Cừu sừng Wiltshire

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Một con cừu sừng Wiltshire ở Bắc Stande

Cừu sừng Wiltshire (tiếng Anh: Wiltshire Horn) là một giống cừu nhà ban đầu có nguồn gốc từ vùng Wiltshire ở miền Nam nước Anh nuôi để lấy thịt cừu. Các giống này không bình thường giữa các giống bản địa của Anh với những đặc điểm bất thường của việc thay lông lông ngắn và lông tự nhiên trong mùa xuân, giảm sự cần thiết phải cắt lông. Chúng là những bà mẹ tốt và có khả năng sinh sản cao. Nhiều phẩm chất làm cho chúng ngày càng hấp dẫn đối với các ngành thương mại cừu, đặc biệt là ngay cả cừu thuần chủng có thể đạt trọng lượng giết mổ trong ít nhất là 16 tuần.

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Các con cừu Wiltshire Horn là cho đến thế kỷ thứ 18 một giống cừu chủ yếu phía nam nước Anh. Hàng trăm năm qua, nó phục vụ một chức năng rõ ràng ở Wiltshire Downs, đòi hỏi ít nơi trú ẩn từ các yếu tố và cung cấp phân và nước tiểu để bón cho đất trồng lúa mỳ. Đồng thời, nó cung cấp một nguồn dễ dàng quản lý chất lượng của thịt, nhưng sự tăng giá của len và một động thái nói chung đi từ cừu sừng thành các giống chịu sự suy giảm mạnh trong suốt thế kỷ 19 và 20.

Nó đã gần như tuyệt chủng vào đầu những năm 1900. Năm 1923, trong một nỗ lực để tiết kiệm giống, Hội Wiltshire Horn Breed được thành lập. Vào đầu năm 1980, đã có 45 đàn đăng ký tại Anh, nhưng năm 2009 của cuốn sách Hội đoàn chiên Wiltshire Horn Sheep công nhận gần 300 đàn. Các con Wiltshire Horn là một trong những giống nền tảng cho giống cừu Katahdin, cừu Wiltipoll và giống cừu Easycare. Cho đến thế kỷ 20, loài này được chủ yếu giao dịch tại các sự kiện địa phương như Hội chợ cừu Westbury.

Đặc điểm[sửa | sửa mã nguồn]

Cả con đực và cái đều có sừng. Sừng của con đực sẽ phát triển một xoắn ốc đầy đủ mỗi năm cho đến khi trưởng thành. Cả hai giới đều có màu trắng với dịp đốm đen trên lớp lông tơ. Đây là giống cừu có lông tóc dày, lớp lông thô trong mùa đông và rụng dần vào mùa hè. Mỗi con cừu đực nặng khoảng 250 pounds (110 kg) và cừu cái thì từ £150 (68 kg).

Trán chúng phẳng, xương mũi lồi ra, chúng có hố nước mắt, mõm của chúng mỏng, môi hoạt động, răng cửa sắc, nhờ đó chúng có thể gặm được cỏ mọc thấp và bứt được những lá thân cây mềm mại, hợp khẩu vị trên cao để ăn. Chúng có thói quen đi kiếm ăn theo bầy đàn, tạo thành nhóm lớn trên đồng cỏ. Trong da chúng có nhiều tuyến mồ hôi và tuyến mỡ hơn dê. Bởi thế chúng bài tiết mồ hôi nhiều hơn và các cơ quan hô hấp tham gia tích cực hơn vào quá trình điều tiết nhiệt.

Chăn nuôi[sửa | sửa mã nguồn]

Một đàn cừu tại Devon

Chúng có tính bầy đàn cao nên dễ quản lý, chúng thường đi kiếm ăn theo đàn nên việc chăm sóc và quản lý rất thuận lợi. Chúng cũng là loài dễ nuôi, mau lớn, ít tốn công chăm sóc. So với chăn nuôi bò thì chúng là vật nuôi dễ tính hơn, thức ăn của chúng rất đa dạng, thức ăn của chúng là những loại không cạnh tranh với lương thực của người. Chúng là động vật có vú ăn rất nhiều cỏ.

Hầu hết chúng gặm cỏ và ăn các loại cỏ khô khác, tránh các phần thực vật có gỗ nhiều. Chúng có chế độ hoạt động ban ngày, ăn từ sáng đến tối, thỉnh thoảng dừng lại để nghỉ ngơi và nhai lại. Đồng cỏ lý tưởng cho chúng như cỏ và cây họ Đậu. Khác với thức ăn gia súc, thức ăn chính của chúng là cỏ khô, phù hợp với điều kiện sa mạc khô hạn.

Chúng là loài ăn tạp, có thể ăn được nhiều loại thức ăn bao gồm thức ăn thô xanh các loại như: rơm cỏ tươi, khô, rau, củ quả bầu bí các loại, phế phụ phẩm công nông nghiệp và các loại thức ăn tinh bổ sung như cám gạo ngũ cốc. Mỗi ngày chúng có thể ăn được một lượng thức ăn 15-20% thể trọng. Chúng cần một lượng thức ăn tính theo vật chất khô bằng 3,5% thể trọng. Với nhu cầu 65% vật chất khô từ thức ăn thô xanh (0,91 kg) và 35% vật chất khô từ thức ăn tinh (0,49 kg). Khi cho chúng ăn loại thức ăn thô xanh chứa 20% vật chất khô và thức ăn tinh chứa 90% vật chất khô.

