Danh sách người đứng đầu lãnh thổ Việt Nam thời Bắc thuộc

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Bắc thuộc là danh từ chỉ thời kỳ Việt Nam bị đặt dưới quyền cai trị của các triều đại Trung Quốc, được coi như một đơn vị hành chính của Trung Quốc, tùy theo thời kỳ lịch sử, có thể là Châu, Quận, Đô Hộ Phủ hay Phiên Trấn.

Chính quyền trung ương Trung Quốc cắt cử quan lại sang để cai trị, cũng lại theo cách gọi và phân chia khu vực của từng triều đại mà viên quan đó có thể là: Châu thái thú, Thứ sử, Châu mục, Thái thú, Kinh lược sứ hoặc Tiết độ sứ...

Dưới đây là bảng thống kê được tổng hợp từ các bộ chính sử của Việt NamTrung Quốc, ngoài những viên quan lại trực tiếp hoặc gián tiếp cầm quyền, những vị tướng lĩnh từng tham chiến trong công cuộc bình định phương Nam của các thiên triều Trung Hoa. Danh sách này còn bổ sung thêm một số: Trưởng sử, Thuộc lại, Bộ tướng, Công tào, huyện lệnh...cấp quận có ảnh hưởng đến cục diện chính trị trong châu và sứ giả, khâm sai được triều đình phái sang công cán hay ban bố chiếu chỉ.

Thời Nam Việt - Lưỡng Hán (208 TCN - 220)[sửa | sửa mã nguồn]

Bản đồ Giao Chỉ bộ thời Lưỡng Hán

Năm 111 TCN, Hán Vũ Đế tiêu diệt Nam Việt, chia lãnh thổ nước này làm 6 quận.[1][2] Năm 106 TCN, lập thêm 3 quận mới, gộp chung vào gọi là bộ Giao Chỉ (cuối thời Đông Hán đổi thành Giao Châu). Chín quận đó bao gồm: Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Đam Nhĩ, Châu Nhai (Đam Nhĩ và Châu Nhai nay thuộc đảo Hải Nam), Nam Hải, Hợp Phố, Uất Lâm, Thương Ngô (nay thuộc Quảng TâyQuảng Đông).[3] Chế độ nhà Hán lấy châu lãnh quận, mỗi quận có một vị Thái thú để trông coi, lại đặt ra chức Châu thái thú nhằm quản lý những Thái thú đó, đến đời Hán Tuyên Đế đổi gọi là Thứ sử. Sang thời Hán Nguyên Đế, triều đình cho rằng chức vụ này ở dưới hàng đại phu mà lại trông coi việc các quan ăn lương tới hai nghìn thạch nên không phù hợp, vì thế mới thay đổi thành chức Châu mục. Chức này vào bậc lương hai nghìn thạch, địa vị liền dưới hàng cửu khanh.[4] Bấy giờ, nhà Hán đã bỏ 2 quận ngoài đảo Hải Nam do ở ngoài biển xa xôi khó quản lý, bộ Giao Chỉ còn 7 quận. Đời Hán Ai Đế, bỏ chức Châu mục đổi lại là Thứ sử. Đời Hán Bình Đế lại đổi thành Châu mục. Năm 8, Vương Mãng lập ra nhà Tân, tuy nhiên triều đại này tồn tại ngắn ngủi nên không có gì đáng kể, các quan lại ở Giao Chỉ bộ vẫn trung thành với nhà Hán. Đời Hán Quang Vũ Đế lại đặt Thứ sử, mỗi Thứ sử đứng đầu coi giữ một châu, một châu trong đó thuộc về quan binh là Tư lệ hiệu úy.[5] Tại các huyện, chế độ Lạc tướng cha truyền con nối của người Việt bị bãi bỏ, không còn được duy trì như trước. Thay vào đó, nhà Đông Hán đặt các Huyện lệnh để tăng cường cai trị các huyện.[6] Đến đời Hán Linh Đế, vì uy quyền của Thứ sử quá nhẹ mà giặc giã nổi lên, do vậy nên đổi làm Mục bá, chọn các quan thượng thư vào hàng khanh bổ đi làm Châu mục. Không bao lâu, Hán Hiến Đế bỏ Giao Châu để thuộc về Kinh Châu, nhưng Châu mục là Lưu Biểu lại tự đặt ra chức Thứ sử. Như thế thì các chức quan cai trị có khi gọi là Thứ sử, có khi gọi là Châu mục, dẫu trước sau hoặc theo cũ hoặc thay đổi, tên gọi khác nhau, nhưng cũng vẫn là một chức quan đứng đầu coi các hàng châu quận.[7] Khi nhà Hán đặt bộ Giao Chỉ, lỵ sở của Thứ sử đặt ở Liên Thụ (tức Luy Lâu), năm 106 TCN dời trị sở sang huyện Quảng Tín ở quận Thương Ngô. Đến năm 210, đóng lỵ sở ở huyện Phiên Ngung. Các quận Giao Chỉ, Cửu ChânNhật Nam tương đương với địa bàn Bắc BộBắc Trung Bộ và 1 phần duyên hải Nam Trung Bộ trên lãnh thổ hiện tại của Việt Nam. Thời Tây Hán, trị sở của Thái thú Giao Chỉ đặt tại Long Uyên (tức là Long Biên) và thời Đông Hán đặt tại Mê Linh (tức là Yên Lăng).[8] Quận trị Cửu Chân đặt tại Tư Phố (nay thuộc Thanh Hóa), quận trị Nhật Nam đặt tại Tây Quyển[9][10]

Họ tên Thời gian tại vị Chức vụ Lý do mãn nhiệm
Đồ Thư[11] 218 - 214 TCN Hiệu uý[12] tử chiến[13][14]
Sử Lộc[15] 218 - 210 TCN
Nhâm Hiêu[16] 222 TCN - 206 TCN Nam Hải quận uý[1] ốm chết[2]
Triệu Đà[17] 206 TCN - 179 TCN Huyện lệnh Long Xuyên, Nam Hải quận uý[1][2] xưng vương tự lập[18][19]
Lục Giả[20] 202 TCN và 179 TCN Thái trung đại phu[1][2][21] hồi kinh phục mệnh[18][19]
Chu Táo[22] 181 TCN Lâm Lư hầu[1][2] lui binh[18][19]
Trang Trợ[23] 137 TCN Sứ giả[1][2][21] hồi kinh phục mệnh[18][19]
An Quốc Thiếu Quý[24] 112 TCN Sứ giả[1][2] bị giết[18][19][21]
Chung Quân[25] 112 TCN Gián nghị đại phu[1][2] bị giết[18][19][21]
Ngụy Thần[26] 112 TCN Dũng sĩ[1][2][18][19]
Trang Sâm[27] 112 TCN Sứ giả[1][2] bị bãi miễn[18][19]
Hàn Thiên Thu[28] 112 TCN tướng quốc của Tế Bắc[1][2] tử trận[18][19][21]
Cù Lạc[29] 112 TCN Phó tướng[1][2] tử trận[18][19][21]
Lộ Bác Đức[30] 112 TCN - 111 TCN Phục Ba tướng quân[1][18] chuyển công tác[7][31]
Dương Bộc[32] 112 TCN - 111 TCN Lâu thuyền tướng quân[7][18] chuyển công tác[1][33]
Kiệt Hầu[34] 112 TCN - 111 TCN Qua thuyền tướng quân[1][2][18][19] chuyển công tác[35]
Điền Giáp[36] 112 TCN - 111 TCN Hạ lại tướng quân[1][2][18][19] chuyển công tác[37]
Hà Di[38] 112 TCN - 111 TCN Trì nghĩa hầu[1][2][18][19] chuyển công tác[39]
Tô Hoàng[40] 112 TCN - 111 TCN Hải thường hầu[1][2][7][18] chuyển công tác[41]
Tôn Đô[42] 112 TCN - 111 TCN Lân thái hầu[1][2][7][18] chuyển công tác[43]
Cư Ông[44] 112 TCN - 111 TCN Tương thành hầu[1][2][7] chuyển công tác[45]
111 TCN - 107 TCN quan sứ của Nam Việt[46], Thái thú Giao Chỉ[7][47][48]
111 TCN - 107 TCN quan sứ của Nam Việt[46], Thái thú Cửu Chân[7][47]
Thạch Đới[49] 106 TCN - ? Thái thú 9 quận[7][8][50] chết
Chu Chương[51] thời Hán Chiêu Đế Châu Thái thú[8][50]
Ngụy Lãng[52] thời Hán Tuyên Đế Thứ sử Giao Chỉ bộ[50]
Ích Cư Xương[53] ? - 54 TCN Thứ sử Giao Chỉ bộ[54]
Đặng Huân[55] thời Hán Nguyên Đế Quan mục Giao Chỉ bộ[54][56][57]
Tích Quang[58] 1 - 33 Thái thú Giao Chỉ[7][8][54][59]
Đặng Nhượng[60] 8 - 29[61] Quan mục Giao Chỉ bộ[8][54][59][62][63]
Nhâm Diên[64] 25 - 29 Thái thú Cửu Chân[7][8] về kinh[54][65]
Tô Định[66] 34 - 40 Thái thú Giao Chỉ[8][54][67] bị trục xuất[7][50][68]
Đặng Thi Sách[69] ? - 39 huyện lệnh Chu Diên[7][67] bị giết[50][70]
Mã Viện[71] 41 - 45 Phục Ba tướng quân[67][72][73] hồi kinh[7][50][68][74]
Lưu Long[75] 41 - 45 Phù lạc hầu[7][76] hồi kinh[77][78]
Đoàn Chí[79] 41 - 42 Lâu thuyền tướng quân[7][76] bệnh chết[72]
Lý Thiện[80] thời Hán Minh Đế Thái thú Nhật Nam, Thái thú Cửu Chân[7][54][74][81] chết
Trương Trọng[82] thời Hán Minh Đế cối kế quận Nhật Nam[7] thăng chức[83][84]
Trương Khôi[85] thời Hán Minh Đế Thái thú Giao Chỉ bị bãi miễn[54][86]
Hồ Cống[87] thời Hán Chương Đế Đô uý quận Giao Chỉ[54][88]
Chu Xưởng[89] 136 Thái thú Giao Chỉ, Thứ sử Giao Chỉ bộ[7][50][54][74]
Phàn Diễn[90] 137 Thứ sử Giao Chỉ bộ[7] bãi miễn[54][74]
Giả Xương[91] 138 - 139 Thị ngự sử[92] hồi kinh[7][74]
Trương Kiều[93] 138 - ? Thứ sử Giao Chỉ bộ[50][54][94]
Chúc Lương[95] 138 - 141 Thái thú Cửu Chân[54][94][96]
Hạ Phương[97] 144 và 160 - ? Thái thú Cửu Chân, Thứ sử Giao Chỉ bộ[7] chuyển công tác[50][54][74]
Lưu Tảo[98] 145 - ? Thái thú Cửu Chân[74][99]
Dương Phò[100] Thứ sử Giao Chỉ bộ[54]
Nghê Thức[101] ? - 157 Thái thú Cửu Chân tử trận[54]
Nguỵ Lãng[102] 157 - ? Đô uý quận Cửu Chân[54][103] hồi kinh[104]
Chúc Điềm[105] 159-160 Thứ sử Giao Chỉ bộ[54] chết[106]
Sĩ Tứ[107] thời Hán Hoàn Đế Thái thú Nhật Nam[54][74] chết[7]
Ngu Thiều[108] thời Hán Linh Đế Thái thú Nhật Nam[109] chết[54]
Cát Kỳ[110] 163 Thứ sử Giao Chỉ bộ[111] bị bắt[54][112]
Đinh Cung[113] thời Hán Hoàn Đế Thứ sử Giao Chỉ bộ[54] hồi kinh[114]
Trương Bàn[115] 158 - 166 Thứ sử Giao Chỉ bộ[54]
Chu Ngung[116] 178-181 và 182-183 Mục thú Giao Chỉ, Thứ sử Giao Chỉ bộ[50][114] bị sát hại[74][99]
Chu Tuấn[117] 181 Thứ sử Giao Chỉ bộ[50][118] hồi kinh[54][74][119]
Giả Tông[120] 184 - 186 Thứ sử Giao Chỉ bộ[50][121] hồi kinh[54][74]
Lý Tiến[122] 187 - 189 Thứ sử Giao Chỉ bộ[50][54][74][123]
Chu Thặng[124] Thứ sử Giao Chỉ bộ[54]
Kiển Lan[125] Thái thú Giao Chỉ[54]
Lại Tiên[126] Thái thú Giao Chỉ[54]
Hoàng Cái[127] thời Hán Linh Đế Thái thú Nhật Nam[54][128] bị trục xuất[129][130][131]
Sĩ Vĩ[107][132] 207 - 227 Thái thú Cửu Chân[54][74] giáng chức[131]
Chu Phù[133] 190 - 200 Thứ sử Giao Chỉ bộ[128][134] bị trục xuất[54][74][130][135]
Ngu Bao[136] ? - 200 trưởng lại ở Giao Châu[128][131] bị trục xuất[130][137]
Lưu Nghiệm[136] ? - 200 trưởng lại ở Giao Châu[128][131] bị trục xuất[130][137]
Trương Tân[138] 201 - 206 Thứ sử Giao Châu[139][140][141][142] bị giết[54][131]
Khu Cảnh[143] võ tướng ở Giao Châu[54][74][144]
Di Liêu[145] thời Hán Hiến Đế bộ tướng ở Giao Chỉ bị Bộ Chất trừ khử[130]
Tiền Bác[145] thời Hán Hiến Đế bộ tướng ở Giao Chỉ bị Bộ Chất trừ khử[130]
Lại Cung[146] 206 Thứ sử Giao Châu[147] bị đánh đuổi[54][74]
Ky Vô Hạp[148] 207-208 Thứ sử Giao Châu[54][149]
Hấn Tông[150] 209 Thứ sử Giao Châu[54]
Đam Manh[151] thời Hán Hiến Đế Thái thú Cửu Chân[54][128][152] bị giết[130][131]
Chu Kinh[153] thời Hán Hiến Đế[128][130]
Phan Hâm[154] thời Hán Hiến Đế quan Công tào ở Cửu Chân[54][128][152] bị giết[130][131]
Phan Miêu[155] thời Hán Hiến Đế[128][130]
Chu Trị[156] 202 - 222 Thái thú Cửu Chân[54] chuyển công tác[157]
Bộ Chất[158] 210 - 220 Thứ sử Giao Châu[54][130] Chuyển công tác[159]
Sĩ Nhiếp[107][160] 187 - 226 Thái thú Giao Chỉ, Tổng đốc 7 quận[7][54][74][161] chết
Sĩ Huy[107][162] 227 Thái thú Cửu Chân, Thứ sử Giao Châu[131][161] bị giết[54][130]
Trương Mân[163] thời Hán Hiến Đế thuộc lại ở Giao Chỉ[7][54][131][161]
Trình Bỉnh[164] thời Hán Hiến Đế trưởng sử ở Giao Chỉ[165] thăng chức[166]
Hoàn Lân[167] ? - 227 thuộc lại ở Giao Chỉ[130] bị đánh chết[131]
Hoàn Trị[168] thời Ngô Đại Đế phản tướng ở Giao Châu[130][131]
Hoàn Phát[169] thời Ngô Đại Đế phản tướng ở Giao Châu[130][131]
Sĩ Khuông[107][170] 210 - 227 trung lang tướng[131] hàng Lã Đại[130][161]
Sĩ Chi[107][171] 210 - 227 trung lang tướng[130] bị giết[131][161]
Sĩ Cán[107][171] 210 - 227 trung lang tướng[130] bị giết[131][161]
Sĩ Tụng[107][171] 210 - 227 trung lang tướng[130] bị giết[131][161]
Đái Lương[172] 227 Thứ sử Giao Châu[50][161][173] bị cự tuyệt[54][130][131]
Trần Thời[174] 227 Thái thú Giao Chỉ[130] bị cự tuyệt[54][131]
Cam Lễ[175] thời Ngụy Văn Đế võ tướng ở Giao Chỉ[131] bị đánh bại[130]

Thời Tam Quốc - Lưỡng Tấn (220 - 420)[sửa | sửa mã nguồn]

Giao Châu (màu xanh) và Quảng Châu (màu vàng) thời Đông Ngô
chiến dịch Giao-Quảng (263 - 271)

Cuối thế kỉ thứ II, nhà Đông Hán sụp đổ, quần hùng nổi dậy, bấy giờ Giao Châu trực thuộc Kinh Châu. Lúc ấyấy, huyện Tượng Lâm của quận Nhật Nam đã tách ra để thành lập nước Lâm Ấp. Năm 207, Tào Tháo can thiệp vào Giao Châu, phong Thái thú Giao Chỉ là Sĩ Nhiếp làm Tổng đốc cả bảy quận. Sau trận Xích Bích, Lưu Bị có giai đoạn khống chế được Kinh Châu nên cũng cử quan lại sang coi sóc Giao Châu. Đến năm 210, Tôn Quyền đặt chức Thứ sử Giao Châu, chiếm giữ địa bàn trọng yếu này. Năm 221, Lưu Bị nối tiếp chính thống nhà Hán, mà Tôn Quyền lúc đó vẫn chỉ là lãnh chúa, tước Ngô hầu nên không công nhận Giao Châu thuộc Ngô và vẫn đặt chức Thứ sử trên danh nghĩa. Sĩ Nhiếp thuần phục các Thứ sử do Đông Ngô điều sang, đồng thời cũng khéo ngoại giao với nhà Thục Hán để giữ thế cân bằng. Bấy giờ Lai Hàng (thời Thục Hán gọi là Nam Trung) chưa có cơ sở hành chính (đến đầu đời Tấn, đất ấy mới được đặt là Ninh Châu), Lưu Bị đặt chức đô đốc để coi sóc mọi việc, đó cũng là trị sở của Thứ sử Giao Châu nhà Thục Hán. Sau khi Sĩ Nhiếp chết, Đông Ngô chia Giao Châu ra làm 2 châu: Quảng Châu gồm các quận: Nam Hải, Uất Lâm, Thương Ngô (trị sở tại Phiên Ngung, nay là thành phố Quảng Châu) và Giao Châu (mới) gồm các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố (trị sở tại Long Biên). Khi dẹp tan loạn Sĩ Huy, Đông Ngô lại hợp nhất Quảng Châu với Giao Châu như cũ. Năm 229, do sách lược của thừa tướng Gia Cát Lượng "liên Ngô kháng Ngụy", nhà Thục Hán mới công nhận Giao Châu thuộc về Ngô. Năm 263, Lã Hưng làm chính biến dâng Giao Châu cho nhà Ngụy. Năm 264, Đông Ngô tái lập Quảng Châu. Năm 265, nhà Tấn thay thế nhà Ngụy, Giao Châu trở thành địa bàn tranh chấp giữa Tấn và Ngô. Năm 271, Ngô giành lại Giao Châu và lập thêm 3 quận: Tân Hưng (tách ra từ Giao Chỉ, đời Tấn đổi thành Tân Xương, nay thuộc Sơn Tây), Vũ Bình (tách ra từ Giao Chỉ, nay thuộc Hưng Yên) và Cửu Đức (tách ra từ Cửu Chân, nay thuộc Hà Tĩnh).[139] Năm 280, Tấn diệt Ngô, các đơn vị hành chính trên được giữ nguyên đến hết đời Tấn.

