Danh sách đĩa nhạc của Adele

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Danh sách đĩa nhạc của Adele
Adele biểu diễn năm 2011
Album phòng thu4
Video âm nhạc7
EP2
Đĩa đơn15

Danh sách đĩa nhạc của nữ nghệ sĩ người Anh Adele bao gồm 4 album phòng thu, 2 EP và 15 đĩa đơn. Adele được biết đến ở Vương quốc Anh từ năm 2008 khi album đầu tay của cô, 19, đạt vị trí quán quân trên UK Albums Chart và đĩa đơn "Chasing Pavements" leo lên vị trí thứ 2 trên UK Singles Chart.[1] Các đĩa đơn khác được phát hành bao gồm "Hometown Glory", "Cold Shoulder" và "Make You Feel My Love".

Album thứ hai của cô, 21, phát hành tháng 1 năm 2011 đã nhanh chóng được chứng nhận đĩa bạch kim bởi British Phonographic Industry và đạt vị trí quán quân ở Anh.[1][2] 21 có 24 tuần dẫn đầu trên Billboard 200 kể từ khi phát hành tại Hoa Kỳ.[3] Đĩa đơn đầu tiên từ album, "Rolling in the Deep", đạt vị trí số 2 tại Anh và trở thành đĩa đơn quán quân đầu tiên của cô trên Billboard Hot 100.[1] Đĩa đơn tiếp theo, "Someone Like You" trở thành đĩa đơn quán quân đầu tiên của Adele ở quê nhà. Không lâu sau đó, album và hai đĩa đơn trên được phát hành tại Mỹ và chúng nhanh chóng dẫn đầu bảng xếp hạng tại đây.[4] "Set Fire to the Rain" được phát hành làm đĩa đơn thứ ba ở các nước châu Âu và là đĩa đơn quán quân thứ ba liên tiếp tại Hoa Kỳ. Album 21 là một bước đột phá của Adele so với album đầu khi tiêu thụ được 30 triệu bản trên toàn thế giới.[5]

Vào tháng 10 năm 2012 Adele phát hành "Skyfall", bài hát chủ đề của bộ phim cùng tên thuộc loạt phim James Bond. Bài hát đạt vị trí á quân ở Anh Quốc, thứ 8 tại Hoa Kỳ cũng như quán quân tại Đức, Pháp, Ireland, Hà Lan và Thụy Sĩ.

25, album phòng thu thứ ba của Adele, được phát hành ngày 20 tháng 11 năm 2015. Đây là album bán chạy nhất năm 2015 với 17,4 triệu bản.[6] Trước đó đĩa đơn "Hello" đã được ra mắt làm đĩa đơn chủ đạo vào ngày 23 tháng 10 năm 2015. "Hello" đạt được vị trí quán quân tại Anh Quốc và đĩa đơn thứ hai của cô làm được điều này.[7] Bài hát ra mắt tại Hoa Kỳ ở vị trí số một trên Billboard Hot 100, trở thành đĩa đơn thứ tư quán quân tại Mỹ mà Adele sở hữu, đồng thời phá nhiều kỷ lục tại đây trong đó có bài hát đầu tiên có trên 1 triệu lượt mua trực tuyến trong 1 tuần.[8]

Tính tới tháng 3 năm 2016, Adele đã bán được trên 10 triệu album tại Anh Quốc[9] cùng 20,28 triệu album tại Hoa Kỳ tính tới tháng 12 năm 2015.[10] Adele giữ kỷ lục 31 tuần ở ngôi vị quán quân trên UK Albums Chart, nhiều nhất trong số các nghệ sĩ nữ.[11]

Album[sửa | sửa mã nguồn]

Album phòng thu[sửa | sửa mã nguồn]