Nguồn nước uống là nhu cầu cơ bản của chúng. Lượng nước cần cho chúng biến động theo mùa và loại và chất lượng thực phẩm mà chúng tiêu thụ. Khi chúng ăn nhiều trong các tháng đầu tiên và có mưa (kể cả sương, khi chúng ăn vào sáng sớm), chúng cần ít nước hơn. Khi chúng ăn nhiều cỏ khô thì chúng cần nhiều nước. Chúng cũng cần uống nước sạch, và có thể không uống nếu nước có tảo hoặc chất cặn. Trong một số khẩu phần ăn của chúng cũng bao gồm các khoáng chất, hoặc trộn với lượng ít.

Chăm sóc[sửa | sửa mã nguồn]

Một đàn cừu sừng trên cánh đồng

Sau khi cho phối giống 16-17 ngày mà không có biểu hiện động dục lại là có thể cừu đã có chửa, Căn cứ vào ngày phối giống để chuẩn bị đỡ đẻ cho cừu (thời gian mang thai của cừu 146-150 ngày) nhằm hạn chế cừu sơ sinh bị chết; Có thể bồi dưỡng thêm thức ăn tinh và rau cỏ non cho cừu có chửa nhưng tuyệt đối tránh thức ăn hôi mốc; Khi có dấu hiệu sắp đẻ (bầu vú căng, xuống sữa, sụt mông, âm hộ sưng to, dịch nhờn chảy ra, cào bới sàn…) nên nhốt ở chuồng riêng có lót ổ rơm và chăn dắt gần, tránh đồi dốc.

Thông thường cừu mẹ nằm đẻ nhưng cũng có trường hợp đứng đẻ, tốt nhất nên chuẩn bị đỡ đẻ cho cừu; Sau khi đẻ cừu mẹ tự liếm cho con. Tuy nhiên, vẫn phải lấy khăn sạch lau khô cho cừu con, nhất là ở miệng và mũi cho cừu con dễ thở. Lấy chỉ sạch buộc cuống rốn (cách rốn 4–5 cm), cắt cuống rốn cho cừu con và dùng cồn Iod để sát trùng; Giúp cừu con sơ sinh đứng dậy bú sữa đầu càng sớm càng tốt (vì trong sữa đầu có nhiều kháng thể tự nhiên); Đẻ xong cho cừu mẹ uống nước thoải mái (có pha đường 1% hoặc muối 0.5%).

Cừu con trong 10 ngày đầu sau khi đẻ cừu con bú sữa mẹ tự do; Từ 11-21 ngày tuổi cừu con bú mẹ 3 lần/ngày, nên tập cho cừu con ăn thêm thức ăn tinh và cỏ non, ngon; 80-90 ngày tuổi có thể cai sữa. Giai đoạn này phải có cỏ tươi non, ngon cho cừu con để kích thích bộ máy tiêu hóa phát triển (đặc biệt là dạ cỏ) và bù đắp lượng dinh dưỡng thiếu hụt do sữa mẹ cung cấp không đủ; Cừu sinh trưởng và phát triển nhanh, mạnh ở giai đoạn này.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  • "Wiltshire Horn". Sheep Breeds V-Z. Sheep101.info. Truy cập 2009-05-07.
  • "Wiltshire Horn Sheep Breed". RaisingSheep.net. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2015.
  • "Wiltshire Horn". Breeds of Livestock. Oklahoma State University, Dept. of Animal Science. Truy cập 2009-05-07.
  • Budiansky, Stephen (1999). The Covenant of the Wild: Why animals chose domestication. Yale University Press. ISBN 0-300-07993-1.
  • Ensminger, Dr. M.E.; Dr. R.O. Parker (1986). Sheep and Goat Science, Fifth Edition. Danville, Illinois: The Interstate Printers and Publishers Inc. ISBN 0-8134-2464-X.
  • Pugh, David G. (2001). Sheep & Goat Medicine. Elsevier Health Sciences. ISBN 0-7216-9052-1.
  • Simmons, Paula; Carol Ekarius (2001). Storey's Guide to Raising Sheep. North Adams, MA: Storey Publishing LLC. ISBN 978-1-58017-262-2.
  • Smith M.S., Barbara; Mark Aseltine PhD; Gerald Kennedy DVM (1997). Beginning Shepherd's Manual, Second Edition. Ames, Iowa: Iowa State University Press. ISBN 0-8138-2799-X.
  • Weaver, Sue (2005). Sheep: small-scale sheep keeping for pleasure and profit. 3 Burroughs Irvine, CA 92618: Hobby Farm Press, an imprint of BowTie Press, a division of BowTie Inc. ISBN 1-931993-49-1.Quản lý CS1: địa điểm (liên kết)
  • Wooster, Chuck (2005). Living with Sheep: Everything You Need to Know to Raise Your Own Flock. Geoff Hansen (Photography). Guilford, Connecticut: The Lyons Press. ISBN 1-59228-531-7.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]