Chung kết giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ 2012

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Chung kết FIFA Club World Cup 2012
Sự kiệnFIFA Club World Cup 2012
Ngày16 tháng 12 năm 2012 (2012-12-16)
Địa điểmSân vận động quốc tế Yokohama, Yokohama[1]
Cầu thủ xuất sắc
nhất trận đấu
Cássio (Corinthians)[2]
Trọng tàiCüneyt Çakır (Thổ Nhĩ Kỳ)[1]
Khán giả68.275
Thời tiếtĐêm trong
13 °C (55 °F)
độ ẩm 42%
2011
2013

Chung kết FIFA Club World Cup 2012 là trận đấu cuối cùng của FIFA Club World Cup 2012, một giải đấu bóng đá được tổ chức tại Nhật Bản. Đây là trận chung kết thứ chín của FIFA Club World Cup, giải đấu do FIFA tổ chức giữa các câu lạc bộ vô địch của sáu liên đoàn châu lục, cũng như đội vô địch quốc gia của nước chủ nhà.

Trận chung kết là cuộc đối đầu giữa nhà vô địch CONMEBOL Corinthians và nhà vô địch UEFA Chelsea, được diễn ra trên Sân vận động quốc tế YokohamaYokohama ngày 16 tháng 12 năm 2012. Corinthians đánh bại Chelsea 1–0 sau một pha đánh đầu của Paolo Guerrero, qua đó giành chức vô địch FIFA Club World Cup lần thứ hai, trước đó được biết đến là FIFA Club World Championship, mười hai năm sau lần đầu tiên vào năm 2000. Trận đấu bắt đầu lúc 19:30 JST và được bắt chính bởi trọng tài người Thổ Nhĩ Kỳ Cüneyt Çakır.

Cả hai câu lạc bộ tham dự sau khi giành chức vô địch giải bóng đá châu lục cấp câu lạc bộ. Corinthians vô địch Copa Libertadores 2012 sau chiến thắng 2–0 trước Boca Juniors trong trận chung kết, trong khi đó Chelsea vô địch UEFA Champions League 2011–12 sau khi đánh bại Bayern München 4–3 trong loạt sút luân lưu, khi để hòa 1–1 trong thời gian thi đấu chính thức. Đây là lần thứ hai Corinthians tham gia giải đấu, tại giải đấu năm 2000, họ giành chức vô địch sau chiến thắng 4–3 trong loạt sút luân lưu trước Vasco da Gama.

Bối cảnh[sửa | sửa mã nguồn]

Sân vận động quốc tế Yokohama tổ chức trận chung kết FIFA Club World Cup thứ năm, hai năm 2009 và 2010 được diễn ra trên Sâm vận động Sports City ZayedAbu Dhabi, Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất. Đội bóng đến từ Brasil chiếm ưu thế nhất so với các đội bóng Nam Mỹ, với lần đầu tiên năm 2000, khi Corinthians vô địch giải đấu lần đầu tiên, khi đó được gọi là FIFA Club World Championship, nơi họ đánh bại Vasco da Gama 4–3 trong loạt sút luân lưu. Sau đó là São Paulo, họ đánh bại Liverpool 1–0 và Internacional với tỉ số tương tự với Barcelona. Manchester United là đội bóng Anh duy nhất từng vô địch, năm 2008, khi họ đánh bại đội bóng Ecuador LDU Quito 1–0.

Đường tới chung kết[sửa | sửa mã nguồn]

Cả hai đều được đặc cách vào thẳng bán kết.

Brasil Corinthians Đội Anh Chelsea
CONMEBOL Liên đoàn UEFA
Vô địch Copa Libertadores 2012 Tư cách Vô địch UEFA Champions League 2011–12
Miễn Play-off Miễn
Miễn Tứ kết Miễn
1–0 Ai Cập Al-Ahly
(Guerrero 30')
Bán kết 3–1 México Monterrey
(Mata 17', Torres 46', Chávez 48' p.l.n)

Corinthians[sửa | sửa mã nguồn]

Corinthians vào chung kết sau chiến thắng 1–0 trước Al-Ahly ngày 12 tháng Mười hai. Paolo Guerrero ghi bàn thắng duy nhất sau cú đánh đầu phút 30.[3][4]

Chelsea[sửa | sửa mã nguồn]

Chelsea gặp Monterrey ngày 13 tháng 12, thắng 3–1 sau các bàn thắng của Juan Mata, Fernando Torres, và bàn phản lưới của Dárvin Chávez. Aldo de Nigris ghi bàn danh dự cho Monterrey trong thời gian bù giờ.[5][6]

Trước trận đấu[sửa | sửa mã nguồn]

Địa điểm thi đấu[sửa | sửa mã nguồn]

Sân vận động quốc tế Yokohama được lựa chọn là địa điểm thi đấu của FIFA Club World Cup từ 2005. Nơi đây được xây dựng và khánh thành năm 1998, và là sân nhà của Yokohama F. Marinos, đội bóng thi đấu tại J. League, hạng đấu cao nhất của hệ thống giải đấu Nhật Bản. Nơi đây từng năm lần tổ chức chung kết FIFA Club World Championship và Club World Cup, các năm 2005, 2006, 20072008, cũng như 2011.

