Cần núi

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Levisticum officinale
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Plantae
(không phân hạng)Angiospermae
(không phân hạng)Eudicots
Bộ (ordo)Apiales
Họ (familia)Apiaceae
Tông (tribus)Apieae
Chi (genus)Levisticum
Hill
Loài (species)L. officinale
Danh pháp hai phần
Levisticum officinale
W.D.J.Koch, 1824

Cần núi, danh pháp khoa học Levisticum officinale hoặc Ligusticum levisticum, là một loài thực vật có hoa trong họ Hoa tán. Loài này được W.D.J. Koch mô tả khoa học đầu tiên năm 1824.[1]

Đặc điểm mô tả[sửa | sửa mã nguồn]

Là cây lâu năm, cây cao 2 m (6 ft), lá kép bóng có răng cưa, hoa màu vàng pha xanh, hạt nhỏ hình trứng.

Phân bố[sửa | sửa mã nguồn]

Được tìm thấy ở miền Nam châu Âu và Tây-Nam châu Á.

Canh tác[sửa | sửa mã nguồn]

Cây phát triển mạnh ở các sườn núi có ánh mặt trời. Lá cây được thu hoạch vào mùa xuân hay đầu hè. Rễ được thu hoạch vào mùa thu.

Thành phần hóa học[sửa | sửa mã nguồn]

Cây cần núi có chứa tinh dầu dễ bay hơi long não (gồm chất limonene, phellandrene, alpha - pinenesesquiterpene), peucedanin, oxypeucedaninestriol), quercetin.

Dược tính[sửa | sửa mã nguồn]

Rễ cây dùng làm ấm, có hương thơm, chất bổ và vị đắng. Nó có tác dụng rất mạnh bên trong dạ dày và bụng, ổn định chứng khó tiêu, giảm đầy hơi và tê liệt. Nó có hiệu quả trong việc điều trị các bệnh có liên quan đến ngực, chữa cảm lạnh, hen suyễn, viêm phế quản và kinh nguyệt.

Nếu đắp cây cần núi lên da có thể gây phản ứng nhạy cảm với ánh nắng.

Hình ảnh[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ The Plant List (2010). Levisticum officinale. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2013.[liên kết hỏng]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]