Danh sách các album với vị trí cao nhất trên bảng xếp hạng, chứng nhận theo doanh số tiêu thụ album
Tựa đề Chi tiết album Vị trí cao nhất trên bảng xếp hạng Doanh số Chứng nhận
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland
Anh
[12]
Úc
Úc
[13]
Canada
Canada
[14]
Pháp
Pháp
[15]
Đức
Đức
[16]
Cộng hòa Ireland
Ireland
[17]
Hà Lan
Hà Lan
[18]
New Zealand
New Zealand
[19]
Thụy Sĩ
Thụy Sĩ
[20]
Hoa Kỳ
Mỹ
[21]
19 1 3 4 15 15 2 1 3 15 4
21
  • Phát hành: 19 tháng 1 năm 2011
  • Hãng đĩa: XL
  • Định dạng: Tải nhạc, CD, LP
1 1 1 1 1 1 1 1 1 1
  • Thế giới: 31.000.000[31]
  • Anh: 4.751.000[9]
  • Úc: 1.030.000[32]
  • Canada: 1.489.000[33]
  • Ireland: 270.000[34]
  • Mỹ: 11.500.000[35]
  • Anh: 17× Bạch kim[2]
  • Úc: 17× Bạch kim[36]
  • Canada: 2× Kim cương[25]
  • Đức: 8× Bạch kim[26]
  • Ireland: 18× Bạch kim

[37]

  • Hà Lan: 9× Bạch kim[38]
  • New Zealand: 13× Bạch kim[29]
  • Thụy Sĩ: 7× Bạch kim[27]
  • Mỹ: 14× Bạch kim (Kim cương)[30]
25
  • Phát hành: 20 tháng 11 năm 2015
  • Hãng đĩa: XL, Columbia (Hoa Kỳ)
  • Định dạng: Tải nhạc, CD, LP
1 1 1 1 1 1 1 1 1 1
  • Thế giới: 19.000.000[39]
  • Anh Quốc: 2.902.000[40]
  • Canada: 860.000[41]
  • Đức: 263.000[42]
  • Pháp: 785.300[43]
  • Ireland: 107.000[44]
  • Hà Lan: 120.000[45]
  • Hoa Kỳ: 8.600.000[46]
  • Anh: 12× Bạch kim[2]
  • Úc: 10× Bạch kim[47]
  • Đức: 6× Bạch kim[26]
  • Canada: Kim cương[25]
  • Thụy Sĩ: 6× Bạch kim[27]
  • Hoa Kỳ: 11× Bạch kim (Kim cương)[30]
  • New Zealand: 10× Bạch kim[48]
30
  • Phát hành: 19 tháng 11 năm 2021
  • Hãng Đĩa: XL, Columbia
  • Định dạng: Tải nhạc, CD, LP
TBA

Đĩa mở rộng[sửa | sửa mã nguồn]

Tên Chi tiết Vị trí cao nhất
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland
Anh
[12]
Cộng hòa Ireland
Ireland
[17]
Pháp
Pháp
[15]
Hoa Kỳ
Mỹ
[21]
iTunes Live from SoHo
  • Phát hành: 3 tháng 2 năm 2009[49]
  • Hãng đĩa: XL
  • Định dạng: Tải kỹ thuật số
105
iTunes Festival: London 2011
  • Phát hành: 13 tháng 7 năm 2011[50]
  • Hãng đĩa: XL
  • Định dạng: Tải kỹ thuật số
74 45 112 50
"—" có nghĩa EP đó không xếp hạng hoặc phát hành ở khu vực đó.

Đĩa đơn[sửa | sửa mã nguồn]

Đĩa đơn solo[sửa | sửa mã nguồn]