Họ tên Tại vị Chức vụ Lý do mãn nhiệm
Lã Đại[176] 220 - 231[177] Thứ sử Giao Châu, Giao châu mục[50][128][131][178] hồi kinh[130][179]
Lý Khôi[180] 221 - 229 Lai Hàng đô đốc kiêm Giao Châu thứ sử[181] chuyển công tác[182]
Tiết Tống[183] 231[184] - ? Thái thú Giao Chỉ[54][128][130][152]
Ngô Mạc[185] thời Ngô Đại Đế Thái thú Giao Chỉ[186]
Lục Dận[187] 248 - 258[188] Thứ sử Giao Châu kiêm An Nam hiệu uý[189][190][191] hồi kinh[50][54][130][131]
Cốc Lãng[192] Thái thú Cửu Chân[54]
Kỳ Vô Hậu[193] Thứ sử Giao Châu[54]
Đào Cơ[194] Thứ sử Giao Châu[130][131][195]
Tôn Tư[196] 258[197] - 263 Thái thú Giao Chỉ[54][130] bị giết[50][131][198]
Đặng Tuân[199] 263 Sát chiến[130][200] bị giết[50][131][198]
Lã Hưng[201] 263 An Nam tướng quân, đô đốc Giao Châu[182][200] bị giết[50][130][131][198]
Lý Thống[202] Thời Ngô Cảnh Đế quan Công Tào ở Giao Chỉ[130][131][198]
Trần Tập[203] 264 - 267 Quan mục Giao châu, Thứ sử Giao châu[54][198]
Hoắc Dặc[204] 264 - 270 Thứ sử Giao Châu[50][130][131][205] chết[198]
Thoán Cốc[206] 264 Thái thú Giao Chỉ[130][207] chết[131][198][208]
Mã Dung[209] 265 Thái thú Giao Chỉ[50][207] chết[130][131][198]
Ngô Hưng 266
Dương Tắc[210] 266 - 271 Thái thú Giao Chỉ, Thứ sử Giao Châu[50][195][207] bị bắt[130][131][182]
Lưu Tuấn[211] 268 Thứ sử Giao Châu[50][54] tử trận[130][131]
Tu Tắc[212] 268 Đô đốc Giao Châu[54][213] tử trận[130][131]
Cố Dung[214] 268 Tướng quân[130][131] rút quân[215][216]
Đổng Nguyên[217] 268 - 271 Thái thú Cửu Chân[50][182][207] Tử trận[130][131][216]
Mao Cảnh[218] 271 Thái thú Giao Chỉ[54][182] Tử trận[130][131][215]
Vương Tố[219] 271 Thái thú Cửu Chân[50][130][131][182][207][216]
Giải Hệ[220] ? - 271 bộ tướng ở quận Cửu Chân[195] bị giết[130][131]
Giải Tượng[221] thời Ngô Mạt Đế bộ tướng ở Giao Châu[130][131][195]
Lý Tùng[222] 271 bộ tướng ở Giao Châu[195][207] bị quân Ngô bắt[130][131]
Thoán Năng[222] 271 bộ tướng ở Giao Châu[195][207] bị quân Ngô bắt[130][131]
Mạnh Cán[223] thời Tấn Vũ Đế Thái thú Nhật Nam[130][131][182][207]
Mạnh Thông[224] thời Tấn Vũ Đế Nha môn tướng[130][182]
Lý Tộ[225] thời Tấn Vũ Đế Công Tào quận Cửu Chân[130][131]
Lê Minh[226] thời Ngô Mạt Đế bộ tướng ở Giao Chỉ[130][131]
Ngu Phiếm[227] 269 - 271 Thứ sử Giao Châu[54][109][130][131] chết[195]
Tiết Hủ[228] 269 - 271 Uy Nam tướng quân[54][130][131] hồi kinh[195][229]
Lý Húc[230] 269 - 270 Giám quân[54][131] bị xử tử[130][215]
Từ Tồn[230] 269 - 270 Đốc quân[54][131] bị xử tử[130][215]
Phùng Thỉ[231] 269 Tướng dẫn đường thủy[130] bị giết[215]
Lương Kỳ[232] 271 Võ tướng ở Phù Nghiêm[130][131][207]
Đào Hoàng[233] 271 - 300 Tiền bộ Đô đốc Giao Châu, Thứ sử Giao Châu[50][207] chết[130][131][195]
Đào Dung[234] 280 Sứ giả[131][195][235]
Tu Doãn[236] thời Ngô Mạt Đế Thứ sử Giao Châu[131][195] chuyển công tác[130]
Thạch Sùng[237] thời Tấn Vũ Đế Nam Man hiệu uý kiêm Giao Chỉ thái phòng sứ[238][239] chuyển công tác[21][240]
Ngô Ngạn[241] 300 - 311 Thứ sử Giao Châu[207][242] xin nghỉ[130][131]
Cố Bí[243] 312 - 315 Thứ sử Giao Châu[50][207] chết[130][131]
Cố Sâm[244] 315 - 317 Thứ sử Giao Châu[207] chết[130][131]
Cố Thọ[245] 317 Thứ sử Giao Châu[207] bị sát hại[130][131]
Hồ Triệu[246] ? - 317 Trưởng sử ở Giao Châu[207] bị giết[130][131]
Lương Thạc[247] 317 - 323 Thái thú Tân Xương, Thái thú Giao Chỉ[207] bị chém chết[50][130][131]
Vương Đôn[248] 317 - 324 Đô đốc chinh thảo lục châu chư quân sự[207] chết[249][250][251]
Đào Khản[252] 318 - 324 Đô đốc Giao Châu chư quân sự, Thứ sử Giao Châu[253][254] chuyển công tác[130][131][255]
Đào Oai[256] 317 - 319 Thứ sử Giao Châu[195][207] chết[130][131]
Đào Thục[257] 320 Thứ sử Giao Châu[130][131][207] chết[195]
Đào Tuy[258] 321 - 322 Thứ sử Giao Châu[99][130][131][195]
Vương Cơ[259] 322 Thứ sử Giao Châu[207] bị đánh bại[130][131]
Đỗ Hoằng[260] 322 Thứ sử Giao Châu[130][207]
Đỗ Tán[261] ? - 322 quan Tư Mã ở Giao Chỉ[130]
Lưu Trầm[262] 322 Tú tài ở Giao Châu[207] bị bắt[130]
Ôn Thiệu[263] 322 Bộ tướng ở Quảng Châu[207] bị giết[130]
Tu Trạm[264] 322 Thứ sử Giao Châu, Thái thú Cửu Chân[213] bị xử tử[207]
Vương Lượng[265] 322 - 323 Thứ sử Giao Châu[50][207][213] bị giết[130][131]
Cao Bảo[266] Tham quân[50][130][131][253]
Nguyễn Phóng[267] 325 Thứ sử Giao Châu kiêm Dương oai tướng quân[207] chết[50][130][131]
Biện Triền[268] Thái thú Giao Chỉ[207]
Chử Đào[269] Thái thú Cửu Chân[207]
Trương Liễn[270] 326 - 328 Thứ sử Giao Châu[207][271]
Tăng Khối[272] 328[207][271]
Hạ Hầu Lãm[273] đời Tấn Mục Đế Thái thú Nhật Nam[274] bị giặc giết[207]
Chu Phiên[275] ? - 347 Thứ sử Giao Châu[207][274]
Lưu Hùng[276] đời Tấn Mục Đế quan Đốc Hộ[207][274]
Đằng Tuấn[277] đời Tấn Mục Đế quan Đốc Hộ[207][274]
Dương Bình[278] 348 - 352 Thứ sử Giao Châu[207][274]
Nguyễn Phu[279] 353 - 356 Thứ sử Giao Châu[130][131][207][274]
Châu Phụ[280] 357 - ? Thứ sử Giao Châu[50][281]
Ôn Phóng Chi[282] 357 - 360 Thứ sử Giao Châu[207][283] chết[284][285]
Đỗ Bảo[286] ? - 359 Thái thú Giao Chỉ[283][285] bị giết[207]
Nguyễn Lãng[287] ? - 359 quan Biệt Giá[283][285] bị giết[207]
Đằng Hàm[288] 361 - ? Thứ sử Giao Châu[207][289]
Cát Hồng[290] huyện lệnh Câu Lậu[207][291]
Khương Tráng[292] Thứ sử Giao Châu[207]
Phó Vĩnh[293] Thái thú Giao Chỉ[207]
Đằng Tốn[294] Thứ sử Giao Châu[207]
Lý Tốn[295] 375 - 381 Thái thú Cửu Chân[50][207][296][297] bị chém chết[130][131]
Đặng Độn Chỉ[298] 381 - ? Thứ sử Giao Châu[50][130] chuyển công tác[296][297]
Đỗ Viện[299] ? - 410 Thái thú Giao Chỉ, Thứ sử Giao Châu[130][131][300] chết[50][207][296][297][301]
Quế Nguyên[302] ? - 399 Thái thú Nhật Nam[186] bị giặc bắt[130]
Tào Bính[303] ? - 399 Thái thú Cửu Đức[186] bị giặc bắt[130]
Đặng Dật[304] đời Tấn An Đế quan Đốc Hộ[130][186][296][297]
Đỗ Tuệ Độ[305] 410 - 423 Thái thú Cửu Chân, Thứ sử Giao Châu[50][306][307][308] chết[309]
Đỗ Huệ Kỳ[310] Thái thú Giao Chỉ[50][130][186][296][297]
Đỗ Chương Dân[311] Thái thú Cửu Chân[50][130][186][296][297]
Lư Tuần[312] ? - 411 Thứ sử Quảng Châu[130][131][313][314][315] tự tử[50]
Lý Thoát[316] ? - 411 bộ tướng ở Cửu Chân[306] bị chém chết[130][131]
Chân Tri[317] 413 Giao long vương[186] bị chém chết[130]
Phạm Kiện[318] 413 võ tướng của Lâm Ấp[186] tử trận[130]
Na Năng[319] 413 bộ tướng ở Lâm Ấp[186] bị bắt[130]
Giang Du[320] thời Tấn Cung Đế Trưởng sử ở Giao Châu[130][307][308]
Đỗ Hoằng Văn[321] 417 - 427 Thái thú Cửu Chân, Thứ sử Giao Châu[50][322][323] hồi kinh[130][131][324]

Thời Nam Triều (420 - 589)[sửa | sửa mã nguồn]

Đầu thế kỉ thứ V, nhà Tống thay nhà Đông Tấn thống trị phương nam Trung Quốc, bấy giờ ở phương bắc nhà Ngụy cũng chấm dứt giai đoạn Ngũ Hồ thập lục quốc. Một cục diện cát cứ mới đã xuất hiện, sử gọi đó là thời Nam Bắc triều. Thời kỳ này, Nam triều nối tiếp nhà Tấn thống trị Giao Châu gồm: Tống, Tề, Lương, Trần. Năm 471, nhà Tống tách quận Hợp Phố khỏi Giao Châu và hợp với một số quận khác của Quảng Châu thành lập Việt Châu, lại đặt quận Tống Bình tách từ quận Giao Chỉ và đặt thêm quận Nghĩa Xương.[325][326] Việc quân sự ở Giao châu thường giao cho Thứ sử Quảng châu kiêm giữ; còn các chức quận huyện quan thì do Thứ sử Giao Châu tự ý bổ nhiệm. Thời Lương Vũ Đế cải cách hành chính trong nước, chia đất đặt thêm nhiều châu nhỏ, trong đó tại Giao châu chia quận Giao Chỉ đặt ra Hoàng châu và quận Ninh Hải; lấy quận Cửu Chân lập ra Ái châu; lấy quận Nhật Nam đặt ra Đức châu, Lợi châu và Minh châu.[190] Người đứng đầu Giao Châu vẫn là Thứ sử, phụ trách chung toàn bộ công việc của các quận trực thuộc. Tại từng quận, các triều đại này vẫn có một viên Thái thú coi việc dân sự và một viên Đô úy coi việc quân sự như trước. Giai đoạn này, thủ phủ Giao Châu nằm ở huyện Long Uyên

  • Vương Huy (427-430)

Vương Huy (Toàn thư chép là Vương Huy Chi), trước giữ chức Đình uý[207], được nhà Tống cử sang thay thế Đỗ Hoằng Văn làm Thứ sử Giao Châu[50][130][131]

  • Lưu Nghĩa Khang

Lưu Nghĩa Khang tên lúc nhỏ là Xa Tử, người Tuy Lý, Bành Thành, là con trai thứ tư của Tống Vũ đế Lưu Dụ. Trong năm Nguyên Gia (424-453) đời Tống Văn Đế, làm Đô Đốc quân sự cả Châu Giang, Châu Giao và Châu Quảng.[207][327][328]

  • Nguyễn Di Chi (431-432)

Nguyễn Di Chi làm Thứ sử Giao Châu, năm 431 vua Lâm Ấp là Phạm Dương Mại trực tiếp dẫn quân kéo vào quận Cửu Chân, Di Chi hưng binh công phá.[130] Kịp lúc vượt biển gặp gió to, đến ba ngày mà không tìm được chỗ nghỉ ngơi, đêm lại gặp giặc ở bãi Thọ Lệnh, quân thủy của Dương Mại tới đánh đông đến 500 chiếc thuyền. Di Chi bắn trúng người lái thuyền của Dương Mại, nên thuyền giặc tan vỡ, có chiếc thuyền nhỏ đến chở Dương Mại chạy trốn. Di Chi bị gió phiêu bạt hơn 100 dặm, liệu thế không thắng được, bèn trở về Bắc.[207]

  • Nguyễn Vô Chi

Nguyễn Vô Chi (có sách chép là Nguyễn Di Chi) tự Đạo Sinh, giữ chức đội chủ,[130] là bộ tướng của Thứ sử Nguyễn Di Chi, lợi dụng lúc vua Lâm Ấp là Phạm Dương Mại kéo binh xâm nhập Giao Châu, Vô Chi lĩnh 7000 quân sĩ đánh úp thành Khu Túc (Cương mục chép là Khu Lật) của nước Lâm Ấp nhưng không được đành quay trở lại.[207]

  • Lý Tú Chi

Lý Tú Chi vốn giữ chức Hữu quân Tham quân, năm 433, giữ chức Thứ sử Giao Châu thay Nguyễn Di Chi.[130]

  • Lý Đam Chi

Lý Đam Chi chưa rõ chức vụ gì, cai trị 434 - 435

  • Cẩu Đạo Phúc

Cẩu Đạo Phúc (có sách chép là Từ Dạo Phúc), chưa rõ chức vụ gì, cai trị 435 - 437

  • Từ Xâm Chi

Từ Xâm Chi chưa rõ chức vụ gì, cai trị 437 - 443

  • Đàn Hoà Chi(443 - 445)

Đàn Hoà Chi người đất Kim Hương thuộc Cao Bình, từng giữ chức Long Nhương tướng quân, Thứ sử Giao Châu.[207] Năm 436, vua Lâm Ấp là Phạm Dương Mại lại xua quân sang cướp phá quận Cửu Chân.[329][330] Hoà Chi phụng mệnh vua Tống dẹp loạn, ông sai Hộ tào tham quân của phủ là bọn Khương Trọng Cơ đi trước đến gặp Dương Mại, bị Dương Mại bắt giữ. Hòa Chi giận, tiến vây tướng của Lâm Ấp là Phạm Phù Long ở thành Khu Túc.[50][331] Dương Mại sai tướng là Phạm Côn Sa Đạt đến cứu. Hoà Chi cử Tông Xác lén đem quân đón đánh Sa Đạt, phá tan được. Sau đó, Hòa Chi hạ thành Khu Túc, chém Phù Long, thừa thắng tiến vào Tượng Phố. Đàn Hòa Chi nhờ công này được nhận chức Hoàng môn thị lang, lãnh Việt kị hiệu úy, Hành Kiến vũ tướng quân.[130][131] Sau này, Đàn Hòa Chi chuyển công tác, do can tội say rượu và nhũng loạn của công, bị bãi chức. Lúc bị bệnh, thấy ma quỷ rợ Hồ hiện hình hành hạ, rồi chết.[332][333]

  • Khương Trọng Cơ

Khương Trọng Cơ là tham quân trong phủ Thứ sử Giao Châu, được Đàn Hoà Chi cử sang Lâm Ấp hoà đàm, bị người Lâm Ấp bắt giữ, không rõ kết cục thế nào[130][131][330]

  • Tiêu Cảnh Hiến (446 - 454) và 445

Tiêu Cảnh Hiến giữ chức Tư mã,[207] cùng Đàn Hòa Chi dẫn binh chinh phạt Lâm Ấp, lập nhiều chiến công hiển hách[131][330]

  • Tông Xác

Tông Xác tự Nguyên Thiên, người quận Nam Dương, giữ chức Trấn Vũ tướng quân,[50] lĩnh ấn tiên phong trong cuộc chinh phạt Lâm Ấp[207] đã khéo bày cách làm hình Sư tử để chống nhau với voi dữ của nước này.[130][334] Quân Lâm Ấp thua to, Phạm Dương Mại chạy thoát, thu được đồ châu báu lạ không biết bao nhiêu mà kể. Riêng Tông Xác không lấy một thứ gì, ngày về nhà cũng chỉ có khăn áo xác xơ.[131][335]

  • Phạm Phù Long

Phạm Phù Long (Tấn thư chép là Phạm Phù Long Đại, Việt sử lược chép là Phạm Phục Long) là võ tướng của Lâm Ấp, bị vây hãm ở thành Khu Túc nên phải cầu viện binh.[50] Vua Lâm Ấp cử Phạm Côn Sa Đạt đến cứu thì bị tướng nhà Tống là Tông Xác đón đánh phải bỏ chạy, sau khi thành Khu Túc bị hạ thì bị Đàn Hòa Chi chém chết.[130][131][330]

  • Phạm Côn Sa Đạt

Phạm Côn Sa Đạt là võ tướng của Lâm Ấp, được vua Lâm Ấp phái đi cứu Phạm Phù Long. Trên đường đi gặp phải phục binh của Tống Xác đánh cho tan tác, không rõ kết cục thế nào?[130][131][330]

  • Hoàn Hoằng (454 - 456)

Hoàn Hoằng (có sách ghi là Hoàn Phiệt) tự Thúc Duật, làm Thứ sử Giao Châu nhà Tống, tiền của kể đến hàng vạn, vì vua Hiếu Võ có tính tham của cải, hễ có người nào làm quan ăn lương 2.000 thạch (tức chức Thái thú) khi bãi chức về nước, thì bắt theo hạn định mà nạp của cải và đánh bạc.[207]

  • Viên Hoành

Viên Hoành chưa rõ chức vụ gì, cai trị vào năm 455

  • Phi Yên

Phi Yên chưa rõ chức vụ gì, cai trị vào năm 456 - 458

  • Viên Lãng

Viên Lãng chưa rõ chức vụ gì, cai trị vào năm 458 - 462

  • Đàn Dực Chi

Đàn Dực Chi chưa rõ chức vụ gì, cai trị vào năm 462 - 465

  • Nguyễn Phiên

Nguyễn Phiên chưa rõ chức vụ gì, cai trị vào năm nào?

  • Nguyễn Nghiên

Nguyễn Nghiên làm Thứ sử Giao Châu về thời nhà Tống, chưa rõ chính xác tại vị năm nào, viết chữ thảo rất tốt.[207]

  • Trương Mục Chi (465 - 468)

Trương Mục Chi tự Tư Tịnh, thân sinh của bà Trương Hậu nhà Lương, lúc trẻ tuổi là người đúng đắn, và hoà nhã, giữ chức Tán kỵ Thị lang, sau xin làm Thái thú quận Giao Chỉ, có chính tích hay.[207]

  • Lưu Mục (? - 468)

Lưu Mục (có sách chép là Trương Mục), giữ chức Thứ sử Giao Châu, bị bệnh chết năm 468, các bộ thuộc đem từ Trung Hoa sang đều bị người trong châu là Lý Trường Nhân thanh trừng[130][131]

  • Ngô Hỷ (468)

Ngô Hỷ người Lâm An, Ngô Hưng, còn có tên là Hỷ Công. Tham gia bình định được Kinh Châu, được thăng làm Tiền quân tướng quân, tăng ấp 300 hộ. Năm 468, đổi phong Đông Hưng huyện hầu, hộ ấp như trước, tiếp tục làm Sứ trì tiết, Đốc chư quân sự của Giao Châu, 2 quận Úc Lâm, Ninh Phổ thuộc Quảng Châu, Phụ quốc tướng quân, Giao Châu thứ sử thay thế cho Lưu Mục nhưng không nhận chức.[336][337][338]

  • Tông Phụng Bá (468)

Tông Phụng Bá được Tống đế phong làm Thứ sử Giao Châu bởi Ngô Hỷ từ chối chức vụ này, tuy nhiên Phụng Bá cũng không dám sang bởi lúc đó ở Giao Châu có Lý Trường Nhân đang chống giữ.[338][339][340]

  • Lưu Bột (468)

Lưu Bột là ông nội của Lưu Kỳ, vốn giữ chức Nam Khang tướng, do Ngô Hỷ và Tông Phụng Bá đều không nhận chức, nhà Tống phái Bột sang thay Lưu Mục làm Thứ sử Giao Châu.[207] Bột bị Lý Trường Nhân chống trả quyết liệt, chưa được bao lâu thì ốm chết.[130][131]

  • Trần Bá Thiệu

Trần Bá Thiệu chưa rõ chức vụ gì, nắm quyền vào năm 469 - 477

  • Lý Trường Nhân (468 - 478)

Lý Trường Nhân (Việt sử lược chép họ Nguyễn) người Giao châu. Năm 468, Thứ sử Giao Châu là Lưu Mục chết, ông tự xưng là Thứ sử. Sau đó, ông sai sứ sang xin vua Tống cầu phong nhưng Tống Minh Đế chỉ cho ông làm Giao Châu hành kinh lược sứ. Năm 468, Lưu Bột sang làm Thứ sử Giao Châu, Lý Trường Nhân chống cự được ít bữa thị Bột ốm chết.[50] Nhân đó, Trường Nhân sai sứ xin hàng, tự hạ xuống chức Hành Châu sự, tức người chấp hành công việc của châu. Thực tế Lý Trường Nhân được chuẩn cho đứng đầu cai quản Giao Châu, tương đương như Thứ sử, nhưng Nhân xin tự hạ chức danh chỉ gọi là "Hành châu sự".[130][131]

  • Thẩm Hoán (479)

Thẩm Hoán vốn là Thái thú Nam Hải, khi Lý Trường Nhân chết được nhà Tống cử sang làm Thứ sử Giao Châu.[50] Tuy nhiên em họ Trường Nhân là Lý Thúc Hiến chia quân chống giữ, Hoán không sang được Giao Châu đành lưu lại Uất Lâm rồi chết ở đó.[130][131]

  • Thẩm Cảnh Đức

Thẩm Cảnh Đức chưa rõ chức vụ gì, nắm quyền vào năm 477 - 478

  • Triệu Siêu Dân

Triệu Siêu Dân chưa rõ chức vụ gì, nắm quyền vào năm 478 - 485

  • Lý Thúc Hiến (479 - 485)

Lý Thúc Hiến (Việt sử lược chép họ Nguyễn) là em thúc bá với Lý Trường Nhân, sau khi anh họ chết, Thúc Hiến do chân quyền Thái thú Vũ Bình, lên thay Trường Nhân, lĩnh việc Giao Châu. Vì hiệu lệnh của mình chưa được thi hành, nên sai sứ sang nhà Tống xin làm Thứ sử.[50] Nhà Tống lấy Thái thú Nam Hải là Thẩm Hoán làm Thứ sử Giao Châu, cho Thúc Hiến làm Ninh Viễn quân tư mã, giữ chức thái thú hai quận Tân Xương và Vũ Bình. Thúc Hiến không chịu thu nạp Thẩm Hoán, đem quân chấn giữ các khu vực hiểm yếu. Năm 479, Tề Cao Đế lên ngôi công nhận Thúc Hiến làm Thứ sử.[341] Năm 485, Tề Vũ Đế sai Đại tư nông Lưu Khải làm Thứ sử Giao Châu, Thúc Hiến không chống nổi phải sang đầu hàng.[130][131]

  • Lưu Hiệu

Lưu Hiệu chưa rõ chức vụ gì, nắm quyền vào năm 485

  • Lưu Khải (485 - 487)

Lưu Khải vốn giữ chức Đại tư nông, được Tề Vũ Đế phái sang dẹp Lý Thúc Hiến ở Giao Châu vì tội không chịu cống nạp.[50] Khải điều động quân các quận Nam Khang, Lư Lăng và Thủy Hưng sang đánh. Thúc Hiến sai sứ xin bãi binh, dâng mũ đâu mâu bằng bạc nguyên cất, đủ dùng cho hai mươi đội, và lông công để trang sức. Vua Tề không nghe, Thúc Hiến sợ bị Lưu Khải đánh úp, mới đi đường tắt từ Tương Châu sang chầu vua Tề, còn Lưu Khải vào Giao Châu thay thế làm Thứ sử.[130][131]

  • Hoàn Duệ

Hoàn Duyệt là em Thứ sử Hoàn Hoằng, làm quan (chưa rõ chức vụ gì) ở quận Cửu Chân.[342]

  • Hoàn Thâm

Hoàn Thâm là con trai của Thứ sử Hoàn Hoằng, giữ chức Võ giám, người nho nhã có học thức, được Lưu Khải đề bạt bèn khiến đi theo sang Giao Châu, Thâm đi chưa đến nơi đã chết.[207]

