Chiến thắng kiểu Pyrros

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Danh tướng Pyrros của Hy Lạp cổ đại

Chiến thắng kiểu Pyrros hay Chiến thắng kiểu Pyrrhic là một thành ngữ để chỉ một thắng lợi gây ra những tổn thất khủng khiếp ở phe chiến thắng mà nó tương đương với thất bại. Một người nào đó nhận chiến thắng kiểu Pyrros cũng đã phải chịu những thiệt hại nặng nề hoặc ảnh hưởng đến sự tiến bộ lâu dài.

Thuật ngữ này được đặt tên theo vị vua - chiến binh kiệt xuất xứ Ipiros (Hy Lạp) là Pyrros. Trong cuộc chiến tranh cùng tên, ông đánh tan tác quân La Mã trong trận đánh tại Heraclea vào năm 280 trước Công nguyên, và mất không ít cận tướng trung thành và xuất sắc hơn cả trong trận thắng này. Sau đó, ông lại một lần nữa đánh tan tác quân La Mã trong trận đánh tại Asculum vào năm 279 trước Công nguyên. Bản thân ông cũng bị thương ở tay do trúng lao. Sau chiến thắng tại Asculum, khi có ai đó tôn vinh chiến công của ông, nhà vua - do phải chịu tổn thất thật nặng nề - nên hồi đáp:[1]

Trong cả hai chiến thắng nêu trên, quân đội La Mã đều chịu thương vong nặng hơn rất nhiều so với quân Ipiros. Tuy nhiên, quân La Mã có nguồn binh lực dồi dào và những tổn thất đó không gây ảnh hưởng lớn đến nỗ lực chiến tranh của họ. Trong khi đó, một phần đáng kể các chiến binh của Pyrros đều hy sinh, mà phần lớn trong số các chiến binh trận vong này lại là các bạn hữu và tướng lĩnh hàng đầu của nhà vua. Nhà vua không thể tuyển mộ tân binh, chưa kể các đồng minh của ông cũng không thực sự đoàn kết. Cứ sau mỗi thất bại, người La Mã lại càng tiến gần hơn đến thắng lợi.[1] Cuối cùng, chỉ bốn năm sau chiến thắng tại Asculum, đội quân kiệt quệ của Pyrros đã chịu một thất bại quyết định tại Beneventum vào năm 275 trước Công nguyên, do đó cuộc chiến tranh Pyrros kết thúc với việc quân La Mã toàn thắng.[2]

Nhiều sử liệu thuật lại câu nói của vua Ipiros sau trận thắng tại Asculum là: "Sau một chiến thắng kiểu này nữa, Ta sẽ đơn thương độc mã quay về xứ Ipiros",[3] hoặc là "Nếu quân ta đánh thắng giặc La Mã thêm một trận nữa, hẳn là quân ta sẽ nhận lấy thất bại."[4]

Ví dụ điển hình của "chiến thắng kiểu Pyrros"[sửa | sửa mã nguồn]

Một chiến thắng kiểu Pyrros mẫu mực thời hiện đại là trận huyết chiến tại thành cổ Verdun vào năm 1916 trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất.[5] Ban đầu quân Đức giành lợi thế, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Tướng Philippe Pétain phải kháng cự rất ác liệt và phải đến khi quân Nga mở cuộc Cuộc tổng tấn công của Brusilov và quân Anh mở trận phản công ở sông Somme (1916) thì quân Pháp mới bắt đầu giành lại được đất đai. Pétain thắng trận nhưng trở thành một "Pyrros thời hiện đại". Quân Đức gần như hoàn thành kế hoạch "chích máu giặc Pháp" của họ, và gây cho Quân đội Pháp suy sụp nghiêm trọng, mặc dù bản thân Đức cũng hứng chịu thiệt hại rất lớn.[5][6]

Cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc vào năm 1918, với chiến thắng kiểu Pyrros của nước Pháp. Trước đó, Phổ - Đức đã tự lực đánh thắng Pháp trong cuộc Chiến tranh Pháp-Phổ (1870 - 1871) và phải nhờ đến cả một lực lượng Đồng minh hùng mạnh thì Pháp mới có thể rửa được mối hận với Đức. Pháp phải chịu tổn thất đến 1.322.000 người trong suốt bốn năm Đại chiến thế giới thứ I, số dân này không thể được bù đắp. Cả quốc gia này hoàn toàn kiệt quệ trong khi miền Đông Bắc Pháp bị tàn phá nặng nề.[7] Giữa thập niên 1920, nhiều người Pháp tin chắc rằng một lần nữa người Đức sẽ tấn công Pháp quốc. Và quả nhiên, trong cuộc Đại chiến thế giới lần thứ hai, Quân đội Đức Quốc xã đã tấn công và đánh bại hoàn toàn quân Pháp vào năm 1940, buộc Thống chế Pétain phải đầu hàng.[8]