Danh sách các đĩa đơn với những vị trí xếp hạng cao nhất
Tựa đề Năm Vị trí cao nhất Chứng nhận Album
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland
Anh
[12]
Úc
Úc
[13]
Canada
Canada
[51]
Pháp
FRA
[15]
Đức
Đức
[16]
Cộng hòa Ireland
Ireland
[17]
Hà Lan
Hà Lan
[18]
New Zealand
New Zealand
[19]
Thụy Sĩ
Thụy Sĩ
[20]
Hoa Kỳ
Mỹ
[52]
"Hometown Glory" 2007 19 51 78 86
  • Anh: Bạch kim[2]
  • Canada: Bạch kim[25]
19
"Chasing Pavements" 2008 2 28 46 7 3 21
  • Anh: Bạch kim[2]
  • Canada: 2× Bạch kim[25]
  • Mỹ: Bạch kim[30]
"Cold Shoulder" 18 68
"Make You Feel My Love" 4 5 1
  • Anh: 3× Bạch kim[2]
  • Canada: 4× Bạch kim[25]
  • Mỹ: Vàng[30]
"Rolling in the Deep" 2010 2 3 1 3 1 2 1 3 1 1
  • Anh: 3× Bạch kim[2]
  • Úc: 7× Bạch kim[53]
  • Đức: Bạch kim[26]
  • Thụy Sĩ: 3× Bạch kim[27]
  • Canada: Kim cương[25]
  • Mỹ: 8× Bạch kim[30]
  • New Zealand: 2× Bạch kim[54]
21
"Someone Like You" 2011 1 1 2 1 4 1 2 1 1 1
  • Anh: 5× Bạch kim[2]
  • Úc: 7× Bạch kim[53]
  • Đức: Bạch kim[26]
  • Canada: Kim cương[25]
  • Mỹ: 5× Bạch kim[30]
  • New Zealand: 3× Bạch kim[54]
"Set Fire to the Rain" 11 11 2 9 6 6 1 8 4 1
  • Anh: 2× Bạch kim[2]
  • Úc: 3× Bạch kim[53]
  • Đức: Bạch kim[26]
  • Thụy Sĩ: Bạch kim[27]
  • Canada: 7× Bạch kim[25]
  • Mỹ: 4× Bạch kim[30]
  • New Zealand: Bạch kim[54]
"Rumour Has It" 85 60 16 172 68 71 52 16
  • Anh: Vàng[2]
  • Úc: Vàng[53]
  • Canada: 3× Bạch kim[25]
  • Mỹ: 2× Bạch kim[30]
"Turning Tables" 62 34 60 85 45 63
"Skyfall" 2012 2 5 3 1 1 1 1 2 1 8
  • Anh: 2× Bạch kim[2]
  • Úc: Vàng[53]
  • Canada: 4× Bạch kim[25]
  • Đức: Bạch kim[26]
  • New Zealand: Vàng[55]
  • Mỹ: Bạch kim[30]
Đĩa đơn không nằm trong album
"Hello" 2015 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1
  • Anh: 4× Bạch kim[2]
  • Úc: 7× Bạch kim[56]
  • Đức: Bạch kim[26]
  • Thụy Sĩ: Bạch kim[27]
  • Canada: Kim cương[25]
  • Hoa Kỳ: 7× Bạch kim[30]
  • New Zealand: 4× Bạch kim[57]
25
"When We Were Young" 2016 9 13 9 15 29 12 24 23 5 14
  • Anh: 2× Bạch kim[2]
  • Úc: Bạch kim[58]
  • Canada: 4× Bạch kim[25]
  • Hoa Kỳ: Vàng[30]
  • New Zealand: Vàng[59]
"Send My Love (To Your New Lover)" 5 13 10 45 31 7 32 4 18 8
"Water Under The Bridge" 39 23 37 56 80 27 71 15 77 26
  • Anh: Bạch kim[2]
  • Úc: Vàng[63]
  • Canada: 2× Bạch kim[25]
  • Hoa Kỳ: Vàng[30]
  • New Zealand: Vàng[59]
"Easy on Me"[64] 2021 1 1 1 2 1 1 1 1 1 1 30
"I Drink Wine"[67] TBA
"—" có nghĩa bài hát không có mặt trên bảng xếp hạng hoặc phát hành ở quốc gia đó.

Đĩa đơn hợp tác[sửa | sửa mã nguồn]

Tựa đề Năm Vị trí cao nhất Album
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland
Anh
[68]
"Many Shades of Black"[69][70]
(The Raconteurs hợp tác với Adele)
2008 Consolers of the Lonely
"Water and a Flame"[71]
(Daniel Merriweather hợp tác với Adele)
2009 180 Love & War
"—" Bài hát không có mặt trên bảng xếp hạng hoặc không phát hành ở quốc gia đó.

Bài hát được xếp hạng khác[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Bài hát Vị trí xếp hạng cao nhất Chứng nhận Album

Anh
[12]

Úc
[13]

Canada
[51]

Pháp
[15]

Đức
[16]

Ireland
[17]

Hà Lan[18]

Thụy Sĩ
[20]

Mỹ
[52]
Thế giới
[72]
2008 "Daydreamer" 171 19
"My Same" 61
2011
"I Can't Make You Love Me" 37 78 iTunes Festival: London 2011
"One and Only" 99 [a] 21
2015
"Million Years Ago" 64 84 97 42 74 94 [b] 25
"Love in the Dark" 169 39 79 24 65 [c] 54
"River Lea" 80 97
"Remedy" 145 94 69 47 83 30 87
"All I Ask" 41 65 66 93 77 110
"Sweetest Devotion" 159 [d]
"—" nghĩa là không xếp hạng hoặc phát hành ở khu vực đó.