  • Phòng Pháp Thừa (488-490)

Phòng Pháp Thừa (Việt sử lược chép là Phòng Pháp Tông, Toàn thư chép là Phòng Pháp Thặng) trước là Thái thú Thủy Hưng, chuyển sang làm Thứ sử Giao Châu thay cho Lưu Khải, chỉ ham đọc sách, thường có bệnh, không làm việc, sai bọn sử lại cung đốn, phục dịch.[50] Vì thế, viên trưởng lại Phục Đăng Chi chuyên quyền tự thay đổi các tướng lại.[343] Quan lục sự Phòng Tú Văn đem việc đó nói với Pháp Thừa, do đó Đăng Chi bị bắt giam 10 ngày. Đăng Chi buộc phải đút lót người nhà Thứ sử, nên mới được tha.[131] Tiếp đó Đăng Chi đã đem bộ khúc bất ngờ đánh úp châu trị, bắt giam Pháp Thừa, rồi tâu về triều đình là Pháp Thừa bị bệnh tim, không thể trông coi việc chính trị ở Giao châu được.[130] Vua Tề phế Pháp Thừa triệu về kinh, sử dụng Đăng Chi làm thứ sử, Pháp Thừa về đến Ngũ Lĩnh thì chết[207]

  • Phòng Tú Văn

Phòng Tú Văn (Cương mục là Phòng Quý Văn) giữ chức quan lục sự ở phủ Giao Châu, đem việc Phục Đăng Chi chuyên quyền báo cáo với Thứ sử Phòng Pháp Thừa khiến ông ta bị giam hãm, không thấy sử sách nói đến kết cục của nhân vật này.[130][131]

  • Thôi Cảnh Thúc

Thôi Cảnh Thúc là em rể của Phòng Pháp Thừa, khi Phục Đăng Chi bị bắt đã nhờ người hối lộ cho Cảnh Thúc, nhờ đó Đăng Chi mới được tha.[130][131]

  • Phục Đăng Chi (490 - 494)

Phục Đăng Chi vốn là trưởng lại ở phủ Giao Châu, do bất mãn với chính quyền sở tại nên quật khởi làm binh biến lật đổ Thứ sử Phòng Pháp Thừa,[50] dâng biểu lên vua Tề được chỉ định thay thế Thừa làm Thứ sử Giao Châu.[130][131][207][343]

  • Tống Linh Trí

Tống Linh Trí không rõ chức vụ gì, tại nhiệm năm 494

  • Tống Từ Minh

Tống Từ Minh không rõ chức vụ gì, tại nhiệm năm 495

  • Lý Khải (495 - 505)

Lý Khải (Toàn thư chép là Lý Nguyên Khải, Việt sử lược chép là Nguyễn Khải) thay Phục Đăng Chi làm Thứ sử Giao Châu,[50] gặp lúc nhà Tề thiện nhượng nhà Lương, nhân chưa có ân uy gì với tân triều nên nổi dậy tạo phản.[207] Trưởng sử là Lý Tắc phản kháng và bình định được cuộc binh biến, lại dẹp tan dư đảng của Khải là Lý Tôn Lão, nhân đó Lương Vũ Đế hạ chiếu phong Tắc làm Thứ sử Giao Châu.[130][131]

  • Lý Tôn Lão

Lý Tông Lão (Cương mục chép là Nguyễn Tôn Hiếu) là bộ tướng của Lý Khải, sau khi Lý Khải chết đã dấy binh làm loạn, bị Lý Tắc chém chết.[130][131]

  • Lý Tắc (505 - 541)

Lý Tắc (Việt sử lược chép là Nguyễn Tắc) vốn là Trưởng lại ở Giao Châu, nhân lập công dẹp loạn Lý Khải và chấn áp dư đảng nên được Lương Vũ Đế ân chuẩn phong làm Thứ sử Giao Châu[50][130][131][207]

  • Vương Nhiếp (505 - 506)

Vương Nhiếp giữ chức Thứ sử Giao Châu đời nhà Lương, chưa rõ chính xác tại vị trong niên đại nào.[207]

  • Tiêu Tư (535 - 542)

Tiêu Tư (có sách ghi là Tiêu Dư) tự Thế Thái, vốn là Vũ Lâm hầu, tôn thất nhà Lương.[344] Giữ chức Thứ sử Giao Châu, vì hà khắc tàn bạo, mất lòng người nên bị quan Giám quân ở quận Cửu Đức là Lý Bí nổi dậy đánh đuổi, bỏ chạy về Quang Châu[207][345][346][347]

  • Tinh Thiều

Tinh Thiều người Giao Châu, từng đến kinh đô nhà Lương xin được chọn làm quan. Thượng thư bộ Lại nhà Lương là Sái Tôn cho rằng họ Tinh trước không có ai hiển đạt, nên chỉ bổ cho chức Quảng Dương môn lang. Thiều lấy làm nhục, trở về làng rồi theo Lý Bí dấy binh tạo phản, trở thành khai quốc công thần, không rõ kết cục thế nào[345][346][347]

  • Lý Bí

Lý Bí (có sách chép là Lý Bôn, Việt sử lược ghi thành Nguyễn Bôn) người Thái Bình phủ Long Hưng. Tổ tiên là người Bắc, cuối thời Tây Hán khổ về việc đánh dẹp, mới tránh sang ở đất phương Nam, được 7 đời thì thành người Nam.[347] Lý Bí làm Giám quân ở quận Cửu Đức, nhân Thứ sử Tiêu Tư bạo ngược đã liên kết với hào kiệt mấy châu nổi dậy đánh đuổi, tự lập làm Nam Việt Đế, đặt quốc hiệu Vạn Xuân.[345][346]

  • Tôn Quýnh (542)

Tôn Quýnh vốn là Thứ sử Cao Châu, khi Tiêu Tư bị Lý Bí đánh đuổi đã được vua Lương hạ lệnh đem binh sang Giao Châu chấn áp. Quýnh lấy cớ đang mùa xuân, khí lam chướng đang thịnh, xin chờ qua mùa thu sẽ đánh. Tư thúc dục khiến đi, rồi quân lính tan rã cả, phải trở về. Tư vu tấu cho Quýnh và Hùng có ý dung giặc, đều bị tội tử hình.[345][346]

  • Lư Tử Hùng (542)

Lư Tử Hùng là Thứ sử Tân Châu, cùng Tôn Quýnh được vua Lương điều động sang Giao Châu đánh Lý Bí, quân đi đến Hợp Phố, 10 phần chết đến 6, 7 phần, tan rã mà về. Tiêu Tư tâu vu với vua Lương rằng Quýnh và Tử Hùng dùng dằng không chịu đi, đều bị buộc phải tự tử.[207][345][346]

  • Tiêu Hoán

Tiêu Hoán (có sách chép là Tiêu Ánh), giữ chức Thứ sử Quảng Châu, vua Lương hạ lệnh cho Tôn Quýnh và Lư Tử Hùng đánh sang Giao Châu. Hai người này còn do dự, Tiêu Ánh bị Tiêu Tư hối thúc nên ép họ phải ra quân, kết quả thất bại quân chết quá nửa. Hoán đã hợp tâu với Tiêu Tư đổ tội hết lên đầu 2 vị Thứ sử kia, khiến họ bị xử tử.[345]

  • Dương Phiêu

Dương Phiêu (có sách chép tên là Thiêu, là Thiệu hoặc Phiếu) người Tây Huyện thuộc Thiên Thủy, được nhà Lương phong làm Thứ sử Giao Châu,[50] cùng với Trần Bá Tiên, đem binh đánh Lý Bí, tiến binh đến đất Gia Ninh, Bí chạy trốn trong động Khuất Lão (có sách ghi là Khuất Liệu).[207] Ít lâu sau, Lý Bí ốm chết (có sách nói bị người dân vùng Dạ Trạch bắt được chép đầu dâng cho quân Lương), binh quyền giao cho con trai Thái phó Triệu Túc là Triệu Quang Phục, không thấy sử sách nói đến kết cục của Dương Phiêu[345][346][347]

  • Tiêu Bột (550 - 557)

Tiêu Bột làm Thứ sử Định Châu, Lương Vũ Đế hạ lệnh đem binh phối hợp với Dương Phiêu và Trần Bá Tiên công phá Giao Châu. Bột biết ý các tướng sĩ sợ phải đi đánh xa, nên nói dối để Dương Phiêu ở lại.[345][346] Sau Trần Bá Tiên không đợi quân của Bột nữa, tự mình nhận ấn tiên phong, trục xuất quân Lý Bí khỏi Gia Ninh. Nhà Lương sai Vương Lâm xuống miền nam mục đích kiềm chế Tiêu Bột, khi mâu thuẫn đang căng thẳng thì Lâm được phải về triều vì có biến cố. Năm 557, Trần Bá Tiên cướp ngôi nhà Lương nên thanh trừng người họ Tiêu, Bột quyết định làm phản bị Thái thú Cửu Đức là Trần Pháp Vũ giết chết ở Thủy Hưng.

  • Trần Bá Tiên (545 - 550)

Trần Bá Tiên tự Hưng Quốc, người Ngô Hưng, làm Tham quân ở Quảng Châu, thăng lên chức Tư Mã Giao Châu hợp với Dương Phiêu đánh Lý Bí.[207] Phiêu tập hợp các tướng lại đất Giang Tây, Thứ sử Quảng Châu là Tiêu Bột lại trù trừ chưa dám tiến binh. Bá Tiên xin làm Tiên phong, dẫn quân đến đâu là đánh tan hết, khiến Lý Bí chết ở động Khuất Lão.[50] Nhờ có công ấy, Tiên được thăng Thái thú quận Cao Yêu, đốc suất quân sự cả bảy quận.[348] Năm 550, vua Giản Văn Đế nhà Lương phong Bá Tiên làm Binh uy tướng quân kiêm Thứ sử Giao Châu.[349] Bấy giờ Triệu Quang Phục đang cầm cự với quân Lương ở đầm Dạ Trạch, Bá Tiên dùng sách lược vây hãm lâu dài mục đích khiến cho lương thảo hết tự nhiên phải đầu hàng.[345] Gặp lúc nhà Lương có loạn Hầu Cảnh, Lương đế triệu Bá Tiên về nước, sau khi dẹp loạn, Bá Tiên thâu quyền lớn trong tay, rồi ép Lương Kính Đế phải thiện nhượng cho mình, lập ra nhà Trần.[346][347][350]

  • Dương Sàn (545 - 550)

Dương Sàn là tỳ tướng theo Trần Bá Tiên sang chinh phạt Giao Châu, sau khi Bá Tiên về kinh dẹp loạn Hầu Cảnh, bị Triệu Quang Phục tung quân đánh đuổi. Sàn chống cự không nổi, thua trận chết trong đám loạn binh, quân Lương tan vỡ rút hết về bắc[345][346][347]

  • Vương Lâm (554) và (557 - 560)

Vương Lâm được Lương Nguyên Đế cử xuống phương nam hỗ trợ cho Tiêu Bột, Lâm trú đóng gần một năm. Cảm thấy bị sức ép từ triều đình do việc bổ nhiệm và trú đóng của Vương Lâm nên Âu Dương Ngỗi ngày càng ngả theo ý định làm phản của Tiêu Bột, Bột và Lâm nảy sinh mâu thuẫn do sự kích động của Ngỗi.[351] Tuy nhiên, tình hình căng thẳng giữa Vương Lâm và Tiêu Bột đột nhiên tắt ngấm vì Vương Lâm phải vội quay về triều do các biến cố quan trọng trong cung đình.[350] Năm 557, Vương Lâm nổi dậy chống lại nhà Trần, ba năm sau Lâm bị Âu Dương Ngỗi đánh bại rồi phải trốn chạy lên vùng Đông Bắc, sau bị quân Bắc Tề bắt giết ở Thọ Dương.

  • Lưu Nguyên Yển (555)

Lưu Nguyên Yển vốn là thủ hạ của Vương Lâm, được Lâm tiến cử làm Thứ sử Giao Châu, bấy giờ thực quyền Giao Châu do Triệu Quang Phục nắm giữ nên chỉ ở Quảng Châu, sau đem quân trở về bắc tìm gặp Vương Lâm.

  • Trần Pháp Vũ (555 - 557)

Trần Pháp Vũ trước là Thái thú Cửu Đức, sau lập công đánh bại Tiêu Bột được Trần Bá Tiên tiến cử làm Thứ sử Giao Châu, tuy nhiên chưa bao giờ đặt chân sang vùng đất này.[348][349]

  • Viên Đàm Hoãn (557 - 560)

Viên Đàm Hoãn làm Thứ sử Giao Châu đời nhà Trần, trong thời gian Vương Lâm nổi loạn từng đem vàng bạc 500 lạng vàng gởi Ngỗi, dặn ông trả 100 lạng cho Hợp Phố thái thú Cung Kiều, 400 lạng giao cho con trai mình là Viên Trí Củ. Về sau, Ngỗi bị Tiêu Bột lấy hết tài sản, nhưng vẫn giữ lại được số vàng này. Đàm Hoãn mất rồi, ông làm đúng như lời dặn, người thời ấy không ai không khâm phục.[352]

  • Lan Khâm

Lan Khâm tự Hưu Minh, người Ngụy - Trung Xương, vốn là Thứ sử Hàng Châu, theo lệnh Lương Vũ Đế cùng Trần Bá Tiên sang Giao Châu dẹp loạn Lý Bí.[349] Khâm được thăng chức Tán kỵ thường thị, Tả vệ tướng quân, sau đó đổi ra làm Tán kỵ thường thị, An nam tướng quân, Quảng Châu thứ sử. Vừa đến nhiệm sở (Quảng Châu), Thứ sử tạm quyền là Nam An hầu Tiêu Mật sai nhà bếp bỏ thuốc vào thức ăn. Khâm trúng độc mà chết, Bá Tiên cho Âu Dương Nguy mang thi hài Khâm về Hàng Châu an táng.[353]

  • Âu Dương Ngỗi (560 - 563)

Âu Dương Ngỗi (có sách chép là Âu Dương Nguy) tự là Tĩnh Thế, người Lâm Tương, Trường Sa, Đàm Châu. Vốn làm phụ tá cho Trần Bá Tiên theo quân viễn chinh sang Giao Châu, nhưng do Lan Khâm chết dọc đường nên Âu Dương Ngỗi được phép đem thi thể Lan Khâm về Hàng Châu.[352] Sau đó, Âu Dương Ngỗi ở lại canh giữ Hàng Châu. Do theo Tiêu Bột chống lại Trần Vũ Đế mà bị bắt, vì có chút uy danh ở miền nam nên ít lâu sau Nguy được thả rồi bổ nhiệm làm Thứ Sử Hàng Châu kiêm Đô Đốc với quyền hành quân sự trên toàn bộ 19 châu bao gồm cả hai châu Quảng và Giao.[348]

  • Lan Dụ

Lan Dụ là em của Lan Khâm, nguyên là Thứ sử Cao Châu, từng rủ Âu Dương Ngỗi phản lại Trần Bá Tiên sau khi Lương Vũ Đế bị Hầu Cảnh sát hại nhưng Nguy không nghe, Dụ phát binh tấn công Hàng Châu bị quân tiếp ứng của Trần Bá Tiên đánh tan.[348][352]

  • Âu Dương Thịnh (563 - 567)

Âu Dương Thịnh là em Âu Dương Ngỗi, phò tá anh giữ yên Quảng Châu, khi Âu Dương Ngỗi mất lên thay anh làm Thứ sử Giao Châu.[352]

  • Âu Dương Hột (567 - 570)

Âu Dương Hột là con Âu Dương Ngỗi, được Trần Tuyên Đế phong chức Đô đốc, quản lãnh quân sự 19 châu gồm cả Giao Châu và Quảng Châu, oai vang toàn cõi Bách Việt hơn 10 năm.[352] Sau trong triều có kẻ nghi kị dèm pha, Trần đế ra lời chiếu vời về triều. Hột sợ, bèn theo Thứ sử Hồ Nam làm phản rồi bị giết chết.[207]

  • Nguyễn Trác (570 - 576)

Nguyễn Trác dẹp được Âu Dương Hột, được nhà Trần cử sang thay thế làm Thứ sử Giao Châu. Bấy giờ những người Lao man di ở Giao Chỉ thường hay tụ tập lại đi cướp phá và Nguyễn Trác được giao nhiệm vụ giải quyết việc này, lúc đó tất cả những sứ giả gửi xuống Giao Chỉ, từ đầu đến cuối, chỉ lo tích lũy của cải; riêng có Nguyễn Trác thì không làm như thế, và bỏ về tay không.[354] Năm 572, Nguyễn Trác mở cuộc viễn chinh xuống tận miền biên giới đã khiến Lâm Ấp và Phù Nam phải vội gửi sứ giả lên triều đình xin được giao hảo.[355]

  • Thái Ngung

Không rõ chức vụ gì, do phạm tội nên bị triều đình trục xuất xuống Giao Châu, được giao cho một quan hệ với các quyền lực địa phương.

  • Đại Hoàng

Đại Hoàng vốn là Thứ sử Ninh Châu, do lập công tháp tùng Nguyễn Trác nên được giao nhiều chức vụ quan trọng ở Giao Châu.[355]

  • Trần Khắc (572 - 574)

Trần Khắc làm Thứ sử Quảng Châu, được giao nhiệm vụ kiêm Đô đốc Giao Châu, phối hợp với Nguyễn Trác cai quản vùng này.[355]

  • Phượng Tần (574 - 575)

Phượng Tần là cháu của thân mẫu Trần Vũ Đế, được cử sang thay thế Trần Khắc làm Thứ sử Quảng Châu kiêm Đô đốc Giao Châu.

  • Trần Quân Cảo (576 - 578)

Trần Quân Cảo là nho sĩ, giữ chức Đô đốc Quảng Châu và Giao Châu thay cho Phượng Tần. Lúc đó Bộ lạc Di và những người Lao liên tục đánh lẫn nhau, Quân Cảo không thông thạo việc quân sự; nên ông dốc hết tâm lực vuốt ve xoa dịu họ và giảng giải phải trái để đem lại sự hài hoà trong dân chúng. Năm 578. Quân Cảo chết, th 48 tuổi, chỉ sau hai năm tại chức.

  • Dương Tấn (578 - 589)

Dưwng Tấn thay thế Trần Quân Cảo làm Đô đốc cả hai châu Giao và Ái đời Trần, được phong tước là Võ Khang quận công.[207]

  • Lý Hữu Vinh

Lý Hữu Vinh giữ chức Thứ sử Giao Châu không rõ từ năm nào, đến năm 583, Vinh gửi một số voi đã huấn luyện thuần thục sang triều cống nhà Trần.

Thời Tùy Đường Ngũ Đại (589 - 938)[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 589, nhà Tuỳ ở phương Bắc thống nhất được Trung Quốc, chấm dứt thời kì hỗn chiến Nam Bắc Triều. Năm 583, Tùy Văn Đế bỏ quận lập châu. Việt Nam khi đó bao gồm những châu: Giao (vùng đồng bằng Bắc Bộ), Hưng châu (năm 598 đổi là Phong châu, tức là vùng Sơn Tây, Phú Thọ), Hoàng (năm 598 đổi là Ngọc châu, tức là bờ biển Bắc Bộ thuộc vịnh Hạ Long), Ái (tương đương Thanh Hóa), Đức (năm 598 đổi là Hoan châu, tương đương tỉnh Nghệ An), Lợi (năm 598 đổi là Trí châu, tương đương tỉnh Hà Tĩnh)[356]. Năm 602, sau khi tiêu diệt nước Dã Năng của Lý Phật Tử, nhà Tùy gộp hết các huyện của quận Giao Chỉ cũ làm 2 huyện Giao Chỉ và Long Uyên, lệ thuộc vào Giao châu. Các huyện thuộc quận Giao chỉ thời thuộc Tấn ở phía bắc và phía nam sông Đuống trên tả ngạn sông Hồng ở phía hạ lưu Hà Nội, miền sông Cầu, sông Thương, sông Thái Bình. Chủ trương của nhà Tùy là thiết lập chế độ trung ương tập quyền, không phong cho tông thất và công thần, chỉ chuyên dùng quan lại cai trị. Năm 618, nhà Đường lật đổ nhà Tùy, khôi phục lại chế độ các châu nhỏ thời Nam Bắc triều. Năm 622, nhà Đường lập Giao châu đô hộ phủ, người đứng đầu cơ quan này gọi tổng quản. Năm 624, Đường Cao Tổ đổi các Phủ đô hộ thành Phủ Đô đốc. Phủ Đô hộ An Nam thành Phủ đô đốc An Nam. Năm 679, Đường Cao Tông lại đổi về tên cũ, đổi quận Giao Chỉ trở lại thành châu Giao, đặt ra Phủ Đô hộ Giao Châu. Bấy giờ, vùng Lĩnh Nam có 5 đô hộ phủ, cai quản châu Giao, châu Quảng, châu Quế, châu Dung, châu Ung, gọi chung là Lĩnh Nam ngũ quản (tức Lĩnh Nam đạo). Năm 678, nhà Đường lập ra An Nam đô hộ phủ, chức quan đứng đầu Phủ Đô hộ An Nam gọi là Kinh lược sứ, sử Trung Quốc quen gọi Giao châu là An Nam kể từ đó. Bấy giờ, An Nam được phân thành 12 châu ở vùng đồng bằng và trung du, 41 châu ki mi (châu ràng buộc lỏng lẻo) ở vùng rừng núi.[357] Năm 757, Đường Túc Tông đổi An Nam đô hộ phủ thành Trấn Nam đô hộ phủ, chín năm sau (766) lại đổi về tên cũ. Năm 863, Nam Chiếu chiếm được An Nam đô hộ phủ, tướng Sái Tập nhà Đường tử trận, Cao Biền được điều sang phải mất 3 năm mới hoàn toàn đánh dẹp được Nam Chiếu. Vì lý do này, nhà Đường bãi bỏ Phủ Đô hộ An Nam và lập Hành Giao Châu thay thế đóng tại nơi là Quảng Tây ngày nay. Nhưng chưa đầy 1 tháng thì cho tái lập Phủ Đô hộ An Nam nằm trong Hành Giao Châu. Để khôi phục và củng cố quyền hành tại Việt Nam, Đường Ý Tông thăng An Nam đô hộ phủ làm Tĩnh Hải quân, từ đó người đứng đầu Tĩnh Hải quân được gọi là Tiết độ sứ. Tại các châu, người đứng đầu gọi là Thứ sử, dưới các huyện thì người đứng đầu là Huyện lệnh.