Bóng thi đấu[sửa | sửa mã nguồn]

Trái bóng chính thức của trận chung kết là Adidas Cafusa, được cung cấp bởi công ty thiết bị thể thao Đức Adidas. Nó cũng được sử dụng ở toàn giải đâu cũng như FIFA Confederations Cup 2013.[7]

Trọng tài[sửa | sửa mã nguồn]

Cüneyt Çakır, đến từ Liên đoàn bóng đá Thổ Nhĩ Kỳ và UEFA, được lựa chọn là trọng tài của trận chung kết. Ông lần đầu là trọng tài quốc tế năm 2006,[8] và lần đầu bắt một trận đấu tại FIFA Club World Cup, trong trận tứ kết đầu tiên giữa Ulsan HyundaiMonterrey ngày 9 tháng 12 năm 2012. Çakır được trợ lý bởi Bahattin Duran và Tarık Ongun, trong khi trọng tài thứ tư và thứ năm là Alireza Faghani và Hassan Kamranifar, đến từ Liên đoàn bóng đá Iran và là một trong hai đại diện của AFC tại giải đấu, cùng với Nawaf Shukralla của Hiệp hội bóng đá Bahrain.

Trận đấu[sửa | sửa mã nguồn]

Chi tiết[sửa | sửa mã nguồn]

Corinthians Brasil1–0Anh Chelsea
Guerrero  69' Chi tiết
Corinthians
Chelsea
GK 12 Brasil Cássio
RB 2 Brasil Alessandro (c)
CB 3 Brasil Chicão
CB 13 Brasil Paulo André
LB 6 Brasil Fábio Santos
CM 5 Brasil Ralf
CM 8 Brasil Paulinho
RW 11 Qatar Emerson Thay ra sau 90+1 phút 90+1'
AM 20 Brasil Danilo
LW 23 Brasil Jorge Henrique Thẻ vàng 56'
CF 9 Peru Paolo Guerrero Thay ra sau 87 phút 87'
Dự bị:
FW 7 Argentina Juan Manuel Martínez Vào sân sau 87 phút 87'
DF 4 Brasil Wallace Vào sân sau 90+1 phút 90+1'
Huấn luyện viên:
Brasil Tite
GK 1 Cộng hòa Séc Petr Čech
RB 2 Serbia Branislav Ivanović Thay ra sau 83 phút 83'
CB 24 Anh Gary Cahill Thẻ đỏ 90'
CB 4 Brasil David Luiz Thẻ vàng 72'
LB 3 Anh Ashley Cole
CM 7 Brasil Ramires
CM 8 Anh Frank Lampard (c)
RW 13 Nigeria Victor Moses Thay ra sau 73 phút 73'
AM 10 Tây Ban Nha Juan Mata
LW 17 Bỉ Eden Hazard Thay ra sau 87 phút 87'
CF 9 Tây Ban Nha Fernando Torres
Dự bị:
MF 11 Brasil Oscar Vào sân sau 73 phút 73'
DF 28 Tây Ban Nha César Azpilicueta Vào sân sau 83 phút 83'
MF 21 Đức Marko Marin Vào sân sau 87 phút 87'
Huấn luyện viên:
Tây Ban Nha Rafael Benítez

Cầu thủ xuất sắc nhất trận đấu
Cássio (Corinthians)[2]

Trợ lý trọng tài:
Bahattin Duran (Thổ Nhĩ Kỳ)[1]
Tarık Ongun (Thổ Nhĩ Kỳ)[1]
Trọng tài thứ tư:
Alireza Faghani (Iran)[1]
Trọng tài thứ năm:
Hassan Kamranifar (Iran)[1]

Điều lệ[9]

  • 90 phút.
  • 30 phút hiệp phụ nếu cần.
  • Sút luân lưu nếu tỉ số vẫn hòa.
  • Mười hai cầu thủ dự bị.
  • Thay tối đa ba người.

Thống kê[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g “Match Report” (PDF). FIFA. Fédération Internationale de Football Association. ngày 16 tháng 12 năm 2012. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 22 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2016. Đã định rõ hơn một tham số trong |accessdate=|access-date= (trợ giúp)
  2. ^ a b “Double joy for Corinthians stars”. FIFA. Fédération Internationale de Football Association. ngày 16 tháng 12 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2016. Đã định rõ hơn một tham số trong |accessdate=|access-date= (trợ giúp)
  3. ^ “Corinthians book place in final with win over Al Ahly”. The Guardian. Guardian News and Media. Reuters. ngày 12 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2012.
  4. ^ Armstrong, Jim (ngày 12 tháng 12 năm 2012). “Corinthians advance to final at Club World Cup”. Yahoo! Sports. Yahoo!. Associated Press. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2016. Đã định rõ hơn một tham số trong |accessdate=|access-date= (trợ giúp)
  5. ^ Rose, Gary (ngày 13 tháng 12 năm 2012). “Monterrey 1–3 Chelsea”. BBC Sport. British Broadcasting Corporation. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2012.
  6. ^ Wrigley, James (ngày 13 tháng 12 năm 2012). “Chelsea reach Club World Cup final after beating Monterrey”. The Independent. Independent Print Limited. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2012.
  7. ^ “adidas Cafusa launched at Brasil 2013 draw”. FIFA.com. Fédération Internationale de Football Association. ngày 15 tháng 12 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2016. Đã định rõ hơn một tham số trong |accessdate=|access-date= (trợ giúp)
  8. ^ “Referees – Cüneyt Çakır”. FIFA. Fédération Internationale de Football Association. ngày 14 tháng 12 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2016. Đã định rõ hơn một tham số trong |accessdate=|access-date= (trợ giúp)
  9. ^ “Regulations – FIFA Club World Cup Japan 2012” (PDF). FIFA. Fédération Internationale de Football Association. ngày 16 tháng 12 năm 2012. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 18 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2012.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]