Các bài hát khác[sửa | sửa mã nguồn]

Tên Năm Album Nghệ sĩ hợp tác Ghi chú
"My Yvonne"[74][75] 2007 Matinée Jack Peñate
"Every Glance"[76] 2009 Everything Is New Jack Peñate Adele góp giọng bè

Album video[sửa | sửa mã nguồn]

Tựa đề Chi tiết Vị trí cao nhất trên bảng xếp hạng Doanh số Chứng nhận
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland
Anh
[77]
Pháp
Pháp
[78]
Đức
Đức
[16]
Ý
Ý
[79]
México
Mexico
[80]
Hà Lan
Hà Lan
[18]
Bồ Đào Nha
BĐN
[81]
Tây Ban Nha
TBN
[82]
Hoa Kỳ
Mỹ
[83]
Live at the Royal Albert Hall
  • Phát hành: 28 tháng 11 năm 2011[84]
  • Hãng đĩa: XL
  • Định dạng: DVD, BD
2 1 5 16 3 1 1 14 1
  • Thế giới: 3.000.000 bản[85]
  • Mỹ: 1.000.000 bản[86]
  • Anh: 3× Bạch kim[2]
  • Úc: 7× Bạch kim[87]
  • Đức: 4× Bạch kim[88]
  • Mỹ: Kim cương[30]
  • Canada: Kim cương[25]
  • Pháp: Vàng

Video âm nhạc[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Video Đạo diễn
2008 "Chasing Pavements"[89] Mathew Cullen
"Cold Shoulder"[90] Phil Griffin
"Make You Feel My Love"[91] Mat Kirkby
2009 "Hometown Glory"[92] Rocky Schenk
2010 "Rolling in the Deep"[93] Sam Brown[94]
2011 "Someone Like You"[95] Jake Nava
2015 "Hello"[96] Xavier Dolan
2016 "Send My Love (To Your New Lover)"[97] Patrick Daughters
2021 "Easy On Me" Xavier Dolan