  • Dương Hưu Phố (589 - 602)

Dương Hựu Phố tự là Vệ Khanh, trong thời kỳ nhà Trấn mất nước, làm chức Đô đốc Giao Châu, sau hàng nhà Tuỳ vẫn được giữ nguyên địa vị[207]

  • Lưu Phương (602-605)

Lưu Phương người huyện Trường An, quận Kinh Triệu, vốn là Thứ sử Qua Châu, được Tả bộc xạ Dương Tố tiến cử.[358] Tùy Văn Đế dùng Phương làm Hành quân tổng quản đạo Giao Châu, đem binh sang đánh dẹp Lý Phật Tử.[345] Khi kéo quân đến Phong Châu, Phương sai người đem điều họa phúc để dụ trước, Phật Tử sợ xin hàng, Phương bắt Phật Tử đem về kinh sư.[346] Năm 605, Tuỳ Dạng Đế cho Phương làm Hành quân tổng quản đạo Hoan Châu, tiến hành chinh phạt nước Lâm Ấp. Phương chỉ huy quân sĩ đánh đến tận kinh thành nước này, tước lấy rất nhiều của cải vật chất quý báu.[347] Tuy nhiên do binh sĩ bị bệnh dịch chết quá nửa nên sau đó buộc phải lui binh, Phương cũng bị ốm chết dọc đường về.[359] Vua lấy làm thương tiếc bèn hạ chiếu khen ngợi, truy tặng Thượng trụ quốc - Lô quốc công, con là Lưu Thông Nhân kế tục.

  • Kính Đức Lượng

Kính Đức Lượng giữ chức Độ chi thị lang, được Tuỳ Văn Đế dùng làm Trưởng sử thống lĩnh quân sĩ 27 doanh cùng Lưu Phương sang đánh Lý Phật Tử ở Giao Châu.[359] Khi quân đến Doãn Châu thì Lượng bị bệnh nặng không đi được, ở lại châu quán.[358] Trong lúc chia tay, Phương xót cảnh Lượng ốm nặng mà khóc lóc nức nở, cảm động cả mọi người, không rõ kết cục thế nào.

  • Tống Toản

Tống Toản giữ chức Doanh chủ trong quân của Lưu Phương, lập nhiều công trạng trong việc đánh bại quân của Lý Phật Tử, bình định Dã Năng quốc.[358][359]

  • Hà Quý

Hà Quý giữ chức Doanh chủ trong quân của Lưu Phương, lập nhiều công trạng trong việc đánh bại quân của Lý Phật Tử, bình định Dã Năng quốc.[358][359]

  • Nghiêm Nguyện

Nghiêm Nguyện giữ chức Doanh chủ trong quân của Lưu Phương, lập nhiều công trạng trong việc đánh bại quân của Lý Phật Tử, bình định Dã Năng quốc.[358][359]

  • Lý Vựng

Lý Vựng là Thứ sử Hoan Châu, cùng Tần Hùng đem quân bộ kị xuất phát từ huyện Việt Thường tiến đánh sang Lâm Ấp, hội quân với Lưu Phương để công phá nước này, không rõ kết cục thế nào.

  • Tần Hùng

Tần Hùng giữ chức Thượng khai phủ, được vua Tuỳ hạ lệnh phối hợp với Thứ sử Hoan Châu Tần Hùng cùng đem quân tới Lâm Ấp,[358][359] không thấy sử sách nhắc tới hành trạng của nhân vật này sau chiến dịch.

  • Trương Tốn

Trương Tốn giữ chức Đại tướng quân, đem thủy quân xuất phát từ quận Tỷ Cảnh (huyện của nhà Hán, thuộc quận Nhật Nam; nhà Tùy đặt quận Tỷ Cảnh) theo Lưu Phương từ Giao Châu đánh sang Lâm Ấp.[358][359][360]

  • Lý Cương

Lý Cương giữ chức Thượng thư hữu thừa, được Tuỳ Dạng Đế phong làm Tư mã đi kinh lược nước Lâm Ấp.[358][359] Theo Lưu Phương cùng Trương Tốn đem thuyền tới quận Tỷ Cảnh, không rõ về sau thế nào.

  • Lý (không rõ tên) (605 - 611)
  • Khâu Hòa

Khâu Hòa là người huyện Lạc Dương, phủ Hà Nam. Tùy Dạng Đế thấy Khâu Hòa có tiếng là người trị chính thuần lương, phái ông đi nhậm chức Giao Chỉ thái thú. Nước Lâm Ấp nhiều lần tặng ngọc trai, văn tê, kim bảo khiến Khâu Hòa trở nên phú quý ngang hàng với bậc vương giả.[361] Lương Đế Tiêu Tiển nghe tin bèn lệnh cho Nịnh Trường Quân xuất binh tiến công Giao Chỉ, Khâu Hòa phái trưởng sử Cao Sĩ Liêm đánh đuổi quân của Nịnh ra khỏi quận.[346] Sau khi Khâu Hòa biết triều Tùy đã mất, lập tức dâng biểu quy phục Tiêu Tiển, sau khi nhà Lương mất thì theo về với nhà Đường.[362]

  • Tiêu Tiển (617-621)

Tiêu Tiển là cháu bốn đời Tuyên Đế nhà Lương, năm Đại Nghiệp thứ 13 (617) đời Dượng Đế nhà Tùy, Tiêu Tiển khởi binh tự xưng là Lương vương; đến đời Cung Đế năm Nghĩa Ninh thứ hai (618), tự xưng đế, chiếm địa vực phía đông từ Cửu Giang, phía tây đến Tam Hiệp, phía nam đến tận Giao Chỉ, phía bắc tới Hán Xuyên. Về sau, Tiêu Tiển đầu hàng nhà Đường.[346]

  • Nịnh Trường Chân

Nịnh Trường Chân là con Nịnh Mãnh Lực, thứ sử Khâm Châu. Khi Mãnh Lực chết, Trường Chân thay cha làm thứ sử. Trước đây Trường Chân từng theo Lưu Phương sang Giao Châu để đánh nước Lâm Ấp lập nhiều công trạng, sau khi nhà Tuỳ mất về với nhà Lương. Vua Lương là Tiêu Tiển sai Trường Chân tiến đánh Giao Châu, tuy nhiên bị Khâu Hòa đánh bại. Sau Trường Chân hàng nhà Đường, từ đó mấy châu Giao, Ái mới giao thông được với nhau.[346]

  • Cao Kiệm

Cao Kiệm tự Sĩ Liêm, người đất Tu thuộc Bột Hải, cháu nội của Thanh Hà Vương Cao Nhạc nước Bắc Tề.[166] Khoảng năm Nhân Thọ (601-604) nhà Tuỳ đậu văn tài giáp khoa, được bổ làm trị lễ lang, sau vì can cữu, bị giáng chức làm chủ bạ Chu Diên, Khâu Hòa cử lên làm Tư Pháp Thư Tá.[360] Khi Lương Đế Tiêu Tiển phái Nịnh Trường Chân sang Giao Châu đã hiến kế cho Khâu Hoà chống cự thắng lợi nên được thăng chức Hành Quân Tư Mã, sau cùng với Khâu Hòa cùng ra hàng nhà Đường, làm quan đến chức hữu bộc xạ.[346]

  • Lý Đạo Hựu

Lý Đạo Hựu giữ chức Khâm sai đại thần, được Đường Thái Tông phái sang Giao Châu, mang cờ tiết sắc phong cho Khâu Hòa chức Đại tổng quản, tước Đàm quốc công.[360][362]

  • Lý Đại Lượng

Lý Đại Lượng đầu niên hiệu Trinh Quán đời Đường Thái Tông làm Đô đốc Giao Châu.[363]

  • Lý Thọ

Lý Thọ là tôn thất nhà Đường, làm Đô đốc Giao Châu, vì tham lam bị tội.[360][363]

  • Lư Tổ Thượng (627)

Lư Tổ Thượng tự Quý Lương, người Quang Châu. Lý Thọ bị tội, Đường Thái Tông cho đòi Lư Tổ Thượng đến bảo: "Giao Châu là một vùng biên giới rộng lớn, cần phải có quan chức tốt trông coi nhưng cho đến bây giờ chưa có một đô đốc nào làm đầy đủ nhiệm vụ cả. Xét thấy ngươi có khả năng, vậy hãy đi và phòng thủ Giao Châu cho trẫm. Không được viện lẽ xa xôi mà từ chối".[364] Tổ Thượng viện cớ bệnh hoạn để từ chối và không chịu xuống miền Nam nhậm chức mới.[360] Sau nhiều lần cử Đỗ Như Hối khuyến dụ không được, vua bảo anh vợ ông là Chu Phạm đến khuyên giải.[363] Tổ Thượng từ chối: "… miền Nam có nhiều bệnh sốt rét hoành hành; nếu đệ đi đến đó thì sẽ chẳng có ngày về". Vua bèn khiến chém ngay trước triều đường, về sau, vua hối hận và cho phục chức như cũ.[365]

  • Lý Đạo Hưng (635 - 636)

Lý Đạo Hưng là tôn thất nhà Đường, được phong làm Quảng Ninh quận vương, sau vì có lỗi nên giáng xuống làm Huyện công. Năm 635, Đường Thái Tông cử Hưng xuống làm Đô đốc Giao Châu và ông này chết vì bệnh trong lúc đương làm quan khoảng một năm sau.[360][363]

  • Lý Đạo Ngạn (637 - 640)

Lý Đạo Ngạn thời Trinh Quán bị đổi làm Thứ sử Giao Châu. Rợ Lèo (sơn liêu) làm phản ở châu Minh, Đạo Ngạn dẹp yên. Không lâu sau, châu Minh sáp nhập vào châu Hoan.[363]

  • Lý Giám

Lý Giám là con của Ba Vương Thần Phù, làm Thứ sử Giao Châu đời Đường.[363]

  • Liễu Sở Hiền

Liễu Sở Hiền người Bồ châu, thời Trinh Quán (627-649), làm Đô đốc Giao châu và Quế châu.[363]

  • Đỗ Chính Luân

Đỗ Chính Luân người châu Tương, Đường Thái Tông biết tiếng, cho làm chức Trung thư thị lang, Thái tử tả thứ tử. Vì Thái tử Thừa Càn bị truất, nên biếm Chính Luân làm Đô đốc Giao châu.[363]

  • Đậu Đức Minh

Đậu Đức Minh làm Thứ sử Ái châu đời Đường, chưa rõ niên đại nào.[363]

  • Nịnh Đạt

Nịnh Đạt thời Chu Tắc Thiên Đại Thánh Hoàng Đế (685-705) làm Thứ sử Ái Châu.[363]

  • Chử Toại Lương

Chủ Toại Lương tự Đăng Thiện, người Tiền Đường, con của Chử Lượng, làm chức Trung thư lệnh, cuối thời Đường Thái Tông đổi làm Đô đốc Đàm Châu và Quế Châu.[366] Sau đó, Hứa Kính Tông và Lý Nghĩa Phủ vu tấu Toại Lương làm phản.[367] Vũ Hậu giận, biếm làm Thứ sử Ái Châu, được hơn một năm thì mất.[363] Đến khi Cao Biền bình định An Nam, mới tấu xin đưa di hài về Dương Địch.

  • Sài Triết Uy

Thời Đường Cao Tông, Sài Chiết Uy bị liên luỵ vì em là Sài Lệnh Vũ theo Phòng Di Ái làm phản, phải đày ra Thiệu Châu. Sau này lập một số công trạng nên được tha, cho làm Đô đốc Giao Châu.[363]

  • Lang Dư Khánh

Lang Dư Khánh làm quan thanh liêm, nhưng tính khắc bạc, giữ chức Ngự sử Trung Thừa, sau vì bị lỗi, giáng làm Thứ sử Giao Châu.[363]

  • Lưu Diên Hựu (684 - 687)

Lưu Diên Hựu làm An Nam đô đốc, theo luật lệ nhà Đường thì dân quê hằng năm phải nộp nửa thuế. Diên Hựu bắt nộp toàn phần, do đó dân chúng oán và mưu phản. Diên Hựu phát hiện ra bèn giết người cầm đầu là Lý Tự Tiên, dư đảng của Lý Tự Tiên là Đinh Kiến nổi dậy đánh bại rồi tiêu diệt Diên Hựu, chiếm cứ Giao Châu.[363]

  • Phùng Tử Du

Phùng Tử Du là tướng trấn thủ Quảng Châu đời Đường, khi Lưu Diên Hựu bị quân của Đinh Kiến vây hãm đã phái sứ giả đến Quảng Châu cầu cứu, tuy nhận lời nhưng Tử Du lại không hành động vì trước đây có sự ganh ghét với Diêu Hựu, vì thế mà Đinh Kiến phá được thành Tống Bình.[360]

  • Tào Huyền Tĩnh

Tào Huyền Tĩnh (có thuyết ghi là Tào Trực Tĩnh), giữ chức Tư mã Quế Châu, được vua Đường Duệ Tông hạ lệnh đem binh trấn áp Đinh Kiến,[363] Tĩnh tổ chức tấn công tổng lực bất ngờ khiến Đinh Kiến không kịp xoay xở nên bại mà bị chém chết.[360]

  • Lưu Hựu

Lưu Hựu làm An Nam đô hộ đời nhà Đường, nhà giàu có lớn, mỗi lần nuôi gà lợn, có chết con nào, bắt đày tớ bồi thường gấp đôi và chẳng bao giờ ăn một món gì ngon.[363]

  • Dương Tư Húc

Dương Tư Húc, có thuyết nói là Dương Tư Miễn, giữ chức Tả giam môn Vệ tướng quân,[368] được lệnh vua Đường Huyền Tông cùng quan đô hộ An Nam là Nguyên Sở Khánh đem binh sang đánh dẹp mai Thúc Loan.[360][363][369]

  • Quang Sở Khách (722 - 724)

Quang Sở Khánh, có sách ghi là Nguyên Sở Khánh, người Giang Lăng.[360] Đầu niên hiệu Khai Nguyên (713) đổi ra làm An Nam đô hộ, cùng Dương Tư Húc dẹp yên loạn Mai Thúc Loan[363]

  • Tống Chi Đễ

Tống Chi Đễ là em của Tống Chi Vấn, từng làm Kiếm Nam Tiết độ sứ và Thái Nguyên doãn, bị tội đày ra quận Chu Diên. Nhân gặp loạn Mai Thúc Loan, Đễ mộ được 8 người tráng sĩ mặc áo giáp dày, kéo đến tận chân thành mà hô to rằng: "Hễ bọn người Lèo hành động tức thì giết chết"; 700 quân đều phục xuống không dám đứng dậy, nhờ đó góp phần bình định được phản quân.[370] Vua Đường liền xá tội cho Đễ, bổ nhiệm chức Giao Châu tổng quản[363]

  • Đỗ Minh Cừ

Đỗ Minh Cừ người Dương, cuối đời Cảnh Long nhà Đường (709), làm quan Uý quận Tế Nguyên. Một hôm, Cừ nằm chiêm bao thấy đi vào một phủ đường, gặp một người mặc áo xanh, vái chào rất cung kính và nói rằng: "Ông sẽ làm An Nam đô hộ, tôi là dân An Nam, nên đến đây chào mừng trước, xin ông hãy giữ gìn quí thể". Sau quả nhiên, Minh Cừ được Đường Trung Tông cử làm An Nam đô hộ.[363]

  • Hà Lý Quang

Hà Lý Quang người Quế Châu, năm Thiên Bửu thứ 10 (751) làm An Nam đô hộ, đem quân đánh Vân Nam, thu phục thành An Ninh, dựng lại trụ đồng của Mã Viện để định cương giới.[363]

  • Trương Thuận

Trương Thuận giữ chức An Nam đô hộ thời Đường Túc Tông.

  • Trương Bá Nghi (767 - 777)

Trương Bá Nghi là con Trương Thuận, làm An Nam Kinh lược sứ đời nhà Đường, bắt đầu đắp thành Đại La.[363]

  • Khang Khiêm

Khang Khiêm vốn là lái buôn ở phương Bắc, làm An Nam đô hộ.[363]

  • Triều Hoành (761 - 767)

Triều Hoành, có sách ghi là Trào Hành hoặc Tiều Hành người Nhật Bản, tự Cự Khanh, sinh ở Yamato thuộc Đại Hòa quốc, là hậu duệ của dòng dõi quý tộc có nguồn gốc từ Thiên hoàng Kōgen.[371] Trong khoảng niên hiệu Khai Nguyên (713-741) đem hóa phẩm đến triều kiến, hâm mộ phong hóa Trung Hoa, nhân đó lưu lại, đổi tên là Triều Hoành, nhiều lần sang sứ Trung Quốc.[372] Năm Vĩnh Thái (765) đời vua Đường Đại Tông, Triều Hoành được cử làm An Nam đô hộ.[373] Thời ấy có quân Mán xâm phạm cảnh giới hai châu Đức Hoá và Long Vũ, vua xuống chiếu khiến Triều Hoành qua dẹp yên.[363]

  • Phụ Lương Giao

Phụ Lương Giao năm Kiến Trung thứ 3 đời Đường Đức Tông (782) làm An Nam đô hộ. Lúc ấy, Tư Mã Diễn Châu là Lý Mạnh Thu và Thứ Sử Phong Châu là Lý Bỉ Ngạn làm phản, tự xưng An Nam Tiết độ sứ, đều bị Lương Giao bắt chém.[363]

  • Lý Mạnh Thu

Lý Mạnh Thu vốn giữ chức Tư Mã ở Diễn Châu, cùng Thứ sử Phong Châu là Lý Bỉ Ngạn tạo phản, tự xưng là An Nam Tiết độ sứ, bị Phụ Lương Giao dẹp yên.[363]

  • Lý Bỉ Ngạn

Lý Bỉ Ngạn nguyên là Thứ sử Phong Châu, liên minh với Diễn Châu Tư Mã là Lý Mạnh Thu tạo phản, tự xưng là An Nam Tiết độ sứ, bị Phụ Lương Giao dẹp yên.[363]

  • Cao Chính Bình (790 - 791)

Cao Chính Bình vốn là Hiệu uý châu Vũ Định, do lập công giúp Kinh lược sứ Trương Bá Nghi đánh bại quân Chà Và ở Chu Diên nên được thăng chức An Nam kinh lược sứ[363], do sưu cao thuế nặng nên người hào phú ở Phong châu là Phùng Hưng nổi lên đem quân vây hãm phủ. Chính Bình do lâu ngày không phá được nên lo phẫn mà sinh bệnh ở lưng mà chết.[370]

  • Trương Ứng

Trương Ứng làm An Nam kinh lược sứ, chết đương lúc tại chức. Kẻ tá nhị là Lý Nguyên Độ, dùng binh lực uy hiếp châu huyện làm phản. Tướng nhà Đường là Lý Phục dụ bắt được Nguyên Độ, cõi Nam trở lại yên lặng.[363]

  • Lý Nguyên Độ

Lý Nguyên Độ là kẻ tá nhị dưới quyền An Nam kinh lược sứ Trương Ứng, sau khi Trương Ứng chết thì nổi dậy tạo phản, kết cục bị tướng nhà Đường là Lý Phục đánh tan.[363]

  • Lý Phục

Lý Phục là võ tướng, được vua Đường cử sang An Nam dẹp loạn Lý Nguyên Độ, vỗ yên dân chúng[363] được phong làm Tiết độ sứ Lĩnh Nam, Phục dạy dân An Nam làm nghề nung ngói, người Nam biết làm ngói là khởi nguồn từ đây[370]

  • Khúc Lãm
  • Ô Sùng Phúc (777 - 787)
  • Trương Đình (787 - 789)
  • Bàng Phục (789 - 790)
  • Triệu Xương (792 - 802) và (804 - 806)
  • Bùi Thái (802 - 803)
  • Trương Chu (806 - 810)
  • Mã Tống (810 - 813)
  • Trương Lệ (813)
  • Bùi Hành Lập (813 - 817)
  • Lý Tượng Cổ (818 - 819)
  • Dương Thanh (819 - 820)
  • Quế Trọng Vũ (820)
  • Bùi Hành Lập (822)
  • Vương Thừa Điển (822)
  • Lý Nguyên Hỷ (822 - 826)
  • Hàn Ước (827 - 828)
  • Trịnh Xước (831 - 832)
  • Lưu Mân (833)
  • Hàn Hy (834 - 836)
  • Điền Tảo (835)
  • Mã Thực (836 - 840)
  • Vũ Hồn (841 - 843)
  • Bùi Nguyên Dụ (846 - 848)
  • Điền Tại Hựu (849 - 850)
  • Thôi Cảnh (851 - 852)
  • Lý Trác (853 - 855)
  • Lý Hoàng Phủ (856 - 857)
  • Tống Nhai (857)
  • Vương Thức (858 - 859)
  • Lý Hộ (859 - 860)
  • Vương Khoan (861)
  • Sái Tập (862 - 863)
  • Tống Nhung (863)
  • Cao Biền (864 - 868)
  • Cao Tầm (868 - 878)
  • Tăng Cổn (878 - 880)
  • Cao Mậu Khanh (882 - 884)
  • Tạ Triệu (884 - ?)
  • An Hữu Quyền (897 - 900)
  • Chu Toàn Dục (900 - 905)
  • Độc Cô Tổn (905)
  • Khúc Thừa Dụ (905 - 907)
  • Lưu Ẩn (908 - 911)
  • Khúc Hạo (907 - 917)
  • Lưu Cung (911 - 917)
  • Tiền Nguyên Hựu
  • Khúc Thừa Mỹ (917 - 923)
  • Lý Khắc Chính

Lý Tiến xuất thân không rõ, theo Tiết độ sứ Lưu Nghiễm (sau là Lưu Nham) làm tướng và quan lại cho Thanh hải quân, trở thành một trong những công thần khai quốc của nhà Nam Hán.[374] Ông cùng Lý Khắc Chính vâng lệnh Nam Hán Cao Tổ sang bình định Tĩnh hải quân, đánh bắt Khúc Thừa Mỹ về giam ở Phiên Ngung rồi trực tiếp cai trị vùng đất này.[375][376] Đầu năm 931, ông và quân Nam Hán đồn trú tại địa phương bất ngờ bị quân của Dương Đình Nghệ đánh bại phải bỏ trốn về nước, sau bị vua Nam Hán bắt giết vì tội hèn nhát.[377]

