Cirrhilabrus naokoae

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cirrhilabrus naokoae
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Labriformes
Họ (familia)Labridae
Chi (genus)Cirrhilabrus
Loài (species)C. naokoae
Danh pháp hai phần
Cirrhilabrus naokoae
Randall & Tanaka, 2009

Cirrhilabrus naokoae là một loài cá biển thuộc chi Cirrhilabrus trong họ Cá bàng chài. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 2009.

Từ nguyên[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh naokoae được đặt theo tên của bà Naoko, vợ của tác giả Hiroyuki Tanaka.[1]

Phạm vi phân bố và môi trường sống[sửa | sửa mã nguồn]

C. naokoae được biết đến lần đầu tiên thông qua 3 mẫu vật của cá đực được lấy từ một cửa hàng cá cảnh.[2] Sau này, C. naokoae mới được ghi nhận chắc chắn tại vùng biển phía tây bắc đảo Sumatra (Indonesia). Các mẫu vật của C. naokoae được thu thập ở độ sâu khoảng 10–20 m.[2]

Mô tả[sửa | sửa mã nguồn]

Chiều dài lớn nhất được ghi nhận ở C. naokoae là 6 cm.[2] Loài này có kiểu hình rất giống với Cirrhilabrus joanallenae.

Vây đuôi bo tròn ở cá cái và cá đực. Vây bụng của cá đực rất dài và lớn, có màu đen. Cá đực có màu đỏ thẫm ở thân trên (lan rộng đến gốc vây ngực và nửa trên cuống đuôi), thân dưới và bụng màu trắng, được ngăn cách bởi một dải màu vàng kéo dài đến nửa dưới cuống đuôi (dày hơn so với C. joanallenae). Nửa dưới đầu có màu trắng, vệt trắng uốn cong lên nắp mang (C. joanallenae không có đặc điểm này).[3] Khi sợ hãi, C. naokoae xuất hiện các vệt lốm đốm trắng trên cơ thể.[2]

Hình dạng vây lưng của C. naokoae không giống bất kỳ loài nào trong chi Cirrhilabrus. Bốn gai đầu tiên nhô cao làm phần vây lưng trước có hình tam giác giống như cánh buồm, trong khi các thành viên còn lại trong nhóm phức hợp loài thì các tia gai vươn dài như sợi. Vây lưng và vây hậu môn màu đỏ nâu, viền xanh óng ở rìa với các hàng đốm xanh dọc theo chiều dài của vây. Vây đuôi ánh màu xanh lam nhờ vào màu của các tia vây.[3]

Cá cái màu đỏ cam, nhạt dần sang màu trắng ở phần bụng với một đốm đen duy nhất trên cuống đuôi. Hai bên thân có các hàng sọc ngang.[3]

Số gai ở vây lưng: 11–12; Số tia vây ở vây lưng: 9; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 9; Số tia vây ở vây ngực: 15; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5.[2]

Phân loại học[sửa | sửa mã nguồn]

C. joanallenaeC. naokoae được gộp vào một nhóm phức hợp loài cùng với Cirrhilabrus humanni, Cirrhilabrus morrisoniCirrhilabrus rubriventralis, đặc trưng bởi vây lưng vươn cao, vây đuôi bo tròn và vây bụng hình cánh quạt.[4]

Những cá thể lai tạp giữa C. joanallenaeC. naokoae đã được ghi nhận tại phía bắc đảo Sumatra, nơi hai loài có cùng khu phân bố.[3]

Thương mại[sửa | sửa mã nguồn]

C. naokoae được thu thập trong ngành buôn bán cá cảnh.[3]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Scharpf, Christopher; Lazara, Kenneth J. (2021). “Order Labriformes: Family Labridae (a-h)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2021.
  2. ^ a b c d e John E. Randall & Hiroyuki Tanaka (2009). Cirrhilabrus naokoae, a new labrid fish from Indonesia”. aqua, International Journal of Ichthyology (PDF). 15 (1): 29–36.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  3. ^ a b c d e Lemon T. Y. K. (5 tháng 11 năm 2015). “3.3 Fairy Wrasses: The rubriventralis group”. Reef Builders. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2021.
  4. ^ Gerald R. Allen & Mark V. Erdmann (2012). “Cirrhilabrus humanni n. sp”. Trong Gerald R. Allen & Mark V. Erdmann (biên tập). Reef Fishes of the East Indies (PDF). Perth, Úc: Tropical Reef Research. tr. 1138–1141. ISBN 978-0987260000.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)