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ "One and Only" không gia nhập Billboard Hot 100, nhưng đạt cao nhất ở vị trí 10 trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[73]
  2. ^ "Million Years Ago" không gia nhập Billboard Hot 100, nhưng đạt cao nhất ở vị trí 19 trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[73]
  3. ^ "Love in the Dark" không gia nhập Billboard Hot 100, nhưng đạt cao nhất ở vị trí 11 trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[73]
  4. ^ "Sweetest Devotion" không gia nhập Billboard Hot 100, nhưng đạt cao nhất ở vị trí 24 trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[73]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c “UK Charts > Adele”. The Official Charts Company. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2011.
  2. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u “Chứng nhận album Anh Quốc – Adele” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2015. Chọn album trong phần Format. Type Adele vào mục "Search BPI Awards" rồi nhấn Enter.
  3. ^ “Kid Cudi's WZRD Scores Top Billboard 200 Debut, Adele Still No. 1”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2012.
  4. ^ Grein, Paul (ngày 8 tháng 9 năm 2011). “Week Ending Sept. 4, 2011. Songs: Adele's Back On Top”. Yahoo! Music. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2011.
  5. ^ Brandle, Lars (ngày 11 tháng 6 năm 2015). “Adele's '21' is the U.K.'s Best-Seller of the Decade”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2015.
  6. ^ “Global Music Report” (PDF). International Federation of the Phonographic Industry. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 30 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2016.
  7. ^ “Adele smashes Official Chart records with comeback single Hello”. Official Charts Company. ngày 30 tháng 10 năm 2015.
  8. ^ “Adele Says 'Hello' to No. 1 Hot 100 Debut; First Song to Sell 1 Million Downloads in a Week”. Billboard. Prometheus Global Media. ngày 2 tháng 11 năm 2015.
  9. ^ a b c Williamson, Coral (ngày 7 tháng 3 năm 2016). “Adele album sales pass 10 million mark”. Music Week. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2016.
  10. ^ Caulfield, Keith (ngày 20 tháng 12 năm 2015). “Adele's '25' Biggest Selling Album Released Since 2011, Spends Fourth Week at No. 1 on Billboard 200”. Billboard. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2015.
  11. ^ Brandle, Lars (ngày 13 tháng 1 năm 2016). “Adele Has Passed Madonna's U.K. Chart Record”. Billboard. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2016.
  12. ^ a b c d Vị trí cao nhất tại Anh Quốc:
    • Đối với tất cả ngoại trừ các bài được ghi chú: “Adele”. Officialcharts.com/. Official Charts Company.
    • Đối với "Daydreamer": “The Official UK Singles Chart for the week ending ngày 9 tháng 2 năm 2008”. UKChartsPlus. Milton Keynes: IQ Ware Ltd (337): 3.
    • Đối với "Water and a Flame": “The Official UK Singles Chart for the week ending ngày 14 tháng 11 năm 2009”. UKChartsPlus. Milton Keynes: IQ Ware Ltd (429): 3.
    • Đối với "All I Ask", "Love in the Dark", "Remedy", "Send My Love (To Your New Lover)" và "Water Under the Bridge": “CHART: CLUK Update 28.11.2015 (wk48)”. Official Charts Company. Zobbel.de/.
  13. ^ a b c Vị trí cao nhất ở Úc:
    • Đối với tất cả ngoại trừ các bài được ghi chú: Hung, Steffen. “Discography Adele”. Australian Charts Portal. Hung Medien (Steffen Hung).
    • Đối với "Million Years Ago", "Water Under the Bridge", "Remedy" và "Send My Love (To Your New Lover)": Ryan, Gavin (ngày 28 tháng 11 năm 2015). “ARIA Singles: 'Hello' Is No 1 Again”. Noise11. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2015.
    • Đối với "All I Ask": “CHART WATCH #352 - auspOp”. auspOp. ngày 23 tháng 1 năm 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2016.
  14. ^ “Adele – Chart History: Canadian Albums”. Billboard. Prometheus Global Media.
  15. ^ a b c d Hung, Steffen. “Discographie Adele”. French Charts Portal. Hung Medien (Steffen Hung).
  16. ^ a b c d Hung, Steffen. “Discographie Adele”. German Charts Portal. Hung Medien (Steffen Hung).
  17. ^ a b c d Hung, Steffen. “Discography Adele”. Irish Charts Portal. Hung Medien (Steffen Hung).
  18. ^ a b c d Hung, Steffen. “Discografie Adele”. Dutch Charts Portal. Hung Medien (Steffen Hung).
  19. ^ a b Hung, Steffen. “Discography Adele”. New Zealand Charts Portal. Hung Medien (Steffen Hung). Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2011.
  20. ^ a b c Hung, Steffen. “Discographie Adele”. Swiss Charts Portal. Hung Medien (Steffen Hung).
  21. ^ a b “Adele – Chart History: Billboard 200”. Billboard. Prometheus Global Media.
  22. ^ “Adele says she won't change herself for any man”. Daily Mirror. ngày 2 tháng 6 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2013.
  23. ^ “A Star Is Born...In Stages”. Hits. ngày 23 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2015.
  24. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2012 Albums” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2015.
  25. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t “Chứng nhận Canada – Adele” (bằng tiếng Anh). Music Canada. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2015.