  • Trần Bảo (931)
  • Dương Đình Nghệ (931 - 937)
  • Kiều Công Tiễn (938)
  • Lưu Hoằng Tháo (937 - 938)
Tranh ghép đá mô phỏng trận Bạch Đằng 938

Vạn Vương Lưu Hoằng Tháo là hoàng tử thứ 9 của Nam Hán Cao Tổ, khi Kiều Công Tiễn bị Ngô Quyền đem quân đánh dẹp đã cầu cứu nhà Nam Hán, Nam Hán Cao Tổ lập tức cải phong Lưu Hoằng Tháo làm Giao Vương dẫn binh tiến sang Tĩnh Hải quân tiếp ứng. Tuy nhiên, con rể Dương Đình Nghệ là Ngô Quyền đã nhanh chóng diệt được họ Kiều rồi bố trí trận địa cọc trên sông Bạch Đằng mai phục sẵn, quân Nam Hán bị đánh bại hoàn toàn, Lưu Hoằng Tháo bị trúng bẫy tử trận. Ngô Quyền tự xưng vương, chính thức chấm dứt thời kỳ Bắc thuộc.[378]

  • Tiền Hoằng Soạn

Thời Minh (1406 - 1427)[sửa | sửa mã nguồn]

Tướng lĩnh và quan lại người Hán

Họ tên Tại vị Chức vụ Lý do mãn nhiệm
Trương Phụ
Mộc Thạnh
Lý Bân
Vương Thông
Trần Trí
Sơn Thọ
Lý An
Phương Chính
Hoàng Phúc
Liễu Thăng tử trận[379]
Mã Kỳ
Nguyễn Sao
Tạ Phượng
Hoàng Thành tướng tiền phong bị chém chết[380]
Phùng Quý tử trận[381]
Trần Hiệp tử trận[382]
Sư Hựu
Trần Trung tử trận[383]
Chu Kiệt
Ngũ Vân tử trận[384]
Trương Hùng
Nhậm Năng
Vi Lượng
Thái Phúc hàng quân Lam Sơn[385]
Mã Anh
Vương An Lão
Lương Minh
Lý Khánh
Thôi Tụ tử trận[386]
Tôn Tụ
Cố Hưng Tổ
Từ Hanh
Đàm Trung
Lý Lượng
Lưu Thanh
Dặc Khiêm
Hà Trung
Cao Tường
Hoa Anh
Trương Lân
Kim Dận
Lý Nhiệm tự sát[387]
Cố Phúc
Phùng Trí
Lưu Thuận

Tướng lĩnh và quan lại người Việt

Họ tên Tại vị Chức vụ Lý do mãn nhiệm
Nguyễn Huân
Mạc Thúy
Đặng Nguyên
Nguyễn Như Khanh
Mạc Địch
Mạc Viễn
Lương Nhữ Hốt
Trần Phong
Đỗ Duy Trung
Phan Liêu
Lộ Văn Luật
Cầm Bành[388] tri phủ Nghệ An[380][389] tử trận[390][391][392]
Cầm Quý[393] tri phủ Ngọc Ma[380] theo hàng quân Lam Sơn
Đỗ Phú
Đào Quý Dung
Trần Đinh
Cầm Lạn

Tướng lĩnh Ai Lao

Họ tên Tại vị Chức vụ Lý do mãn nhiệm
Mãn Sát[394] 1421 Tù trưởng Ai Lao[380] bị đánh bại

Danh sách tướng lĩnh tham chiến các thời: Tống - Nguyên - Thanh[sửa | sửa mã nguồn]

Nhà Tống (980-981) và (1075-1077)[sửa | sửa mã nguồn]

Tướng lĩnh nhà Tống:

  • Hầu Nhân Bảo

Hầu Nhân Bảo người Bình Dao - Phần Châu, con của Thái sư Hầu Ích, công cán ở Ung Châu suốt chín năm. Năm 980, nhân việc Giao Chỉ quận vương Đinh Bộ Lĩnh bị hành thích, Nhân Bảo dâng Thủ Giao Châu Sách (取交州策 - Kế sách lấy Giao Châu) và dâng thư xin về tận cửa khuyết để tâu vua tình hình có thể lấy được Giao Châu.[363] Tuy nhiên, Tống Thái Tông lại nghe theo lời bàn của Lư Đa Tốn, không gọi Nhân Bảo về cửa khuyết, mà để lại ở thành Ung Châu, chuẩn bị binh mã sang đánh Lê Hoàn, phong làm Giao Châu thủy lục kế độ chuyển vận sứ, thành lập Giao Châu hành doanh.[395] Khi xuất quân sang Giao Châu, ban đầu Hầu Nhân Bảo đắc thế, sau bị Lê Hoàn đánh bại, bị giết cùng thủy quân trên sông, Tống Thái Tông truy tặng chức Công bộ thị lang.[396]

  • Tôn Toàn Hưng
  • Lưu Trừng
  • Trần Khâm Tộ
  • Triệu Phụng Huân
  • Quách Quân Biện
  • Giả Thực
  • Cận Thần
  • Vương Soạn
  • Chu Vị
  • Thẩm Khởi
  • Lưu Di
  • Tô Giam

Tô Giam (có tài liệu phiên âm là Tô Giám) tự Tuyên Phủ, người huyện Tấn Giang, Tuyền Châu. Giam là Tri châu Ưng châu, khi bị quân Giao Chỉ vây hãm đã cho người đến Quảng Tây cầu cứu Đô giam Trương Thủ Tiết. Tuy nhiên quân của Trương Thủ Tiết bị quân Giao Chỉ tiêu diệt toàn bộ, Giám giữ thành cố thủ không chịu đầu hàng. Quân của Lý Thường Kiệt đánh đến hơn 40 ngày, chồng bao đất trèo lên thành, thành bèn bị hạ.[397] Giám cho gia thuộc 36 người chết trước, chôn xác vào hố, rồi châm lửa tự đốt chết. Giam tuyển dũng sĩ đẩy thuyền ra đánh trả, giết được 2 tướng của quân Nam. Người trong thành cảm ân nghĩa của Giám, không một người nào chịu hàng, giết hết hơn 5 vạn 8 nghìn người, cộng với số người chết ở các châu Khâm, Liêm thì đến hơn 10 vạn, quân Giao Chỉ bắt sống người ba châu ấy đem về.[398] Vua Tống truy tặng Giám là Phụng quốc quân tiết độ sứ, thụy là Trung Dũng, cho một khu nhà lớn ở kinh thành, 10 khoảnh ruộng tốt cho thân tộc 7 người làm quan, cho con là Nguyên chức Cáp môn chi hậu.[399]

  • Tô Tử Nguyên

Tô Tử Nguyên là con trưởng của Tô Giam, giữ chức Quế Châu tư hộ, nhân việc công đem theo vợ con đến thăm cha, muốn trở về thì địch đến. Giam nghĩ rằng khó lòng giải thích cặn kẽ, ắt bị hiểu lầm quan giữ thành lại đưa gia đình ra khỏi thành, bèn sai một mình Tử Nguyên ra đi, giữ vợ con của anh ta lại. Sau chiến tranh, Nguyên được phong chức Tây đầu cung phụng quan, Các môn chi hậu, sau đổi thụ phong Điện trung thừa, Thông phán Ung Châu[397]

  • Tô Tử Minh

Tô Tử Minh là con thứ Tô Giam, cùng cha tử thủ thành Ưng Châu[397]

  • Tô Tử Chính

Tô Tử Chính là con út Tô Giam, cùng cha tử thủ thành Ưng Châu[397]

  • Tô Quảng Uyên

Tô Quảng Uyên là con trưởng Tô Tử Nguyên, cháu nội Tô Giam, cùng ông nội và 2 chú tử thủ thành Ưng Châu[397]

  • Tô Trực Ôn

Tô Trực Ôn là con thứ Tô Tử Nguyên, cháu nội Tô Giam, cùng ông nội và 2 chú tử thủ thành Ưng Châu[397]

  • Trương Thủ Tiết

Trương Thủ Tiết nguyên giữ chức Đô giám Quảng Tây, khi quân của Lý Thường Kiệt từ Giao Chỉ kéo sang tập kích các châu Khâm, Liêm, Ưng đã đưa quân sang tiếp ứng cho các châu này. Lý Thường Kiệt đón đánh ở cửa ải Côn Lôn phá tan được, chém Thủ Tiết tại trận.[399]

  • Tống Cầu
  • Nguyên Dụ
  • Trương Biện
  • Hứa Dự
  • Vương Trấn
  • Lý Hiến
  • Quách Quỳ

Quách Quỳ tự Trọng Thông, tổ tiên là người gốc Cự Lộc, sau di cư tới Lạc Dương, con trai thứ của Quách Bân, một danh tướng của Bắc Tống. Năm Hi Ninh thứ 9 đời Tống Thần Tông giữ chức Chiêu thảo sứ cùng Triệu Tiết đem 10 vạn quân sang đánh Giao Chỉ tới sông Như Nguyệt, nhưng không thể tiến quân xa hơn nữa và cuối cùng phải rút về.[399] Ông bị giáng chức xuống thành tả vệ tướng quân và sau đó bị buộc hưu trí, an cư tại gia 10 năm.[400]

  • Triệu Tiết

Triệu Tiết tự Công Tài, người Y Chánh, Cung Châu, từng làm Chiêu thảo phó sứ, theo Chiêu thảo sứ Quách Quỳ sang đánh Giao Chỉ.[401] Năm 1076, có chiếu lấy Tiết làm An Nam hành doanh kinh lược, Chiêu thảo sứ, tổng thống 9 tướng quân đi đánh, lấy trung quan Lý Hiến làm phó. Tiết cùng Hiến nghị luận không hợp, bèn xin bãi Hiến. Tống Thần Tông hỏi ai có thể thay thế, Tiết cho rằng Quách Quỳ lão luyện việc biên thùy, tự nguyện làm trợ thủ; vì thế triều đình lấy Quỳ làm Tuyên phủ sứ, Tiết làm phó.[402] Sau nhiều tháng cầm cự, quân Tống không thể vượt sông, chủ tướng Quách Quỳ chấp nhận giảng hòa, đưa quân trở về. Nhờ Quỳ nhận tội tự ý nghị hòa và chịu biếm chức, Tiết chỉ bị kết tội không lập tức dẹp giặc, giáng làm Trực Long Đồ các, Tri Quế Châu. Sau đó được trả lại hư hàm Thiên Chương các đãi chế, chức Quyền Tam tư sứ.[399]

  • Dương Tiến Tùng
  • Tư Kỷ
  • Thế Cư
  • Yên Đạt
  • Nhâm Khởi
  • Khúc Trân

Tướng lĩnh người Việt:

  • Lưu Ưng Kỷ
  • Nùng Thiện Mỹ

Đế quốc Mông Cổ (1258) và nhà Nguyên (1282-1288)[sửa | sửa mã nguồn]

Tướng lĩnh quan lại nhà Nguyên:

  • Ngột Lương Hợp Thai (Uriyangqatai)
  • A Truật (Aju)
  • Triệt Triệt Đô (Cacakdu)
  • Hoài Đô (Quaidu)
  • Triệu Ngột Lương
  • Hồ Lã Trừng
  • Quỳ Hợp Thai
  • Quỳ Thủ Soạn
  • Bột Nhan Thiết Mộc Nhi (Buyan Temur)
  • Sài Thung
  • Lý Chấn
  • Hốt Kha Nhi (Qugar)
  • Toa Đô (Sogetu)
  • Thoát Hoan (Toghan)
  • A Lạt Hải Nha (Ariq Qaya)
  • Lý Hằng
  • Khoan Triệt (Koncak)
  • Bột La Hợp Đáp Nhĩ (Bolqadar)
  • Sát Tháp Nhi Đài (Satartai)
  • Mãng Cổ Đái (Mangqudai)
  • Nạp Hải (Naqai)
  • Lý Bang Hiến
  • Tôn Hựu
  • Tôn Đức Lâm
  • Lưu Thế Anh
  • Lưu Khuê
  • Nghê Nhuận
  • Lý Quán
  • Trâu Tôn
  • Đường Cổ Đãi (Tangutai)
  • Nạp Tốc Lạt Đinh (Nasr al-Din)
  • Ô Mã Nhi (Omar al-Din)
  • Áo Lỗ Xích (Ayuruychi)
  • Phàn Tiếp
  • Tích Lệ Cơ
  • Diệc Hắc Mê Thất
  • A Lý Quy Thuận (Ariq Qusun)
  • A Bát Xích
  • A Lý
  • Trình Bằng Phi
  • Ái Lỗ (Aruq)
  • Trương Ngọc
  • Lưu Khuê
  • Tích Đô Nhi (Siktur)
  • Trương Văn Hổ
  • Phí Củng Thìn
  • Từ Khánh
  • Đào Đại Minh
  • Trần Trọng Đạt
  • Tạ Hữu Khuê
  • Bồ Tý Thành
  • Lý Thiên Hựu

Hoàng thân quốc thích người Việt:

Nhà Thanh (1788-1789)[sửa | sửa mã nguồn]

Tướng lĩnh nhà Thanh:

  • Tôn Sĩ Nghị
  • Sầm Nghi Đống
  • Ô Đại Kinh
  • Hứa Thế Hanh
  • Thượng Duy Thăng
  • Trương Triều Long
  • Lý Hóa Long
  • Hình Đôn Hành
  • Phúc Khang An
  • Tôn Vĩnh Thanh

Tướng lĩnh người Việt:

  • Lê Duy Chỉ
  • Hoàng Phùng Nghĩa

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t Sử ký, Nam Việt truyện
  2. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r Hán thư, Lưỡng Việt truyện
  3. ^ Hán thư, Địa lý chí - Đệ bát hạ
  4. ^ Hậu Hán thư, Bách quan chí
  5. ^ Hậu Hán thư, Quận quốc chí - Giao châu
  6. ^ Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh, sách đã dẫn, tr 217
  7. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x y Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, quyển 2
  8. ^ a b c d e f g Đại Việt sử ký toàn thư, kỷ thuộc Tây Hán
  9. ^ Tống thư, Châu quận tứ
  10. ^ Đất nước Việt Nam qua các đời, sđd, trang 48-56
  11. ^ Đồ Thư (hoặc Đồ Tuy) là tướng nhà Tần, là tổng chỉ huy 50 vạn quân Tần tiến đánh Bách Việt, sau bị An Dương Vương Thục Phán chia quân phục kích bắn chết
  12. ^ Đại Việt sử ký toàn thư, kỷ nhà Thục
  13. ^ Sử ký, Tần Thủy Hoàng bản kỷ
  14. ^ Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh, sđd, trang 129
  15. ^ Sử Lộc là tướng nhà Tần, phụ trách việc đào ngòi vận lương để quân Tần tiến binh xuống Lĩnh Nam, không rõ kết cục thế nào
  16. ^ Nhâm Hiêu còn gọi Nhâm Ngao, là tướng nhà Tần, có công trong việc bình định Lĩnh Nam, chinh phục đất Bách Việt. Sau khi qua đời, Triệu Đà thay thế chức vụ đã giết trưởng lại nhà Tần, tuyên bố ly khai khỏi Trung Nguyên, lập ra nước Nam Việt
  17. ^ Triệu Đà người Chân Định - Hà Bắc,tự Bá Uy hiệu Nam Hải lão phu. Được Tần Thủy Hoàng phái đi hỗ trợ Nhâm Hiêu bình định Bách Việt, trước làm Huyện lệnh Long Xuyên, sau khi Nhâm Hiêu chết lên thay thế chức vụ rồi tách khỏi nhà Tần tự xưng làm Nam Việt Vũ Vương
  18. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q Đại Việt sử kỷ toàn thư, kỷ nhà Triệu
  19. ^ a b c d e f g h i j k l m Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, quyển 1
  20. ^ Lục Giả người nước Sở thời Tần mạt, giữ chức biện sĩ chuyên đi du thuyết các nước chư hầu. Sau khi Hán Cao Tổ thống nhất giang sơn, cử Giả sang Nam Việt mang ấn tín để sắc phong. Bằng lời lẽ hùng biện giỏi, Giả đã thuyết phục được Triệu Đà chấp nhận làm phên dậu cho nhà Hán. Sau khi Hán Cao Hậu băng hà, Triệu Đà công khai xưng đế chống lại nhà Hán, Hán Văn Đế phong Giả chức Thái Trung đại phu, sai sang Nam Việt lần nữa. Lần này, Giả cũng hoàn thành sứ mệnh, Triệu Đà bỏ đế hiệu mà chịu làm phiên thuộc của Trung Hoa
  21. ^ a b c d e f g An Nam chí lược, quyển 3
  22. ^ Chu Táo được Hán Cao Hậu sai đem quân tấn công sang Nam Việt, báo thù việc Nam Việt Văn Vương cướp phá mấy quận ở Trường Sa. Do thời tiết nắng to ẩm thấp, bệnh dịch bùng phát nên buộc phải tự động rút quân về
  23. ^ Sau khi cử tướng Vương Khôi xuất quân trừng phạt Mân Việt về tội gây hấn với Nam Việt, Hán Vũ Đế cử Trang Trợ sang dụ vua Nam Việt, nam Việt Văn Vương sai con là Anh Tề sang nhà Hán làm con tin
  24. ^ An Quốc Thiếu Quý người Bá Lăng, được Hán Vũ Đế cử sang Nam Việt dụ hàng. Thiếu Quý trước đây có gian tình với Cù thái hậu nên trong thời gian đi sứ đã tư thông với bà, bị Lữ Gia phát giác nên sát hại
  25. ^ Chung Quân tự Tử Vân, được vua Hán cử làm biện sĩ theo An Quốc Thiếu Quý sang Nam Việt thuyết hàng. Triều đình Nam Việt đồng ý nội thuộc, nhưng tể tướng Lữ Gia làm binh biến giết sạch đoàn sứ thần đó
  26. ^ Ngụy Thần là dũng sĩ đời Hán Vũ Đế, được cử cùng đoàn sứ bộ sang Nam Việt dụ hàng, sử sách không ghi rõ kết cục ra sao
  27. ^ Trang Sâm được Hán Vũ Đế cử đem 2000 người sang sứ Nam Việt chiêu an, Sâm từ chối không nhận nên bị cách chức
  28. ^ Hàn Thiên Thu người huyện Giáp, sau khi đoàn sứ thần dụ hàng bị tiêu diệt, được Hán Vũ Đế hạ lệnh đem 2000 binh mã đánh sang Nam Việt. Khi đến cách thành Phiên Ngung chừng 40 dặm thì bị Lữ Gia phục kích tiêu diệt hoàn toàn, vua Hán phong cho người con là Hàn Diên Niên tước Thành An hầu
  29. ^ Cù Lạc người thành Hàm Đan, là em Cù Thái hậu nước Nam Việt. Hán Vũ Đế dùng làm phó tướng theo Hàn Thiên Thu sang chinh phạt Nam Việt, sau khi tử trận con là Cù Quảng Đức được phong làm Long hầu
  30. ^ Lộ Bác Đức người quận Tây Hà, được Hán Vũ Đế phái đi đánh nước Nam Việt. Tiếp đó chiếm ra đảo Hải Nam lập 2 quận mới, sau do phạm pháp bị giáng chức làm Cường lỗ đô uý rồi lâm bệnh chết
  31. ^ Hán thư, Vệ Thanh Hoắc Khứ Bệnh truyện
  32. ^ Dương Bộc người huyện Nghi Dương, vốn là Chủ tước đô uý, đốc xuất thủy quân từ Dự Chương xuống đường Hoành Phố đánh chiếm Nam Việt lập công được phong Tương Lương hầu. Sau đó, cùng Tuân Trệ đem binh đánh Vệ Mãn Triều Tiên vi phạm kỷ luật bị giáng làm thứ dân, kết cục mắc bệnh chết
  33. ^ Hán thư, Khốc lại truyện
  34. ^ Sử ký chép là Kiệt Hầu (Thái bình hoàn vũ ký chép là Triệu Nghiêm, Bách Việt tiên hiền chí chép là Trịnh Nghiêm) người Nam Việt, đã đầu hàng từ trước. Hán Vũ Đế điều động khởi binh từ Linh Lăng đánh sang Nam Việt, nhưng khi đến Phiên Ngung khi Lộ Bác Đức và Dương Bộc đã đánh bại nước ấy rồi
  35. ^ Bách Việt tiên hiền chí, Trịnh Nghiêm truyện
  36. ^ Điền Giáp (sử chép thiếu họ, Bách Việt tiên hiền chí chép là Điền Giáp) được Hán Vũ Đế điều động khởi binh từ Thương Ngô đánh sang Nam Việt, nhưng khi đến Phiên Ngung khi Lộ Bác Đức và Dương Bộc đã đánh bại nước ấy rồi
  37. ^ Bách Việt tiên hiền chí, Điền Giáp truyện
  38. ^ Sử chép là Quý, thiếu họ người này, Bách Việt tiên hiền chí chép là Hà Di. Hán Vũ Đế điều động khởi binh từ Dạ Lang, sử dụng tội nhân Ba Thục đánh sang Nam Việt, nhưng khi đến Phiên Ngung khi Lộ Bác Đức và Dương Bộc đã đánh bại nước ấy rồi
  39. ^ Bách Việt tiên hiền chí, Hà Di truyện
  40. ^ Tô Hoàng người Nam Việt (Toàn thư chép là Tô Hoằng), vốn là Hiệu uý tư mã. Sau hàng nhà Hán lập công bắt vua Triệu là Thuật Dương Vương Kiến Đức, được phong Hải thường hầu
  41. ^ Bách Việt tiên hiền chí, Tô Hoằng truyện
  42. ^ Tôn Đô (có sách chép là Đô Kê) vốn là quan lang của Nam Việt, hàng nhà Hán lập công bắt tể tướng Lữ Gia mà được phong làm Lân thái hầu
  43. ^ Bách Việt tiên hiền chí, Tôn Đô truyện
  44. ^ Cư Ông là vị quan giám cuối cùng của quận Quế Lâm thời Nam Việt, khi quân Hán tràn sang đã dẫn dụ được 2 viên quan sứ nơi này đem hơn 40 vạn dân Âu Việt cùng Lạc Việt ra hàng, được phong tước Tương thành hầu
  45. ^ Bách Việt tiên hiền chí, Cư Ông truyện
  46. ^ a b Hai vị quan sứ này là người bản địa, được nhà Triệu cắt cử trông coi 2 quận Giao Chỉ và Cửu Chân (vốn là đất Âu Lạc cũ), mỗi quận có 1 viên Điển sứ trông coi hành chính và 1 Tả tướng coi việc Quân sự. Khi quân Hán tiến vào Nam Việt, 2 quan sứ này đầu hàng được Lộ Bác Đức phong làm Thái thú của 2 quận Giao Chỉ và Cửu Chân, vẫn giữ nguyên bộ máy cai trị Lạc hầu lạc tướng như cũ. Sử sách ghi nhận vị tả tướng cuối cùng của nhà Triệu là Hoàng Đồng, nhưng không rõ Tả tướng của quận nào và sau làm Thái thú Giao Chỉ hay Cửu Chân
  47. ^ a b Thủy kinh chú, quyển 37
  48. ^ Việt sử toàn thư, Bắc thuộc thời đại
  49. ^ Năm 106 TCN, nhà Hán lập thêm 3 quận mới nhập với 6 quận của nước Nam Việt gọi là bộ Giao Chỉ, phong Thạch Đới làm Châu thái thú cai trị cả chín quận. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Thạch Đới chết vào thời Hán Chiêu Đế nhưng không rõ năm nào
  50. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x y z aa ab ac ad ae af ag ah ai aj ak al am an ao ap aq ar as at au av aw ax ay az ba bb Đại Việt sử lược, quyển 1
  51. ^ Sau khi Thạch Đái chết, Hán Chiêu Đế lấy Chu Chương thay thế, không rõ Chu Chương tại nhiệm từ năm nào đến năm nào
  52. ^ Ngụy Lãng tự Tử Minh, Đại Việt sử lược chép là người thời Hán Tuyên Đế nhưng không rõ nhậm chức và mãn nhiệm năm nào
  53. ^ Ích Cư Xương là con của Cư Ông, An Nam chí lược chép giữ chức năm thứ 5 niên hiệu Ngũ Phụng đời Hán Tuyên Đế
  54. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x y z aa ab ac ad ae af ag ah ai aj ak al am an ao ap aq ar as at au av aw ax ay az ba bb bc bd be bf bg An Nam chí lược, quyển 7
  55. ^ Đặng Huân người Nam Dương, ông nội của Tây Hoa Huệ hầu Đặng Thần thời Đông Hán
  56. ^ Đông Quan Hán ký, Đặng Thần truyện
  57. ^ Hậu Hán thư, Đặng Thần truyện
  58. ^ Tích Quang là người quận Hán Trung, An Nam chí lược chép nhậm chức từ thời Hán Bình Đế. Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng năm Kiến Vũ thứ 5 cùng Đặng Nhượng hàng nhà Đông Hán, vua Hán phong là Diêm Thủy hầu
  59. ^ a b Hậu Hán thư, Sầm Bành truyện
  60. ^ Khi Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, Đặng Nhượng chỉ đạo các quận Giao Chỉ bộ đóng cửa tự giữ lấy bờ cõi
  61. ^ Không rõ Đặng Nhượng nhậm chức và từ chức vào năm nào, nhưng chắc chắn là cuối thời Tây Hán. Năm 29, cùng các thái thú khác theo tướng Sầm Bành đem lễ vật cống hiến Hán Quang Vũ Đế, đều được phong hầu tước
  62. ^ Đông Quan Hán ký, Đặng Nhượng truyện
  63. ^ Tư trị thông giám, quyển 41
  64. ^ Nhâm Diên người huyện Uyển, dạy dân khai khẩn đất hoang khiến trăm họ no đủ, được lập đền thờ
  65. ^ Hậu Hán thư, Nhâm Diên truyện
  66. ^ Năm 40, Thái thú Tô Định do tham lam tàn bạo nên bị Hai Bà Trưng nổi dậy đánh đuổi
  67. ^ a b c Hậu Hán thư, Nam Man Tây Nam Di liệt truyện
  68. ^ a b Việt Nam thông sử, quyển 2 chương 4 tiết 3
  69. ^ Đặng Thi Sách tự là Huyền (có sách chép họ Dương), người huyện Chu Diên quận Giao Chỉ, giữ chức huyện lệnh ở đó. Do không chấp nhận trước sự cai trị tàn bạo của Thái thú Tô Định nên ông viết thư khuyên nhủ mà bị sát hại, vợ ông là Trưng Trắc nhân đó phất cờ khởi nghĩa
  70. ^ Đại Việt sử ký toàn thư, kỷ Trưng Nữ Vương
  71. ^ Mã Viện tự Văn Uyên, năm 41 được Hán Quang Vũ Đế phái đem binh sang trấn áp Hai Bà Trưng, dẹp xong loạn Viện ở lại Giao Chỉ 3 năm, mở rộng lãnh thổ xuống phía Nam lập thêm huyện Tượng Lâm. Về sau, Mã Viện về triều được thăng làm Tân tức hầu, kết cục chết vì bệnh truyền nhiễm trong chuyến chinh phạt Ô Hoàn
  72. ^ a b Hậu Hán thư, Mã viện truyện
  73. ^ Đông Quan Hán ký, Mã Viện truyện
  74. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q Đại Việt sử ký toàn thư, kỷ thuộc Đông Hán
  75. ^ Lưu Long tự Nguyên Bá, người Nam Dương. Giữ chức Trung lang tướng, cùng Mã Viện sang chinh phạt Giao Chỉ, sau trở về được phong làm Trường Bình hầu
  76. ^ a b Đại Việt sử ký toàn thư, Kỷ Trưng Nữ Vương
  77. ^ Đông Quan Hán ký, Lưu Long truyện
  78. ^ Hậu Hán thư, Lưu Long truyện và Nam Nam Tây Nam Di liệt truyện
  79. ^ Đoàn Chí cũng theo Mã Viện sang Giao Chỉ, khi quân kéo đến Hợp Phố thì Chí bị bệnh mết, Mã Viện được lệnh chỉ huy luôn cánh quân này
  80. ^ Lý Thiện người huyện Nam Dương, trước làm quan ở Công phủ, sau làm Thái thú Nhật Nam, vì làm việc có uy tín và ơn huệ với dân được đổi làm Thái thú Cửu Chân (Cương mục chép là Cửu Giang), tuy nhiên chưa kịp đến nhiệm sở thì ốm chết
  81. ^ Hậu Hán thư, Độc hạnh truyện
  82. ^ Trương Trọng người Giao Chỉ (Lĩnh Nam di thư chép là người quận Hợp Phố, có thuyết chép Trọng người đời Tấn Minh Đế), rất có danh vọng ở đất Lĩnh Biểu, trước giữ chức cối kế ở quận Nhật Nam, sau được thăng làm Thái thú Kim Thành
  83. ^ Đại Việt sử ký toàn thư, kỷ Sĩ Vương
  84. ^ Lĩnh Nam di thư, Trương Trọng truyện
  85. ^ Trương Khôi vì tội ăn hối lộ, của cải bị tịch thu vào ngân khố quốc gia và cách chức
  86. ^ Hậu Hán thư, Chung Ly Ý truyện
  87. ^ Hồ Cống người Nam Quận, cha của danh thần Hồ Quảng thời Hán An Đế và Hán Thuận Đế
  88. ^ Hậu Hán thư, Hồ Quảng truyện
  89. ^ Chu Xưởng tự Tử Kính, người đất Ngô. Trước làm Thái thú Giao Chỉ, sau dâng biểu lên xin Hán Thuận Đế cho lập Giao Chỉ bộ làm 1 châu, triều định bàn định không nghe mà đặt làm phương bá, phong Xưởng làm Thứ sử Giao Chỉ bộ
  90. ^ Phàn Diễn làm Thứ sử Giao Chỉ bộ, bấy giờ có Khu Liên ở huyện Tượng Lâm quận Nhật Nam nổi loạn giết quan trưởng sử, ông đem quân đánh dẹp thất bại bị giáng chức
  91. ^ Giả Xương giữ chức Thị ngự sử, bấy giờ có công vụ phải đến quận Nhật Nam, gặp lúc Khu Liên nổi dậy nên ở lại chỉ đạo quan lại các châu quận chống giữ nhưng bị vây hãm hơn một năm ròng. Kết quả, Hán đế phải cử Trương Kiều và Chúc Lương đến đánh dẹp mới giải cứu được
  92. ^ Hậu Hán thư, Giả Xương truyện
  93. ^ Trương Kiều trước làm phán quan ở Ích Châu, cùng với Chúc Lương có công dẹp giặc Khu Liên nên được phong làm Thứ sử Giao Chỉ bộ thay cho Phàn Diễn
  94. ^ a b Hậu Hán thư, Thuận Đế bản kỷ
  95. ^ Chúc Lương tự Thiệu Khanh, người Tương Lâm thuộc Trường Sa. Trước làm Thứ sử Tĩnh Châu, sau dẹp loạn Khu Liên có công đến chuyển sang làm Thái thú Cửu Chân
  96. ^ Đông Quán Hán ký, Chúc Lương truyện
  97. ^ Hạ Phương trước là Thái thú Cửu Chân, có công bình phản tặc nên được đổi làm Thái thú Quế Dương, nhưng đến đời Hán Hoàn Đế dân chúng làm loạn chiếm lĩnh Nhật Nam, Hạ Phương lại được điều về làm Thứ sử Giao Châu
  98. ^ Đại Việt sử lược chép là Lưu Tháo, sau khi Hạ Phương chuyển sang Quế Dương, nhà Hán điều Lưu Tảo về làm Thái thú Cửu Chân, chưa rõ kết cục của người này
  99. ^ a b c Khâm Định tứ khố toàn thư, mục Sử bộ
  100. ^ Dương Phò người Cối Kê, là cháu của danh tướng Dương Mậu, bởi Dương Mậu theo Hán Quang Vũ Đế lập nhiều chiến công nên Dương Phò được bổ nhiệm làm Thứ sử Giao Châu
  101. ^ Nghê Thức là Thái thú Cửu Chân, bấy giờ có Chu Đạt dấy binh làm phản giết huyện lệnh Cư Phong, Thức đem quân trấn áp thất bại táng mệnh thân vong. Vua Hán hạ chiếu ban thưởng 60 vạn quan tiền, cho hai người con làm quan Lang Trung
  102. ^ Ngụy Lãng tự Thiếu Anh, người quận Cối Kê. Trước làm huyện lệnh Bành Thành, sau dẹp yên Chu Đạt được phong làm Đô uý quận Cửu Chân. Sau về triều làm Thượng thư, kết cục phải tự sát vì là đồng đảng của Đậu Vũ
  103. ^ Hậu Hán thư, Đảng cố liệt truyện
  104. ^ “Trung Quốc cổ đại danh lục, Ngụy Lãng”. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2016.
  105. ^ Chúc Điềm tự Bá Hưu, người Trung Sơn. Trước làm Tư Đồ, vì xúc phạm đến vua nên bị giáng làm Thứ sử Giao Châu
  106. ^ Hậu Hán thư, Hiếu Hoàn Đế bản kỷ
  107. ^ a b c d e f g h tổ tiên 6 đời Sĩ Tứ người Vấn Dương, hồi loạn Vương Mãng lánh sang Thương Ngô. Sĩ Tứ sinh 4 trai: Sĩ Nhiếp, Sĩ Nhất, Sĩ Vĩ và Sĩ Vũ. Sĩ Nhiếp sinh ra 6 trai: Sĩ Chi, Sĩ Huy, Sĩ Khuông (có thuyết nói là con Sĩ Nhất), Sĩ Cán, Sĩ Tụng, Sĩ Ngẩm
  108. ^ Ngu Thiều tự Văn Tú, người Cối Kê, là cha Ngu Phiên nhà Đông Ngô, có ân huệ với dân được ca tụng
  109. ^ a b Tam quốc chí, Ngô chí - Ngu Phiên truyện
  110. ^ Cát Kỳ làm Thứ sử Giao Chỉ bộ, bấy giờ có giăc cỏ tạo phản, ông trực tiếp cầm quân dẹp loạn, chẳng may bị bắt sống bởi trúng ổ phục kích, không rõ kết cục ra sao
  111. ^ Hậu Hán thư, Cát Kỳ truyện
  112. ^ Tục Hán thư chí, Thiên văn chí
  113. ^ Đinh Cung tự Nguyên Hùng, người quận Bái. Sau được triệu về triều giữ chức Tư không rồi Tư đồ, khi Hán Thiếu Đế lên ngôi bị bãi miễn, do đó theo phe Đổng Trác phế truất vị vua này, không rõ kết cục thế nào
  114. ^ a b Hậu Hán thư, Hiếu Linh Đế bản kỷ
  115. ^ Trương Bàn tự Tử Thạch, người Đan Dương
  116. ^ Năm 178, Chu Ngung giữ chức Mục thú ở quận Giao Chỉ, bấy giờ có Lương Long nổi loạn đánh phá mấy quận mà Chu Ngung không làm gì được, sau khi Chu Tuấn dẹp tan Lương Long về triều phục chức thì Chu Ngung được phong làm Thứ sử Giao Châu. Tuy nhiên, chẳng bao lâu Chu Ngung bị đồn binh người bản xứ tạo phản giết chết
  117. ^ Chu Tuấn tự Công Vĩ, người Cối Kê. Năm 181, xảy ra cuộc khởi nghĩa Lương Long, triều đình phong Chu Tuấn làm Thứ sử Giao Châu sang đánh dẹp, sau Chu Tuấn khải hoàn được thăng tước Đô Đình hầu
  118. ^ Hậu Hán thư, Chu Tuấn truyện
  119. ^ Tư trị thông giám, quyển 58
  120. ^ Giả Tông tự Mạnh Kiên, người Liêu Thành. Năm 184, Hán Linh Đế phái ông sang thay thế Chu Ngung. Ông giữ chức 3 năm đã vỗ yên trăm họ, mặc dù ở Trung Nguyên lúc đó đang có giặc Khăn Vàng tạo phản, sau được triệu về triều, được Hà Tiến bổ nhiệm làm Thứ sử Ký Châu, bị bệnh mất trên đường tới nhiệm sở
  121. ^ Hậu Hán thư, Giả Tông truyện
  122. ^ Lý Tiến tự Đăng Cao, do nhà Trần bắt ai họ Lý đều phải đổi sang họ Nguyễn nên Đại Việt sử lược chép thành Nguyễn Tiến, người đất Cao Hưng ở Giao Chỉ. Trước làm Công Tào ở quận, sau thăng lên chức Kị đô uý. Tiếp đó đánh tan quan Man ở Kinh châu được phong chức Thái thú Linh Lăng, sau đó điều về thay Giả Tông làm Thứ sử Giao Châu, không rõ sau này thế nào
  123. ^ Bách Việt tiên hiền chí, Lý Tiến truyện
  124. ^ Chu Thặng làm Thứ sử Giao Chỉ bộ thời Hán (chưa rõ đời vua nào), dẹp bọn cường hào ác bá khiến hơn 30 viên tham quan phải mất chức
  125. ^ Kiển Lan làm Thái thú Giao Chỉ thời Hán (chưa rõ đời vua nào)
  126. ^ Lại Tiên làm Thái thú Giao Chỉ thời Hán (chưa rõ đời vua nào), đời nhà Nguyên có quan An Vũ Sứ nội phụ tên Lại Ích Quy là hậu duệ của ông, và ông cũng là thủy tổ dòng họ Lại ở Việt Nam
  127. ^ Hoàng Cái tự Công Phúc, người Linh Lăng. Trước là Thái thú Nam Hải, sau được điều làm Thái thú Nhật Nam, khi mới xuống xe thấy cách đón tiếp không được long trọng nổi giận sai đánh chết người chủ bạ nên dân chúng bạo động đánh đuổi, sau theo Tôn Kiên trở thành công thần khai quốc của Đông Ngô
  128. ^ a b c d e f g h i j Toàn tam quốc văn, quyển 66
  129. ^ Tam quốc chí, Ngô chí - Hoàng Cái truyện