Một số trường hợp khác được xem là "chiến thắng kiểu Pyrros"[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b Plutarch, Arthur Hugh Clough, Plutarch's Lives (Volume 1 of 2), các trang 395-398.
  2. ^ Plutarch, Arthur Hugh Clough, Plutarch's Lives (Volume 1 of 2), trang 400
  3. ^ "Ne ego si iterum eodem modo uicero, sine ullo milite Epirum reuertar": Orosius, Historiarum Adversum Paganos Libri, IV, 1.15.
  4. ^ Plutarch, Life of Pyrrhus, 21:8.
  5. ^ a b Leonard V. Smith, Stéphane Audoin-Rouzeau, Annette Becker, France and the Great War, 1914-1918, trang 84
  6. ^ Richard Cooper Hall, Consumed by war: European conflict in the 20th century, trang 30
  7. ^ Władysław Wszebór Kulski, De Gaulle and the world: the foreign policy of the Fifth French Republic, trang 79
  8. ^ Michael Adas, Essays on Twentieth-Century History, trang 188
  9. ^ John Frederick Charles Fuller, A Military History of the Western World: From the earliest times to the Battle of Lepanto, trang 8
  10. ^ Simon Hornblower, Antony Spawforth, Who's who in the classical world, trang 10
  11. ^ Tom Bard Jones, Ancient civilization, trang 270
  12. ^ Plutarch, Lives, translated from the original Greek: *with notes historical and critical; and a life of Plutarch, Tập 2, trang 41
  13. ^ a b Plutarch, Lives, translated from the original Greek: with notes historical and critical; and a life of Plutarch, Tập 2, các trang 221-226.
  14. ^ Ergun Mehmet Caner, Emir Fethi Caner, Christian jihad: two former Muslims look at the Crusades and killing in the name of Christ, trang 121
  15. ^ Simon Gaul, Malta Gozo & Comino, 4th, New Holland Publishers, 2007, trang 118
  16. ^ Harry Berger, Fictions of the pose: Rembrandt against the Italian Renaissance, Nhà xuất bản Đại học Stanford, 2000, trang 609
  17. ^ Philippe Levillain, The Papacy: Gaius-Proxies, trang 938
  18. ^ Anthony Esler, The Western world: a narrative history: prehistory to the present, Prentice Hall, 1997, trang 299
  19. ^ Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha 1702
  20. ^ Joseph Amber Barry, Passions and politics: a biography of Versailles, trang 256
  21. ^ Albert Seaton, Frederick the Great's Army, trang 29
  22. ^ S. Fischer-Fabian, Prussia's glory: the rise of a military state, trang 241
  23. ^ John Childs, Armies and warfare in Europe, 1648-1789, Nhà xuất bản Đại học Manchester ND, 1982, trang 130
  24. ^ Robert B. Asprey, Frederick the Great: the magnificent enigma.
  25. ^ David Fraser, Frederick the Great: King of Prussia, trang 455
  26. ^ Hans Delbrück, The Dawn of Modern Warfare: History of the Art of War, trang 370
  27. ^ Hamish M. Scott, The emergence of the Eastern powers, 1756-1775, trang 39
  28. ^ David Nicholls, Napoleon: a biographical companion, ABC-CLIO, 1999, trang 152
  29. ^ Jonathon P. Riley, Napoleon and the World War of 1813: lessons in coalition warfighting, Routledge, 2000, trang 106
  30. ^ Edith Martha Almedingen, The Emperor Alexander I, trang 147
  31. ^ Lex Renda, Running on the record: Civil War-era politics in New Hampshire, trang 111
  32. ^ Joe Wheeler, Abraham Lincoln, a man of faith and courage: stories of our most admired president, Simon and Schuster, 2008, trang 25. ISBN 1416550968.
  33. ^ Steven E. Woodworth, John R Lundberg, Alexander Mendoza, The Chickamauga Campaign, trang 102
  34. ^ Peter N. Stearns, The Oxford encyclopedia of the modern world, Tập 1, trang 121
  35. ^ Esmé Cecil Wingfield-Stratford, They that take the sword, W. Morrow & company, 1931, trang 314.
  36. ^ Georg von Rauch, A history of Soviet Russia, Praeger, 1972, trang 34

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  • Denson, John, The Costs of War: America's Pyrrhic Victories. Transaction Publishers (1997). ISBN 1-560-00319-7.