  26. ^ a b c d e f g h “Gold-/Platin-Datenbank (Adele)” (bằng tiếng Đức). Bundesverband Musikindustrie. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2015.
  27. ^ a b c d e f “IFPI Swiss Certifications > Adele”. swisscharts.com Hung Medien. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2011.
  28. ^ “Tweede album Adele al na ruim drie maanden vijfmaal platina!”. shownu.nl. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2013.
  29. ^ a b MỤC id (chart number) CHO CHỨNG NHẬN NEW ZEALAND.
  30. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p “Chứng nhận Hoa Kỳ – Adele” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2015.
  31. ^ Hiatt, Brian (ngày 3 tháng 11 năm 2015). “Adele: Inside Her Private Life and Triumphant Return”. Rolling Stone. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2015.
  32. ^ Dale, David (ngày 13 tháng 1 năm 2013). “The music Australia loved”. The Sydney Morning Herald. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2013.
  33. ^ “2014 CANADIAN MUSIC MARKET REPORT” (Thông cáo báo chí). FYI Music News. ngày 25 tháng 1 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2015.
  34. ^ “Adele sells over 250,000 albums in Ireland”. Raidió Teilifís Éireann. ngày 3 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2012.
  35. ^ Caulfield, Keith (ngày 7 tháng 2 năm 2016). “Adele's '25' Sales Surpass 8 Million in the U.S.”. Billboard. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2016.
  36. ^ “ARIA Charts - Accreditations - 2015 Albums”. ARIA. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2015.
  37. ^ “Adele sells over 250,000 albums in Ireland”. Raidió Teilifís Éireann. 3 tháng 8 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2012.
  38. ^ “Audiomarkt 2011” (PDF) (bằng tiếng Hà Lan). NVPI. tr. 6. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 12 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2013.
  39. ^ Beech, Mark (ngày 24 tháng 2 năm 2016). “Adele Wins Big At BRIT Awards, Gives Support To Kesha”. Forbes. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2016.
  40. ^ Copsey, Rob (ngày 5 tháng 4 năm 2016). “The Official Top 40 Biggest Albums of 2016 so far revealed”. Official Charts Company. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2016.
  41. ^ Cross, Alan (ngày 6 tháng 1 năm 2016). “Weekly Music Sales Reports and Analysis: ngày 6 tháng 1 năm 2016”. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2016.
  42. ^ “Neues Album "25": Adele gelingt das Triple in Deutschland”. Der Spiegel (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2015.
  43. ^ “Les meilleures ventes d'albums de l'année 2015 en France” (bằng tiếng Pháp). Pure Charts in France. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2016.
  44. ^ “Hello again - Adele back on top in Ireland”. Raidió Teilifís Éireann. ngày 29 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2016.
  45. ^ “Adele verslaat Marco Borsato in Album Top 100” (bằng tiếng Hà Lan). Mega Top 50. ngày 27 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2015.
  46. ^ Trust, Gary (ngày 4 tháng 4 năm 2016). “Adele's 'Hello' Becomes Just Sixth Song to Top AC Chart for 20 Weeks”. Billboard. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2016.
  47. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2015 Albums” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2016.
  48. ^ “Chứng nhận album New Zealand – Adele – 25” (bằng tiếng Anh). Recorded Music NZ. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2015.
  49. ^ “iTunes Preview > iTunes Live from SoHo”. iTunes Store. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2010.
  50. ^ “iTunes Preview > iTunes Festival: London 2011”. iTunes Store. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2011.
  51. ^ a b “Adele – Chart History: Canadian Hot 100”. Billboard. Prometheus Global Media.
  52. ^ a b “Adele – Chart History: Hot 100”. Billboard. Prometheus Global Media.
  53. ^ a b c d e f “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2011.
  54. ^ a b c “Radioscope > Latest Gold/Platinum Singles”. Radioscope. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2011.
  55. ^ “NZ Top 40 Singles Chart – ngày 17 tháng 12 năm 2012”. Recording Industry Association of New Zealand. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2012.
  56. ^ Ryan, Gavin (ngày 13 tháng 2 năm 2016). “ARIA Singles: Flume 'Never Be Like You' Is No 1”. Noise11. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2016.
  57. ^ “Chứng nhận đĩa đơn New Zealand – Adele – Hello” (bằng tiếng Anh). Recorded Music NZ. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2016.
  58. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2017 Singles”. Australian Recording Industry Association. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2017.
  59. ^ a b “Chứng nhận đĩa đơn New Zealand – Adele – Water Under the Bridge” (bằng tiếng Anh). Recorded Music NZ. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2017.
  60. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên ARIA2016