  130. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x y z aa ab ac ad ae af ag ah ai aj ak al am an ao ap aq ar as at au av aw ax ay az ba bb bc bd be bf bg bh bi bj bk bl bm bn bo bp bq br bs bt bu bv bw bx by bz ca cb cc cd ce cf cg ch ci cj ck cl cm cn co cp cq cr cs ct cu cv cw cx cy cz da db dc dd de df dg dh Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, quyển 3
  131. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x y z aa ab ac ad ae af ag ah ai aj ak al am an ao ap aq ar as at au av aw ax ay az ba bb bc bd be bf bg bh bi bj bk bl bm bn bo bp bq br bs bt bu bv bw bx by bz ca cb cc cd ce cf cg ch ci cj ck cl cm Đại Việt sử ký toàn thư, kỷ thuộc Ngô - Tấn - Tống - Tề - Lương
  132. ^ Sĩ Vĩ là em Sĩ Nhiếp, được anh đề bạt mà nhà Hán phong làm Thái thú Cửu Chân, sau ra hàng Đông Ngô bị giáng làm thứ dân, ít lâu sau lại phạm tội mà bị giết
  133. ^ Chu Phù người Cối Kê, do dung túng các thuộc hạ đồng hương như: Ngu Bao, Lưu Nghiệm gây nên chính sự phiền hà nên bị quần chúng nổi dậy đánh đuổi, kết quả chạy bằng đường biển thoát thân nhưng cuối cùng vẫn bị giết
  134. ^ Đông Quán Hán ký, Chu Phù truyện
  135. ^ Hậu Hán thư, Chu Phù truyện
  136. ^ a b Ngu Bao và Lưu Nghiệm (có thuyết chép là Lưu Ngạn) đều là trưởng lại ở Giao Châu, được thứ sử Chu Phù dung túng nên hạch sách nhiễu loạn khiến nhân dân bất bình, sau bị quần chúng nổi dậy đánh đuổi
  137. ^ a b An Nam chí lược, quyển 5
  138. ^ Trương Tân tự Tử Vân, người Nam Dương. Sau khi Chu Phù bị giết, Tào Tháo nhân danh Hán Hiến Đế cử Tân sang làm Thứ sử Giao Chỉ bộ. Đến năm 203, Tân cùng Sĩ Nhiếp dâng biểu xin lập Giao Chỉ bộ thành Giao Châu. Tân rất cuồng tín thích việc quỷ thần nên mất lòng dân, thường gây hấn với Kinh châu mục Lưu Biểu, sau bị bộ tướng là Khu Cảnh giết chết
  139. ^ a b Tấn thư, Địa lý chí hạ - Giao châu
  140. ^ Giao Quảng ký, Giao châu - Trương Tân
  141. ^ Giao Quảng nhị châu xuân thu, Giao châu - Trương Tân
  142. ^ Nghệ văn loại tụ, Châu bộ - Giao châu
  143. ^ Khu Cảnh là bộ tướng của Trương Tân, sau bất hoà nên nổi loạn giết chủ, không rõ kết cục của người này
  144. ^ Tam quốc chí, Ngô chí - Tôn Sách truyện
  145. ^ a b Di Liêu và Tiền Bác là bộ tướng của Trương Tân, sau khi Bộ Chất đến đã tìm cách trừ khử hai người này, ổn định tình hình Giao Châu
  146. ^ Lại Cung người Linh Lăng, được Kinh Châu mục là Lưu Biểu phái sang làm Thứ sử Giao Châu sau cái chết của Trương Tân, lúc đó nhà Hán đã bỏ Giao Châu mà nhập vào Kinh Châu. Gặp lúc, Thái thú Thương Ngô là Sử Hoàng vừa chết, Lưu Biểu phái Ngô Cự sang thay thế cùng đi một lượt. Trên đường đi, 2 người bất hòa, Lại Cung bị Ngô Cự phát binh đánh đuổi khi chưa kịp đến trị sở, ông chạy về huyện Linh Lăng theo Lưu Bị, cuối cùng giữ chức Thái thường cho nhà Thục Hán
  147. ^ Tam quốc chí, Thục chí - Tiên chủ truyện
  148. ^ Ky Vô Hạp người Cối Kê, được Lưu Biểu phái sang làm Thứ sử Giao Châu thay Lại Cung
  149. ^ Hậu Hán thư, Lưu Biểu truyện
  150. ^ Hấn Tông được Lưu Bị cử sang coi việc ở Giao Châu, có sách chép Tông làm Thứ sử Giao Châu nhà Tấn
  151. ^ Đam Manh làm Thái thú Cửu Chân, trên tiệc rượu của bố vợ là Chu Kinh có mời quan Công tào Phan Hâm múa. Hâm mời Chu Kinh múa cùng, do Chu Kinh không chịu mà vẫn cứ ép nên Đam Manh tức giận hạ lệnh đánh chết Hâm. Sau em Phan Hâm là Phan Miêu tạo phản, giết Đam Manh trả thù cho anh, Thái thú Giao Chỉ là Sĩ Nhiếp từng đem quân sang trấn áp nhưng không trừ được hết mầm họa
  152. ^ a b c Tam quốc chí, Ngô chí - Tiết Tông truyện
  153. ^ Chu Kinh là bố vợ Thái thú Đam Manh quận Cửu Chân, nhân một bữa tiệc của con rể do có mâu thuẫn với quan Công tào Phan Hâm khiến Đam Manh sát hại Phan Hâm, từ đó gây ra cuộc hỗn loạn ở quận Cửu Chân
  154. ^ Phan Hâm làm Công Tào quận Cửu Chân, bởi kết oán với Thái thú Đam Manh mà bị trượng hình đập chết, tuy nhiên em là Phan Miêu cũng trả thù được cho anh
  155. ^ Phan Miêu là em Phan Hâm, sau khi anh bị Thái Thú Đam Manh sát hại đã nổi loại đánh vào trị sở quận Cửu Chân trả thù cho anh
  156. ^ Chu Trị tự Quân Lý, người Đan Dương. Được Tôn Quyền dâng biểu cử làm Phò Nghĩa tướng quân, giữ chức Thái thú Cửu Chân, đánh yên bọn mọi rợ. Sau khi Tôn Quyền làm Ngô vương phong Chu Trị làm Bì Lăng hầu, tiếp đến thăng làm An Quốc tướng quân
  157. ^ Tam quốc chí, Ngô chí - Chu Trị truyện
  158. ^ Bộ Chất tự Tử Sơn, người Hoài Âm. Cuối thời Đông Hán tị nạn qua Giang Đông làm chức Trung lang tướng, có công giết Ngô Cự được Tôn Quyền thăng làm Thứ sử Giao Châu. Sau này đánh bại Lưu Bị và dẹp yên phiến loạn được thăng quan tiến tước, cuối đời về triều làm đến chức Thừa tướng nhà Đông Ngô
  159. ^ Tam quốc chí, Ngô chí - Bộ Chất truyện
  160. ^ Sĩ Nhiếp tự Ngạn Uy, người Thương Ngô. Trước là huyện lệnh Vu Dương, sau đổi làm Thái thú Giao Chỉ. Cuối thời Đông Hán tuy loạn lạc nhưng vẫn theo lệ triều cống, giữ vững bờ cõi Giao Chỉ suốt 40 năm. Được thăng làm Tuy Nam trung lang tướng trông coi 7 quận, do lập công ở Cửu Chân nên gia phong An Viễn tướng quân, tước Đô Đình hầu. Đến khi Tôn Quyền cử Bộ Chất sang làm Thứ sử Giao Châu, Sĩ Nhiếp quy thuận sai con là Sĩ Ngẩm sang Đông Ngô làm con tin, do đó các con cháu khác ở Giao Chỉ đều được phong Trung lang tướng
  161. ^ a b c d e f g h Tam quốc chí, Ngô chí - Sĩ Nhiếp truyện
  162. ^ Sĩ Huy là con Sĩ Nhiếp, được Tôn Quyền phong làm Thái thú Cửu Chân, nhưng Huy không chịu tiếp nhận Đái Lương và Trần Thời do Tôn Quyền cử sang làm Thứ sử Giao Châu và Thái thú Giao Chỉ mà tự mình đảm nhận chức đó đồng thời chia quân chống giữ. Sau lợi dụng Giao Chỉ lục đục nội bộ, Thứ sử Quảng Châu là Lã Đại thừa cơ tấn công, Sĩ Huy ra hàng nhưng vẫn bị hành quyết
  163. ^ Trương Mân là thuộc lại của Sĩ Nhiếp, An Nam chí lược chép là Trương Dục, từng được cử sang triều đình nộp cống vua Hán
  164. ^ Trình Bỉnh tự Đức Xu, người Nhữ Nam. Cuối thời Đông Hán loạn lạc nên lánh nạn qua Giao Chỉ được Sĩ Nhiếp phong chức Trưởng sử, sau Tôn Quyền mời về kinh thăng làm Thái tử Thái phó
  165. ^ Tam quốc chí, Ngô chí - Trình Bỉnh truyện
  166. ^ a b An Nam chí lược, quyển 10
  167. ^ Hoàn Lân là thuộc lại của Sĩ Nhiếp, bởi khuyên can Sĩ Huy nên đón Đái Lương mà bị Huy đánh chết. Sau đó, anh Lân là Hoàn Trị phối hợp với con Lân là Hoàn Phát họp quân trong nội tộc đánh Sĩ Huy nhưng không được, kết quả 2 bên bãi binh giảng hòa
  168. ^ Hoàn Trị là anh Hoàn Lân, sau khi em bị Sĩ Huy giết đã nổi dậy báo thù nhưng không được. Sau lại phối hợp với Cam Lễ đánh nhau với Lã Đại, kết quả bị Đại dẹp tan, không rõ sau này thế nào
  169. ^ Hoàn Phát là con Hoàn Lân, phối hợp với bác là Hoàn Trị hưng binh báo thù cha nhưng không thắng được Sĩ Huy đành cấp nhận giảng hòa, không rõ kết cục thế nào
  170. ^ Sĩ Khuông là con Sĩ Nhiếp (Cương mục chép là con Sĩ Nhất, cháu gọi Sĩ Nhiếp bằng bác), giữ chức trung lang tướng. Khuyên Sĩ Huy hàng Đông Ngô, sau đó bị giáng làm thứ dân, chẳng bao lâu thì ốm chết
  171. ^ a b c Sĩ Chi, Sĩ Cán và Sĩ Tụng đều là con Sĩ Nhiếp. Do Sĩ Nhiếp thuần phục Đông Ngô nên đều được phong Trung lang tướng, sau tất cả cùng theo Sĩ Huy ra hàng Lã Đại nên mà bị xử trảm
  172. ^ Đái Lương tự Thúc Loan, người Nhữ Nam. Sau khi Sĩ Nhiếp chết, Tôn Quyền chia đất Giao Châu lấy từ quận Giao Chỉ trở về Nam, phong Đái Lương làm Thứ sử. Đái Lương cùng Trần Thời là Thái thú Giao Chỉ sang nhậm chức nhưng đều bị Sĩ Huy đem binh chống giữ, Lương và Thời buộc phải lưu lại Hợp Phố
  173. ^ Hậu Hán thư, Dật dân truyện
  174. ^ Trần Thời được Tôn Quyền cử sang thay Sĩ Nhiếp làm Thái thú Giao Chỉ, tuy nhiên Sĩ Huy đem quân ra ngăn chặn không cho vào địa phận
  175. ^ Cam Lễ là bộ tướng của Sĩ Huy, sau khi Huy chết, Lễ cùng Hoàn Trị lãnh đạo các quan lại và nhân dân nổi dậy chống Lã Đại, kết quả bị Đại đánh tan
  176. ^ Lã Đại tự Đinh Công, người đất Hải Lăng thuộc Quảng Lăng. Trước là Thái thú Lư Lăng, được Tôn Quyền cử sang Giao Châu thay Bộ Chất làm Thứ sử. Khi Sĩ Nhiếp chết, Tôn Quyền tách khu vực phía Giao Châu thành Quảng Châu giao cho Đại làm Thứ sử, phần phía Nam giao cho Đái Lương làm Thứ sử. Tuy nhiên, Đái Lương bị Sĩ Huy cự tuyệt. Đại dẹp yên được Sĩ Huy, Tôn Quyền lại bỏ Quảng Châu mà để Giao Châu như cũ và để Đại giữ vị trí Giao châu mục. Lã Đại được phong Trấn Nam tướng quân, phong tước Phiên Ngung hầu (có sách ghi là Ngụy quận Lăng lệ công) do liên tiếp lập nhiều công trạng nên cuối đời về triều làm đến chức Đại tư mã
  177. ^ Năm 231, có người Mán Ngũ Khê ở Vũ Lăng làm loạn, Tôn Quyền định triệu Lã Đại về đánh nhưng Thái thú Hợp Phố là Tiết Tông dâng biểu can ngăn nên vẫn để Lã Đại làm Giao châu mục, không rõ ông giữ chức vụ này đến năm nào
  178. ^ Tam quốc chí, Ngô chí - Lã Đại truyện
  179. ^ Tư trị thông giám, quyển 70-77
  180. ^ Lý Khôi tự Đức Ngang, người huyện Du Nguyên quận Kiến Ninh. Trước theo Lưu Chương, sau về với nhà Thục Hán. Khi Lai Hàng đô đốc là Đặng Phương mất, Hán Chiêu Liệt Đế giao cho Khôi kiêm luôn cả chức vụ đó lẫn Giao Châu thứ sử. Khi Tôn Quyền chính thức xưng đế, với chính sách thân ngô của Thừa tướng Gia Cát Lượng, Hán Hoài Đế công nhận Giao Châu thuộc về Ngô nên bãi chức của Khôi. Khôi được dời sang làm Thái thú Kiến Ninh, tước Hán Hưng đình hầu được 2 năm thì mất, con là Lý Di kế tự.
  181. ^ Tam quốc chí, Thục chí - Lý Khôi truyện
  182. ^ a b c d e f g h Hoa Dương quốc chí, Nam Trung chí
  183. ^ Tiết Tông (Cương mục chép là Tiết Tống) tự Kính Văn, là cha Tiết Hủ, người Ấp Trúc thuộc quận Bái. Trước là Thái thú Hợp Phố, sau cùng Lã Đại trừ khử được anh em Sĩ Huy được gia phong làm Thái thú Giao Chỉ.
  184. ^ Năm 231, Tiết Tông dâng biểu lên Ngô Đại Đế về vấn đề Giao Châu, sau ông được gia phong làm Thái thú Giao Chỉ nhưng không thấy sử sách ghi rõ thụ phong và giữ chức vụ này đến năm nào
  185. ^ Ngô Mạc không rõ tiểu sử, giữ chức Thái thú Giao Chỉ thời Ngô Đại Đế Tôn Quyền
  186. ^ a b c d e f g h i Lương thư, Chư di truyện - Hải nam chư quốc
  187. ^ Lục Dận tự Kính Tông (An Nam chí lược chép là Lục Duệ tự Cung Tông, Đại Việt sử lược chép là Lục Doãn, có sách chép là Lục Thương), người đất Ngô quận, giữ chức Ngự sử. Năm 248, ở Giao Châu có anh em Triệu Quốc ĐạtTriệu Thị Trinh làm loạn, Ngô Đại Đế phong Lục Dận làm Thứ sử Giao châu phát binh sang bình định. Dận dẹp xong loạn vỗ về dân chúng rất được lòng người được kiêm thêm chức An Nam hiệu uý, sau này về triều thăng làm Tây Lăng đốc rồi Hổ Lâm đốc
  188. ^ Năm 258, Lục Dận được phong tước Đô Đình hầu, sử sách không ghi rõ ông mãn nhiệm Thứ sử Giao châu năm nào
  189. ^ Tam quốc chí - Ngô chí, Lục Khải truyện - phụ Lục Dận truyện
  190. ^ a b Thái bình hoàn vũ ký, Nam Việt chí
  191. ^ Giao Châu ký, Nam Việt chí
  192. ^ Cốc Lãng tự Phụng Tiên, người Quế Dương, giữ chức Thái thú Cửu Chân thời Đông Ngô nhưng chưa rõ giai đoạn nào
  193. ^ Kỳ Vô Hậu giữ chức Thứ sử Giao Châu nhà Đông Ngô, không rõ tại nhiệm đời vua nào
  194. ^ Đào Cơ người Mạt Lăng thuộc Đan Dương, là cha Đào Hoàng (có thuyết lại nói là ông nội Đào Hoàng), giữ chức Thứ sử Giao Châu thời Đông Ngô, tuy nhiên chưa xác định được trong giai đoạn nào
  195. ^ a b c d e f g h i j k l m n Tấn thư, Đào Hoàng truyện
  196. ^ Tôn Tư làm Thái thú Giao Chỉ, do tham bạo nên nhà Ngô cử quan Sát Chiến Đặng Tuân sang giám sát, tuy nhiên Đặng Tuân cũng chẳng hơn gì nên bị quần chúng nổi dậy giết luôn cả
  197. ^ Không rõ Tôn Tư nhậm chức năm nào, An Nam chí lược chép rằng trong niên hiệu Vĩnh An đời Ngô Cảnh Đế, vậy nên lấy đó làm mốc
  198. ^ a b c d e f g h Kiến Khang thực lục, Ngô thực lục - Ngô Tấn Giao Chỉ chi tranh
  199. ^ Đặng Tuân giữ chức Sát chiến, bởi nhà Ngô thấy Tôn Tư bạo ngược nên phái sang Giao châu xem xét tình hình, nhưng Đặng Tuân lại tự tiện đưa ba chục con chim công sang Kiến nghiệp. Dân chúng sợ xa xôi nên không đi, họ tụ tập cùng với chức lại trong quận là Lữ Hưng giết cả Tôn Tư lẫn Đặng Tuân
  200. ^ a b Tam quốc chí, Ngụy chí - Trần Lưu vương bản kỷ
  201. ^ Lã Hưng (Đại Việt sử lược chép là Ngô Hưng) vốn là quận lại ở Giao Chỉ, do bất mãn với Tôn Tư và Đặng Tuân nên lãnh đạo nhân dân nổi dậy cướp chính quyền rồi theo về hàng nhà Ngụy. Ngụy Nguyên Đế phong Lữ Hưng làm An Nam tướng quân đô đốc Giao Châu chư quân sự, nhưng quân Ngụy chưa kịp sang tiếp ứng thì Hưng đã bị quan Công Tào là Lý Thống sát hại
  202. ^ Lý Thống giữ chức Công Tào ở quận Giao Chỉ, sau khi Lã Hưng giết Tôn Tư và Đặng Tuân đã đầu hàng Ngụy, nhưng quân Ngụy chưa sang đến nơi thì Thống đã dấy binh giết chết Hưng, không rõ kết cục của Thống thế nào
  203. ^ Trần Tập người Lâm Hoài, làm Quan mục Giao châu. Sau vụ Tôn Tư và Đặng Tuân bị giết, nhà Ngô lại chia 4 châu ở phía bắc thành Quảng Châu như trước, phong Trần Tập làm Thứ sử Giao châu mới, dời quận lỵ sang Long Biên
  204. ^ Hoắc Dặc (Đại Việt sử lược chép là Hoắc Qua) tự Thiệu Tiên, vốn làm quan nhà Thục Hán, sau giữ chức Nam Trung tướng quân của nhà Ngụy, được Ngụy Nguyên Đế phong làm Thứ sử Giao Châu nhưng vẫn giữ đất Nam Trung. Khi Lã Hưng bị Lý Thống giết, Hoặc Dặc kéo binh sang dẹp loạn được phong Liệt hầu
  205. ^ Tam quốc chí, Thục chí - Hoắc Dặc truyện
  206. ^ Thoán Cốc, tức Soán Cốc (có sách chép là Phàn Cốc), người Kiến Ninh, vốn là Thủ lĩnh của Thoán thị. Được Hoắc Dặc tiến cử làm Thái thú Giao Chỉ, đem binh sang Giao Chỉ giúp Lã Hưng, trên đường đi thì bệnh chết
  207. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x y z aa ab ac ad ae af ag ah ai aj ak al am an ao ap aq ar as at au av aw ax ay az ba bb bc bd be bf bg bh bi bj bk bl bm bn bo bp bq br An Nam chí lược, quyển 8
  208. ^ Tư trị thông giám, quyển 78
  209. ^ Mã Dung người Ba Tây, con trai của Mã Trung, được Tấn Vũ Đế cử sang thay thế Thoán Cốc, tuy nhiên chưa bao lâu thì Mã Dung cũng ốm chết
  210. ^ Dương Tắc người Kiền Vi, được Hoắc Dặc đề cử thay thế Mã Dung làm Thái thú Giao Chỉ, lập nhiều công trong việc chống phá quân Ngô tái chiếm Giao Châu lên được thăng làm Thứ sử. Tuy nhiên, Tắc chưa kịp lĩnh ấn Thứ sử đã thất bại bị bắt bởi tay Đào Hoàng, trên đường giải sang nước Ngô thì mắc bệnh qua đời ở Hợp Phố
  211. ^ Sau vụ Lã Hưng hàng Ngụy, nhà Ngô cử Lưu Tuấn làm Thứ sử Giao Châu cùng Tu Tắc và Cố Dung đem quân sang tái chiếm. Tuy nhiên, giao chiến 3 lần quân Ngô đều thất bại, Tuấn bị Mao Quýnh chém chết
  212. ^ Tu Tắc là cha Tu Doãn và Tu Trạm, giữ chức Thái đô đốc (có sách chép là Đại đô đốc hoặc Bộ đốc), cùng Lưu Tuấn 3 lần cử binh sang tái chiếm Giao Châu nhưng thất bại nặng nề, bị Dương Tắc chém chết
  213. ^ a b c Tấn thư, Vương Lượng truyện
  214. ^ Cố Dung là võ tướng nước Ngô, đồng tộc với Cố Ung cùng với Lưu Tuấn và Tu Tắc 3 lần sang Giao Châu đánh quân Tấn nhưng thất bại. Lưu Tuấn và Tu Tắc tử trận, Dung dẫn binh lui về Hợp Phố, sau này làm đến chức Thứ sử Kinh Châu
  215. ^ a b c d e Tam quốc chí, Ngô chí - Tôn Hạo truyện
  216. ^ a b c Tấn thư, Vũ Đế bản kỷ
  217. ^ Đổng Nguyên người Kiến Ninh, vốn là Nha môn tướng của Hoắc Dặc nhà Thục Hán, trước từng cùng Vương Tố đem binh sang giúp Lã Hưng nhưng chưa đến nơi thì Hưng đã bị giết. Sau đó, Nguyên cùng Dương Tắc hợp binh đánh bại quân Ngô tái chiếm Giao Châu nên được đề bạt làm Thái thú Cửu Chân, cuối cùng bị Đào Hoàng phục kích giết chết trong 1 trận đánh úp
  218. ^ Mao Cảnh (Thông giám chép là Mao Cảnh, Toàn thư chép là Mao Linh, Cương mục chép là Mao Quế, có sách khác chép là Mao Miện) người Kiến Ninh, là bộ tướng của Hoắc Dặc nhà Thục Hán và nhà Tấn (có thuyết nói là Thái thú Giao Chỉ nhà Thục Hán), từ đất Thục kéo binh sang Giao Chỉ chém chết tướng Ngô là Lưu Tuấn nên được đề bạt làm Thái thú Uất Lâm. Khi Quýnh cùng Dương Tắc đánh bại quân Ngô được gia phong làm Thái thú Giao Chỉ, tuy nhiên Quýnh cũng như Dương Tắc chưa kịp lĩnh ấn thì bị Đào Hoàng đánh bại giết chết
  219. ^ Vương Tố người Ích Châu, cũng là Nha môn tướng của Hoắc Dặc nhà Thục Hán, An Nam chí lược chép là Vương Nghiệp. Trước cùng Đổng Nguyên đem binh qua Giao Châu giúp Lã Hưng, sau cái chết của Đổng Nguyên được Dương Tắc cất nhắc lên thay thế. Tố cũng bị Đào Hoàng đánh bại cùng Dương Tắc và Mao Quýnh, không thấy sử sách nhắc đến kết cục của người này
  220. ^ Giải Hệ là bộ tướng của Đổng Nguyên, bị Đào Hoàng lập mẹo sai em là Giải Tượng viết thư khuyên anh hàng Ngô sai cả thị vệ trống dong cờ mở đi theo hộ vệ, Vương Tố nghi ngờ Hệ ăn ở 2 lòng nên giết chết
  221. ^ Giải Tượng là bộ tướng của Đào Hoàng, được Hoàng cử sang du thuyết anh ruột đang làm tướng nhà Tấn là Giải Hệ đầu hàng, vì việc này mà Giải Hệ bị sát hại
  222. ^ a b Lý Tùng và Thoán Năng (tức Soán Năng) đều là bộ tướng của Dương Tắc, từng theo Mao Quýnh sang Giao Châu đánh tan Thứ sử Lưu Tuấn của nước Ngô. Sau thất bại bị Đào Hoàng bắt sang Kiến Nghiệp rồi giết chết, các con đều được phong tước Quan nội hầu
  223. ^ Mạnh Cán cũng là bộ tướng của Hoắc Dặc nhà Thục Hán và Tây Tấn, từng theo Mao Quýnh sang Giao Châu đánh tan Thứ sử Lưu Tuấn của nước Ngô. Sau thua Đào Hoàng cũng bị bắt sang Kiến Nghiệp nhưng trốn thoát được về Tấn, bày mưu cho nhà Tấn kế hoạch đánh nước Ngô nên được dùng làm Thái thú Nhật Nam, không rõ tại nhiệm năm nào
