Chrysiptera rollandi

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Chrysiptera rollandi
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Nhánh Ovalentaria
Họ (familia)Pomacentridae
Chi (genus)Chrysiptera
Loài (species)C. rollandi
Danh pháp hai phần
Chrysiptera rollandi
(Whitley, 1961)
Danh pháp đồng nghĩa
  • Chromis rollandi Whitley, 1961

Chrysiptera rollandi là một loài cá biển thuộc chi Chrysiptera trong họ Cá thia. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1961.

Từ nguyên[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh rollandi được đặt theo tên của Jean Rolland (19332018), theo mong muốn của René Catala, người sáng lập Thủy cung Nouméa (Aquarium de Nouméa, sau đổi thành Aquarium des Lagons) tại Nouvelle-Calédonie, cũng là nơi thu thập mẫu định danh của loài cá này và chính Catala đã gửi nó cho tác giả Gilbert Percy Whitley. Về phía Rolland, ông là một thợ hàn, cũng là nhà tự nhiên học nghiệp dư và là tình nguyện viên trong những ngày đầu thành lập Thủy cung Nouméa.[1]

Phạm vi phân bố và môi trường sống[sửa | sửa mã nguồn]

Từ biển Andaman, phạm vi của C. rollandi trải dài về phía đông đến vùng biển các nước Đông Nam Á và các đảo quốc thuộc Melanesia, xa về phía nam đến Tonga, Nouvelle-Calédonierạn san hô Great Barrier. Tuy nhiên, kết quả phân tích DNA cho thấy, C. rollandi là một phức hợp loài có thể được chia ít nhất thành ba quần thể loài hợp lệ, lần lượt được phân bố tại biển Andaman (1), Nouvelle-Calédonie và khu vực phía nam biển San Hô (2), và phần còn lại Đông Nam Á và Úc (3).[2]Việt Nam, C. rollandi được ghi nhận tại Côn Đảo.[3]

Loài này sống trong các đầm phá và ra xa đến sườn dốc của rạn viền bờ ở độ sâu đến ít nhất là 35 m.[2]

Mô tả[sửa | sửa mã nguồn]

Chiều dài lớn nhất được ghi nhận ở C. rollandi là 7,5 cm.[2] C. rollandi có màu trắng nhạt, trừ vùng đầu và thân trước màu xanh lam xám sẫm.[4] Tùy vào vị trí địa lý, quần thể của loài này có thể xuất hiện các vùng màu vàng ở phía thân sau (như hình), nhiều khả năng là đại diện cho những loài chưa dược mô tả.[5]

Số gai ở vây lưng: 13; Số tia vây ở vây lưng: 10–11; Số gai ở vây hậu môn: 2; Số tia vây ở vây hậu môn: 12–13; Số tia vây ở vây ngực: 15; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5; Số lược mang: 21–22; Số vảy đường bên: 14–16.[4]

Sinh thái học[sửa | sửa mã nguồn]

Thức ăn của C. rollandi bao gồm tảođộng vật phù du.[6] Chúng sống theo từng nhóm nhỏ hoặc đơn độc. Cá đực có tập tính bảo vệ và chăm sóc trứng; trứng có độ dính và bám chặt vào nền tổ.[2]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Scharpf, Christopher; Lazara, Kenneth J. (2021). “Series Ovalentaria (Incertae sedis): Family Pomacentridae”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2022.[liên kết hỏng]
  2. ^ a b c d Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Chrysiptera rollandi trên FishBase. Phiên bản tháng 10 năm 2023.
  3. ^ Trần Ngọc Cường biên tập (2013). “Thông Tin Về Đất Ngập Nước Ramsar (RIS) – Côn Đảo” (PDF). Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
  4. ^ a b John E. Randall; Gerald R. Allen; Roger C. Steene (1998). The Fishes of the Great Barrier Reef and Coral Sea. Nhà xuất bản Đại học Hawaii. tr. 265. ISBN 978-0824818951.
  5. ^ Chrysiptera rollandi Pomacentridae”. Reef Life Survey. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2022.
  6. ^ Gerry Allen (1999). Marine Fishes of South-East Asia: A Field Guide for Anglers and Divers. Roger Swainston, Jill Ruse (minh họa). Nhà xuất bản Tuttle Publishing. tr. 162. ISBN 978-1462917075.