  61. ^ “Chứng nhận đĩa đơn New Zealand – Adele – Send My Love (To Your New Lover)” (bằng tiếng Anh). Recorded Music NZ. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2016.
  62. ^ “SNEP – National Union of Phonographic Edition”. Syndicat National de l'Édition Phonographique. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2019.
  63. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2017 Singles”. Australian Recording Industry Association. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2017.
  64. ^ Bowenbank, Starr (12 tháng 10 năm 2021). “Here's Exactly When You Can Hear Adele's 'Easy On Me'. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2021.
  65. ^ “ARIA Charts – Singles Chart – 2021 Singles”. Australian Recording Industry Association. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2021.
  66. ^ “Chứng nhận đĩa đơn New Zealand – Adele – Easy On Me” (bằng tiếng Anh). Recorded Music NZ. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2021.
  67. ^ Griffiths, George (11 tháng 11 năm 2021). “Adele confirms new single I Drink Wine”. Official Charts Company. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2021.
  68. ^ “The Official UK Singles Chart for the week ending ngày 14 tháng 11 năm 2009”. ChartsPlus. Milton Keynes: IQ Ware Ltd (429): 3.
  69. ^ “Amazon Preview > Many Shades of Black (hợp tác với Adele) > Single”. Amazon Online. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2011.
  70. ^ “The Raconteurs Joined by Adele on New 7”. Pitchfork Media. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2012.
  71. ^ “iTunes Preview > Water and a Flame (hợp tác với Adele) > Single”. iTunes. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2011.
  72. ^ “Adele – Chart History: Billboard Global 200”. Billboard. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2021.
  73. ^ a b c d “Adele – Chart History: Bubbling Under Hot 100”. Billboard. Prometheus Global Media.
  74. ^ “Penate collaborates with Adele”. BBC News. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2012.
  75. ^ “Jack Penate and Adele – My Yvonne (Xfm SXSW session) video”. NME. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2012.
  76. ^ “Jack Penate Takes a 'Glance' at Adele”. Spinner. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2012.
  77. ^ “Music Video Top 40 – 25th February 2012”. The Official Charts. ngày 19 tháng 2 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2011.
  78. ^ “Classement officiel des ventes de DVD Musicaux du 28 novembre au 04 décembre 2011” (bằng tiếng Pháp). chartsinfrance.net. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2011.
  79. ^ Hung, Steffen. “Discography Adele (Albums)”. Italian Charts Portal. Hung Medien (Steffen Hung).
  80. ^ “Top 100 Musica” (PDF). Amprofon.com. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 31 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2013.
  81. ^ Hung, Steffen. “Discography Adele”. Portuguese Charts Portal. Hung Medien (Steffen Hung).
  82. ^ Hung, Steffen. “Discography Adele (Albums)”. Spain Charts Portal. Hung Medien (Steffen Hung).
  83. ^ “Chart Beat – Definitve Sales & Airplay Analysis – Page 1”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2013.
  84. ^ “Adele > Live at The Royal Albert Hall”. XL Recordings. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2011.
  85. ^ “ADELE'S 21 SURPASSES 10 MILLION SALES IN THE U.S.”. Sony Music Entertainment. Google Plus. ngày 28 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2012.
  86. ^ Paul Grein (ngày 1 tháng 5 năm 2013). “Week Ending ngày 28 tháng 4 năm 2013. Albums: Snoop Lamb Is More Like It”. Yahoo Music (Chart Watch). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2013.
  87. ^ “ARIA charts”. ARIA. ngày 17 tháng 8 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2013.
  88. ^ “Bundesverband Musikindustrie”. Bundesverband Musikindustrie. ngày 30 tháng 1 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2012.
  89. ^ “Music Video News: NEW RELEASE: Adele "Chasing Pavements". Video Static. ngày 7 tháng 1 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2013.
  90. ^ “PRODUCTION NEWS Who shot what, who's shooting what... » Promo News”. Promonews.tv. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2013.
  91. ^ “ADELE – Make You Feel My Love”. Xlrecordings.com. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2013.
  92. ^ “Hometown Glory | Music Video”. MTV. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2013.
  93. ^ “Adele's Rolling In The Deep by Sam Brown » Promo News”. Promonews.tv. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2013.
  94. ^ Kaufman, Gil (ngày 26 tháng 8 năm 2011). “Adele's 'Rolling In The Deep': A VMA Cheat Sheet”. MTV News. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2011.
  95. ^ “Adele 'Someone Like You' by Jake Nava – Promo News”. Promonews.tv. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2013.
  96. ^ “Adele "Hello" (Xavier Dolan, dir.)”. Video Static. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2015.
  97. ^ “New Adele Music Video to Make Worldwide Debut at the BBMAs”. Billboard. 16 tháng 5 năm 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2016.