Chrysiptera oxycephala

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Chrysiptera oxycephala
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Nhánh Ovalentaria
Họ (familia)Pomacentridae
Chi (genus)Chrysiptera
Loài (species)C. oxycephala
Danh pháp hai phần
Chrysiptera oxycephala
(Bleeker, 1877)
Danh pháp đồng nghĩa
  • Paraglyphidodon oxycephalus Bleeker, 1877
  • Abudefduf azurepunctatus Fowler & Bean, 1928
  • Chrysiptera melanomaculata H. Aoyagi, 1941

Chrysiptera oxycephala là một loài cá biển thuộc chi Chrysiptera trong họ Cá thia. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1877.

Từ nguyên[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh plagiometopon được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Hy Lạp cổ đại, oxús (ὀξύς, "sắc bén") và kephalḗ (κεφαλή, "đầu"), hàm ý có lẽ đề cập đến nét mặt bên của loài cá này, được mô tả là "có độ dốc rõ ràng" từ gáy xuống mõm.[1]

Phạm vi phân bố và môi trường sống[sửa | sửa mã nguồn]

C. oxycephala trước đây được cho là có phạm vi phân bố rộng khắp quần đảo Mã Lai, nhưng đó là một phức hợp loài bao gồm những loài ẩn sinh (cryptic species) của C. oxycephala. Những loài ẩn sinh này đã được tách ra thành những loài riêng biệt, là Chrysiptera ellenae, Chrysiptera maurineaeChrysiptera papuensis, sau đó là Chrysiptera burtjonesiChrysiptera uswanasi.[2]

Phạm vi hiện tại của C. oxycephala đã thu hẹp lại ở Philippines (đảo PalawanVisayas), rải rác ở Indonesia (phía đông Borneo, Karimunjawa, Sulawesi, quần đảo Sunda Nhỏquần đảo Maluku), cũng như tại Palau.[3]

C. oxycephala sống gần các rạn san hô ven bờ và trong đầm phá ở độ sâu đến ít nhất là 16 m.[4]

Mô tả[sửa | sửa mã nguồn]

Chiều dài lớn nhất được ghi nhận ở C. oxycephala là 9 cm.[4]

Cá trưởng thành màu vàng lục, chỉ ửng màu vàng tươi ở ngực, dưới họng và bụng (đặc điểm giúp phân biệt với các loài trong phức hợp). Có nhiều chấm nhỏ màu xanh lam trên vảy ở thân. Mống mắt có cặp sọc xanh ngọc lam băng ngang đồng tử. C. papuensis là loài có kiểu hình gần giống nhất với C. oxycephala, nhưng màu vàng ở C. papuensis lan rộng lên nửa thân dưới và cuống đuôi, và C. papuensis hơi sẫm nâu hơn ở đầu và một phần thân trước.[3]

Cá con của C. oxycephalaC. papuensis rất khó phân biệt nếu chỉ dựa vào kiểu hình. Chúng đều có màu xanh lam ở toàn bộ đầu và thân trước, và màu vàng tươi từ thân sau lan rộng đến cuống đuôi và bụng, cũng như trên vây bụng và vây hậu môn.[3]

Số gai ở vây lưng: 13; Số tia vây ở vây lưng: 10–12; Số gai ở vây hậu môn: 2; Số tia vây ở vây hậu môn: 11–13; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5; Số tia vây ở vây ngực: 13–15; Số lược mang: 29–31.[3]

Sinh thái học[sửa | sửa mã nguồn]

Thức ăn của C. oxycephala là các loài động vật giáp xác nhỏ. Chúng sống đơn độc hoặc theo cặp. Cá đực có tập tính bảo vệ và chăm sóc trứng; trứng có độ dính và bám chặt vào nền tổ.[4]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Scharpf, Christopher; Lazara, Kenneth J. (2021). “Series Ovalentaria (Incertae sedis): Family Pomacentridae”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2021.[liên kết hỏng]
  2. ^ Allen, Gerald R.; Erdmann, Mark V.; Cahyani, N. K. Dita. Chrysiptera uswanasi, a new microendemic species of damselfish (Teleostei: Pomacentridae) from West Papua Province, Indonesia” (PDF). Journal of the Ocean Science Foundation. 31: 74–86. doi:10.5281/zenodo.1482015.
  3. ^ a b c d Allen, Erdmann & Cahyani, sđd, tr.68–70
  4. ^ a b c Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Chrysiptera oxycephala trên FishBase. Phiên bản tháng 10 năm 2023.

Trích dẫn[sửa | sửa mã nguồn]