001, tr. 600–603; Churchwell 2004, tr. 89–90, 309–310.
- ^ a b Spoto 2001, tr. 600–602; Churchwell 2004, tr. 309.
- ^ a b Spoto 2001, tr. 600–602.
- ^ Churchwell 2004, tr. 90.
- ^ Churchwell 2004, tr. 92–94
- ^ a b Churchwell 2004, tr. 301–302
- ^ a b Churchwell 2004, tr. 94; Spoto 2001, tr. 227–229, 606–608.
- ^ Churchwell 2004, tr. 91–92.
- ^ a b Churchwell 2004, tr. 95; Spoto 2001, tr. 603–604.
- ^ a b c d e f g h Spoto 2001, tr. 603–606
- ^ a b c Churchwell 2004, tr. 97–98
- ^ a b c d Churchwell 2004, tr. 311–312
- ^ a b c Spoto 2001, tr. 606–608
- ^ Churchwell 2004, tr. 97–98, 311
- ^ Spoto 2001, tr. 583–592
- ^ Sharbutt, Jay (ngày 7 tháng 10 năm 1985). "'20/20' Probe: ABC Reviews Kennedy-Monroe Story". Los Angeles Times. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2015.
Thư mục
[sửa | sửa mã nguồn]- Banner, Lois (2012). Marilyn: The Passion and the Paradox. Bloomsbury. ISBN 978-1408831335.
- Churchwell, Sarah (2004). The Many Lives of Marilyn Monroe. Granta Books. ISBN 1862076952.
- Leaming, Barbara (1998). Marilyn Monroe. Three Rivers Press. ISBN 0609805533.
- Riese, Randall; Hitchens, Neal (1988). The Unabridged Marilyn. Corgi Books. ISBN 978-0552993081.
- Rollyson, Carl (2014). Marilyn Monroe Day by Day: A Timeline of People, Places and Events. Rowman and Littlefield. ISBN 978-1442230798.
- Spoto, Donald (2001). Marilyn Monroe: The Biography. Cooper Square Press. ISBN 0815411839.
- Solomon, Aubrey (1988). Twentieth Century-Fox: A Corporate and Financial History. Scarecrow Press. ISBN 978-0810842441.
- Summers, Anthony (1985). Goddess: The Secret Lives of Marilyn Monroe. Victor Gollancz Ltd. ISBN 978-0575036413.
- Wolfe, Donald (1998). The Assassination of Marilyn Monroe. Little, Brown & Co. ISBN 0316640190.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- "Marilyn Monroe Dead, Pills Near" Articles of Monroe's death in The New York Times
- "From the Archives: Marilyn Monroe Dies; Pills Blamed" in the Los Angeles Times
- "Funeral for a Hollywood legend: The death of Marilyn Monroe in the Los Angeles Times
- "Marilyn Monroe Is Dead" in the Chicago Tribune
- "Marilyn Is Dead Obituary in The Guardian
- Death of Marilyn Monroe—A British Pathé newsreel