  224. ^ Mạnh Thông là Nha môn tướng của Dương Tắc, cũng theo bọn Mao Quýnh từ đất Thục đánh sang Giao Châu đánh bại Lưu Tuấn, sử sách không chép rõ kết cục của người này
  225. ^ Lý Tộ giữ chức Công Tào ở quận Cửu Chân, sau khi Đào Hoàng đánh bại Dương Tắc đã đóng cửa thành cố thủ không chịu hàng. Hoàng sai cậu của Tộ là Lê Minh sang dụ nhưng Tộ không nghe, Hoàng phải cố sức đánh mãi mới phá được, không rõ kết cục thế nào
  226. ^ Lê Minh (có sách chép là Lê Hoàn) là bộ tướng của Đào Hoàng, được Hoàng phái đi dụ người cháu gọi bằng cậu là Lý Tộ hàng Ngô nhưng không thành công
  227. ^ Ngu Phiếm tự Thế Hồng, con Ngu Phiên. Trước làm Giám quân Sứ giả, được nhà Ngô điều động đánh sang Giao Chỉ, bắt giết các tướng do nhà Tấn phái sang để tái chiếm các quận Cửu Chân, quận Nhật Nam. Nhân thành công đó Phiếm được thăng chức Thứ sử Giao Châu, phong tước là Dư Diêu hầu, ít lâu sau thì mắc bệnh chết
  228. ^ Tiết Hủ là con Tiết Tông, trước giữ chức Ngũ quan Trung lang tướng cho nhà Thục Hán, cùng Ngu Phiếm và Đào Hoàng được nhà Ngô cử sang tái chiếm Giao Châu. Trận đầu Đào Hoàng bị Dương Tắc đánh bại bị Hủ trách móc, nhưng sau đó Hoàng tiêu diệt được bọn Dương Tắc nên Hủ phải xin lỗi, không rõ tình hình người này về sau thế nào
  229. ^ Hán Tấn xuân thu, quyển 1
  230. ^ a b Lý Húc (An Nam chí lược chép là Lý Miễn, Toàn thư chép là Lý Đỉnh) và Từ Tồn được nhà Ngô phái đi theo đường biển hội quân ở Hợp Phố nhằm tái chiếm Giao Châu, hai viên quan này thấy không tiện lợi đã sát hại tướng dẫn đường là Phùng Thỉ rồi kéo quân về. Vua Ngô tức giận hạ lệnh tử hình vì tội giết uổng tướng lĩnh và tự tiện lui binh
  231. ^ Phùng Thỉ được nhà Ngô sai dẫn đường cho Lý Húc và Từ Tồn đi theo đường biển Kiến An sang tái chiếm Giao Châu, nửa đường Thỉ bị bọn Lý Húc sát hại
  232. ^ Lương Kỳ (An Nam chí lược chép là Lương Kỳ Chi, Toàn thư sách chép là Lương Tề) là võ tướng ở Phù Nghiêm, được Đào Hoàng biếu rất nhiều của cải vật chất, Kỳ đem hơn 1 vạn quân kéo đến giúp Hoàng đánh bại bọn Dương Tắc nhà Tấn
  233. ^ Đào Hoàng tự Thế Anh, người Đan Dương, con của Đào Cơ. Trước làm Thái thú Thương Ngô, sau vụ Dương Tắc giết Lưu Tuấn được vua Ngô sai sang tái chiếm Giao Châu. Lúc đầu thất bại chết mất 2 tướng (không rõ tên) bị Tiết Hủ quở trách, Hoàng lập mưu đánh úp phá được Đổng Nguyên nên được Hủ phong làm Tiền bộ Đô đốc Giao Châu. Tiếp đó, Hoàng lập mưu trừ được dũng tướng Giải Hệ và xin được viện binh ở Phù Nghiêm từ Lương Kỳ nên đã hạ được Dương Tắc, vua Ngô phong làm Thứ sử Giao Châu. Hoàng đưa binh đi đánh dẹp lập thêm 3 quận mới gồm: Vũ Bình, Cửu Đức, Tân Xương. Ít lâu sau, Nhà Ngô triệu Hoàng về phong làm Đô đốc Vũ Xương, cử Tu Doãn sang thay thế, nhưng dân địa phương tập trung hàng ngàn người đến nhiệm sở xin cho Hoàng lưu lại Giao Châu. Đến khi nhà Ngô bị tiêu diệt thì Hoàng nghe lời vua Ngô mà quy thuận nhà Tấn, vẫn được trấn giữ Giao Châu. Nhà Tấn phong Hoàng tước hiệu Uyển Lăng hầu, chức vụ Quán quân tướng quân, khi chết người trong châu đều thương khóc
  234. ^ Đào Dung (Tấn thư chép thành Mã Tức Dung, Thông giám sửa thành Đào Dung) là con Đào Hoàng, được vua Ngô sai mang chiếu thư sang Giao Châu khuyên nhủ cha về hàng nhà Tấn
  235. ^ Tư trị Thông giám, quyển 81
  236. ^ Tu Doãn (Toàn thư chép là Tu Nguyên) là con Tu Tắc, trước làm Thái thú Hợp Phố, sau được nhà Ngô điều động thay thế Đào Hoàng làm Thứ sử Giao Châu. Tuy nhiên, người dân ở đây quý mến Đào Hoàng nên chẳng bao lâu vua Ngô lại cho Hoàng về, không rõ Tu Doãn giữ chức vụ trong năm nào và được bao lâu
  237. ^ Thạch Sùng tự Quý Luân, hiệu Tề Nô, người Thanh Châu. Trước làm Thái thú Dương Thành, lập công trong việc bình Đông Ngô nên được phong An Dương hầu, thăng chức Kinh Châu thứ sử kiêm Nam man Hiệu uý Giao Chỉ thái phòng sứ. Sau chuyển sang làm Thái bộc và Vệ Uý, đến đời Tấn Huệ Đế bị Tôn Tú hãm hại mà chết
  238. ^ Tấn thư, Thạch Bào truyện, phụ Thạch Sùng truyện
  239. ^ Tư trị thông giám, quyển 83
  240. ^ Thế thuyết tân ngữ, quyển 30
  241. ^ Ngô Ngạn (Cương mục chép là Ngô Nghiện) tự Sĩ Tắc, người huyện Ngô thuộc quận Ngô. Trước làm Thái thú Kiến Bình nhà Đông Ngô, sau về với Tây Tấn giữ chức Kim Thành thái thú, cải nhiệm Đôn Hoàng thái thú rồi Nhạn Môn thái thú. Tiếp đó về triều làm Thuận Dương nội sử và Ngoại lang Tán kị thường thị, sang Giao Châu làm Nam Trung đô đốc. Sau khi Đào Hoàng chết, thú binh ở Cửu Chân là Triệu Chỉ tạo phản, Ngạn dẹp yên vụ đó nên được thăng làm Thứ sử Giao Châu. Về già, Ngạn tự dâng biểu xin để người khác thay thế mình, triều đình trưng ông về làm Đại trường thu, mất khi đang tại chức
  242. ^ Tấn thư, Ngô Ngạn truyện
  243. ^ Cố Bí tự Công Trực, con của tướng quân Cố Khải nhà Đông Ngô. Sau khi Ngô Ngạn từ chức, Bí được Tấn Nguyên Đế cử sang thay thế. Bí là người ôn hòa được dân chúng yêu mến, nhưng cầm quyền chưa được bao lâu thì mất, không rõ năm nào
  244. ^ Cố Sâm (Toàn thư chép là Cố Tham) là con Cố Bí, sau khi cha chết bị nhân dân cưỡng ép thay thế quản lý mọi việc trong châu, tuy nhiên Tham cũng chỉ giữ chức được ít bữa thì mất
  245. ^ Cố Thọ là em Cố Sâm, sau khi anh chết tự ý lãnh chức nhưng quần chúng không chịu. Thọ giết quan trưởng sử là Hồ Triệu, định giết cả đốc quân Lương Thạc. Thạc trốn thoát, dấy binh tạo phản giết chết Thọ
  246. ^ Hồ Triệu giữ chức trưởng sử ở Giao Châu, do phản đối việc Cố Thọ tự xưng Thứ sử mà bị Thọ sát hại
  247. ^ Lương Thạc vốn là đốc quân dưới quyền Cố Thọ, do cùng Hồ Triệu không chấp nhận việc Thọ tự lãnh chức Thứ sử nên bị Thọ truy sát. Thạc tạo phản chạy đến quận Tân Xương tự lập làm Thái thú, tiếp đến dấy binh giết chết Thọ, kiêm luôn chức Thái thú Giao Chỉ. Bởi Thạc sợ dân tình không thuận nên đón Thái thú Thương Ngô là Đào Oai về tôn làm Thứ sử Giao Châu, sau này Thạc bị Tham quân của Đào Khản là Cao Bảo chém chết
  248. ^ Vương Đôn tự Xử Trọng, người Lâm Nghi thuộc Lang Da. Trước từng làm Phò mã Đô uý, sau lập công rước Tấn Huệ Đế phục vị mà thăng làm Tán kị thường thị giữ vị trí Trấn đông đại tướng quân. Khi Tấn Nguyên Đế mới đến Giang Nam do nhờ Đôn giúp sức nên nhà Tấn mới trung hưng, Đôn được trao cờ tiết đốc xuất quân sự của 6 châu phương Nam: Giang, Hoài, Kinh, Tương, Giao, Quảng. Sau Đôn ốm chết trong lúc dấy binh tạo phản, tuy nhiên dư đảng của ông vẫn công phá kinh thành gây ra cuộc loạn lạc đẫm máu
  249. ^ Tấn thư, Nguyên Đế kỷ và Vương Đôn truyện
  250. ^ Tư trị thông giám, quyển 83-93
  251. ^ Thế thuyết tân ngữ, Thái xỉ thiên
  252. ^ Đào Khản tự Sĩ Hành, người Phan Dương. Trước làm Thái thú Giang Hạ kiêm Long Nhương tướng quân, sau làm Thứ sử Quảng Châu. Do lập công trong việc dẹp yên loạn Vương Cơ nên được kiêm Đô đốc mọi việc quân sự ở Giao Châu, tiếp đó lại diệt Lương Thạc nên gia phong chức Thứ sử Giao Châu với tước hiệu Chinh nam đại tướng quân. Sau khi Vương Đôn chết, Đào Khản dời sang làm đô đốc quân sự 4 châu: Kinh, Ung, Ích, Lương đồng thời lĩnh thêm Nam Man hiệu úy kiêm Chinh Tây đại tướng quân
  253. ^ a b Tấn thư, Đào Khản truyện
  254. ^ Tư trị thông giám, quyển 85-95
  255. ^ Thế thuyết tân ngữ, quyển 19
  256. ^ Đào Oai (tức Đào Uy, có sách chép là Đào Thành. lại có sách ghi là Đào Hàm) là con Đào Hoàng, trước làm Thái thú Thương Ngô, được Lương Thạc rước về lãnh chức Thứ sử Giao Châu, rất được lòng dân
  257. ^ Đào Thục là em Đào Uy, sau khi anh chết nối tiếp chức vụ
  258. ^ Đào Tuy là con Đào Oai, Đại Việt sử lược chép là con Đào Thục, nối tiếp cha (hoặc chú) cai quản Giao Châu
  259. ^ Vương Cơ tự Lệnh Minh, người Trường Sa, từng làm Thứ sử Quảng Châu. Nhân Lương Thạc làm loạn ở Giao Châu, Vương Đôn đổi Cơ làm Thứ sử Giao Châu. Cơ đến Giao Châu nhưng Lương Thạc lại chậm ra đón, Cơ giận nói nếu đến châu sẽ trị tội Thạc, Thạc biết được nhân đó đem quân chống trả. Sau nhiều phen chiến sự giằng co bất phân thắng bại, Vương Cơ cùng với phản tướng đất Thục là Đỗ Hoằng dấy binh chống lại triều đình, kết cục bị Đào Khản đánh bại bỏ chạy rồi chết dọc đường, Đào Khản hạ lệnh đào mộ quật thây đem chém
  260. ^ Đỗ Hoằng (An Nam chí lược chép thành Đỗ Hồng) là phản tướng ở đất Thục, được Vương Cơ chiêu dụ mà đầu hàng. Sau Hoằng đi đánh giặc ở Quế Lâm trên đường về gặp Vương Cơ đang giằng co với Lương Thạc, Hoằng xui Cơ tạo phản. Cơ giao phù tiết nhường chức Thứ sử cho Hoằng, không thấy thư tịch nào chép sau khi Vương Cơ bị Đào Khản đánh bại thì kết cục của Đỗ Hoằng thế nào
  261. ^ Đỗ Tán là quan Tư Mã ở Giao Chỉ, do Lương Thạc không chịu đón Thứ sử Vương Cơ nên dấy binh chống lại Thạc nhưng bị Thạc đánh tan, không rõ kết cục người này thế nào
  262. ^ Lưu Trầm (An Nam chí lược chép thành Lưu Thẩm) là Tú tài ở Giao Châu, theo Vương Cơ và Đỗ Hoằng tạo phản, sau bị Đào Khản đánh bại bắt sống và xử tử
  263. ^ Ôn Thiệu vốn là bộ tướng ở Quảng Châu, trước từng tạo phản chống lại Thứ sử Quách Nột để đón Vương Cơ. Sau Cơ được Vương Đôn điều sang làm Thứ sử Giao Châu thì Thiệu đi theo, tiếp đó cùng nhau dấy binh chống đối triều đình mà bị Đào Khản đánh bại giết chết
  264. ^ Tu Trạm là con thứ Đại đô đốc Tu Tắc nhà Đông Ngô, em Tu Doãn. Khi Lương Thạc làm loạn ở Giao Châu từng rước Tu Trạm về làm Thứ sử để chống lại Vương Cơ, Vương Cơ cùng Đỗ Hoằng tạo phản, nhà Tấn cử Vương Lượng sang thay thế, Trạm lui về Cửu Chân tự xưng Thái thú. Thứ sử Quảng Châu là Đào Khản sang đánh dẹp khuyên nhủ Trạm ra hàng, Trạm đến nơi bị Vương Lượng chém chết
  265. ^ Vương Lượng tự Ấu Thành, được Vương Đôn điều sang Giao Châu thay cho Vương Cơ. Gặp lúc Đào Khản khuyên hàng được Tu Trạm, Lượng sang đến nơi không nghe lời Lương Thạc mà giết Tu Trạm, Thạc giận dữ ám sát Lượng bất thành đem quân vây hãm Long Biên. Đô đốc Đào Khản tiếp ứng nhưng không kịp, Lượng bị Thạc bắt không chịu hàng nên bị chém đứt cánh tay trái, 10 ngày sau thì chết
  266. ^ Cao Bảo vốn là Tham quân dưới trướng Đào Khản, từng lập công lớn chém chết phản tướng Lương Thạc. Thứ sử Giao Châu mới là Nguyễn Phóng sang nhậm chức gặp Bảo ở Ninh Phố định bày mưu sát hại, Bảo phát giác xua binh tập kích trước khiến Phóng phải bỏ chạy, không thấy sử sách ghi lại kết cục của người này
  267. ^ Nguyễn Phóng (An Nam chí lược chép thành Nguyên Phóng) tự Tư Độ, vốn là Lại bộ Thị lang. Nhờ thế lực của Dũ thị nên được Tấn Minh Đế cho sang thay Đào Khản làm Thứ sử Giao Châu, khi đến Ninh Phố gặp ngay Cao Bảo. Phóng có âm mưu ám sát Bảo bị Bảo phát hiện hành động trước, Phóng chạy thoát về đến nhiệm sở thì khát quá mà chết (có thuyết lại nói Phóng bị bệnh bất thình lình đột tử), được truy tặng chức Đình uý
  268. ^ Biện Triền làm Thái thú Giao Chỉ đời nhà Tấn, tuy nhiên chưa tra cứu tại nhiệm giai đoạn nào
  269. ^ Chử Đào tự Quí Nhã, làm Thái thú Cửu Chân đời nhà Tấn, tuy nhiên chưa tra cứu tại nhiệm giai đoạn nào
  270. ^ Trương Liễn tự Quân Khí, làm Thứ sử Giao Châu. Chẳng bao lâu nổi loạn ở đất Như Cụ tiến đánh Quảng Châu bị Tăng Khối dẹp yên, không rõ kết cục thế nào. Vương Húc chép rằng: "Liễn làm Thứ Sử Giao Châu được phong Cao hầu, đi đường ngang qua núi Cư-Sơn, thấy phong thổ lấy làm vừa ý, bèn lập chỗ ở tại đó"
  271. ^ a b Tấn thư, Thành Đế bản kỷ
  272. ^ Tăng Khối chưa rõ tiểu sử, khi Trương Liễn tạo phản đã cầm quân đánh tan
  273. ^ Hạ Hầu lãm giữ chức trong niên hiệu Vĩnh Hòa, do say rượu quá độ gây rối loạn công việc. Vua Lâm Ấp là Phạm Văn đem quân tấn công giết chết Lãm, chiếm lĩnh luôn quận Nhật Nam
  274. ^ a b c d e f Tấn thư, Mục Đế bản kỷ
  275. ^ Trong thời kỳ Chu Phiên làm Thứ sử có vua Lâm Ấp là Phạm Văn đem binh sang xâm phạm chiếm cứ quận Nhật Nam, Phiên sai quan đốc hộ là Lưu Hùng đánh dẹp bị thất bại nặng nề
  276. ^ Lưu Hùng là quan Đốc Hộ ở Giao Châu, được Thứ sử Chu Phiên sai đi đánh dẹp Lâm Ấp nhưng bị thua nặng, quân lính chết đến 8 - 9 phần, không rõ kết cục ra sao
  277. ^ Đằng Tuấn thay thế Lưu Hùng làm quan Đốc Hộ ở Giao Châu, lúc đầu đem quân của cả hai châu Giao Quảng đánh Lâm Ấp cũng thất bại. Sau phối hợp với Thứ sử mới của Giao Châu là Dương Bình mới đánh bại được Lâm Ấp, hai bên ký hoà ước rồi cùng lui binh
  278. ^ Dương Bình làm Thứ sử Giao Châu thay Chu Phiên, cùng quan Đốc Hộ là Đằng Tuấn đánh bại quân Lâm Ấp, vua nước ấy là Phạm Phật Tử phải chịu thua và chấp nhận ký hòa ước
  279. ^ Nguyễn Phu làm Thứ sử Giao Châu chưa bao lâu thì người Lâm Ấp lại kéo sang cướp phá, Phu đem binh đi đánh phá được 50 đồn lũy rồi rút về
  280. ^ Châu Phụ là người thời Tiền Tần, được vua Phù Kiên cử sang làm Thứ sử Giao Châu, trực tiếp tranh chấp vùng này với nhà Đông Tấn, không rõ kết cục thế nào
  281. ^ Thập lục quốc Xuân Thu, quyển 4 Tiền Tần lục - Phù Kiên truyện
  282. ^ Ôn Phóng Chi là con Ôn Kiệu, tự Hoằng Tổ, người huyện Kỳ, quận Thái Nguyên, Tịnh Châu. Trước làm chức Hoàng Môn thị lang, sau đổi sang làm Thứ sử Giao Châu. Bấy giờ Thái thú Giao Chỉ là Đỗ Bảo và quan Biệt Giá là Nguyễn Lãng không đồng ý việc chinh phạt Lâm Ấp nên bị Phóng Chi sát hại, sau đó Phóng Chi đem binh đánh tan Lâm Ấp khiến vua nước ấy là Phạm Phật phải đầu hàng. Cuối cùng, Phóng Chi ốm chết khi đang tại chức
  283. ^ a b c Tấn thư, Ôn Kiệu truyện - phụ Ôn Phóng Chi truyện
  284. ^ Thế thuyết tân ngữ, quyển 27
  285. ^ a b c Tư trị thông giám, quyển 94
  286. ^ Đỗ Bảo (tức Đỗ Bửu) làm Thái thú Giao Chỉ, bị Thứ sử Giao Châu là Ôn Phóng Chi sát hại do không đồng tình việc chinh phạt Lâm Ấp
  287. ^ Nguyễn Lãng giữ chức Biệt Giá ở Giao Châu, bị Thứ sử Ôn Phóng Chi giết chết cùng với Thái thú Giao Chỉ Đỗ Bảo
  288. ^ Khi Đằng Hàm làm Thứ sử Giao Châu, quân Lâm Ấp lại vào cướp phá, Hàm cất quân dẹp yên được
  289. ^ Tấn thư, Ai Đế bản kỷ
  290. ^ Cát Hồng tự là Trĩ Xuyên, hiệu là Bão Phác Tử (đời gọi là Tiểu Tiên Ông) là hào tộc ở Giang Nam. Vì ưa luyện thuốc trường sinh để thêm thọ, lại nghe đất Giao Châu có vị thuốc đan sa, bèn xin làm chức lệnh huyện Câu Lậu, chưa rõ đời vua nào
  291. ^ Tấn thư, Cát Hồng truyện
  292. ^ Làm Thứ sử Giao Châu đời nhà Tấn, chưa tra cứu được vào thời vua nào
  293. ^ Phó Vĩnh là con Phó Nha, làm Thái thú Giao Chỉ đời nhà Tấn, chưa rõ trong giai đoạn nào
  294. ^ Đằng Tốn là con Đằng Tu, làm Thứ sử Giao Châu đời nhà Tấn, chưa rõ trong giai đoạn nào
  295. ^ Lý Tốn (tức Nguyễn Tốn) làm Thái thú Cửu Chân, mấy cha con đều khoẻ mạnh có uy quyền lớn lan cả khắp Giao Châu. Khi nghe tin triều đình cử Đặng Độn Chi sang làm Thứ sử Giao Châu, Tốn sai hai con tập hợp binh lực trấn giữ những nơi hiểm yếu về đường thủy và đường bộ, dựng nên chính quyền cát cứ. Sau Thái thú Giao Chỉ là Đỗ Viện kéo quân đánh dẹp, giết chết
  296. ^ a b c d e f Tống thư, Lương lại truyện - Đỗ Viện
  297. ^ a b c d e f Nam sử, Lương lại truyện - Đỗ Viện
  298. ^ Đặng Độn Chỉ (Việt sử lược chép là Đằng Đôn Chi) được nhà Tấn cử sang Giao Châu làm Thứ sử, bị cha con Lý Tốn ngăn chặn. Thái thú Giao Chỉ là Đỗ Viện đánh bại được Lý Tốn, rước Chi vào trông coi việc châu, được hơn 10 năm thì được triệu về kinh nhận nhiệm vụ mới
  299. ^ Đỗ Viện tự Đức Ngôn, người huyện Chu Diên ở Giao Chỉ (có sách khác lại nói Viện vốn người Kinh Triệu, ông là Nguyên làm Thái thú Hợp Phố, nhân đó Viện mới đến ở Giao Chỉ), trước làm Thái thú Giao Chỉ, sau dẹp loạn Lý Tốn nên gia phong Long Nhương tướng quân. Năm 399, Viện kéo binh sang phá tan quân Lâm Ấp lập công lớn, được lĩnh ấn Thứ sử Giao Châu, mất khi đang tại nhiệm
  300. ^ Bách Việt tiên hiền chí, Đỗ Viện truyện
  301. ^ Giao Chỉ chí, Đỗ Viện truyện
  302. ^ Quế Nguyên làm Thái thú Nhật Nam, bị vua Lâm Ấp là Phạm Hồ Đạt đánh bại, bắt sống, không rõ kết cục thế nào
  303. ^ Tào Bính làm Thái thú Cửu Đức, bị vua Lâm Ấp là Phạm Hồ Đạt đánh bại, bắt sống, không rõ kết cục thế nào
  304. ^ Đặng Dật là quan Đốc Hộ ở Giao Châu, cùng Thái thú Giao Chỉ là Đỗ Viện xuất quân đánh bại nước Lâm Ấp
  305. ^ Đỗ Tuệ Độ (Toàn thư và Cương mục đều chép là Đỗ Huệ Độ) là con Đỗ Viện, sinh tại Chu Xương - Giao Chỉ. Trước là Thái thú Cửu Chân, sau khi cha mất, quan lại trong châu đều nhất trí tôn Viện lên thay thế, nhà Tấn cho phép ông nối tiếp giữ chức Thứ sử Giao Châu. Ông cùng 2 em là Đỗ Huệ Kỳ và Đỗ Chương Dân hợp sức đánh tan cuộc phản loạn của Lư Tuần, sau đó còn đem binh sang Lâm Ấp ép nước này phải quy hàng. Nhà Tống thay thế nhà Tấn, Độ được phong làm Phụ quốc tướng quân, sau khi mất được truy phong chức Tả tướng quân
  306. ^ a b Tấn thư, Lư Tuần truyện
  307. ^ a b Tống thư, Lương lại truyện - Đỗ Tuệ Độ
  308. ^ a b Nam sử, Đỗ Tuệ Độ truyện
  309. ^ Bách Việt tiên hiền chí, Đỗ Tuệ Độ truyện
  310. ^ Đỗ Huệ Kỳ là em Đỗ Tuệ Độ, giữ chức Thái thú Giao Chỉ, cùng anh lập công to trong việc triệt phá Lư Tuần, không rõ về sau thế nào
  311. ^ Đỗ Chương Dân cũng là em Đỗ Tuệ Độ, giữ chức Thái thú Cửu Chân, cùng anh lập công to trong việc triệt phá Lư Tuần, không rõ về sau thế nào
  312. ^ Lư Tuần tự Tiên Vu, tên lúc nhỏ là Nguyên Long, người huyện Trác, Phạm Dương. Thời Sở từng làm Thái thú Vĩnh Gia, sau đó được Lưu Dụ nhiệm mệnh phong làm Thứ sử Quảng Châu. Khi Lưu Dụ tiến hành bắc phạt, Lư Tuần nổi dậy tiến đến kinh đô Kiến Khang của nhà Đông Tấn. Lưu Dụ quay binh về đánh, Tuần thua to chạy xuống cướp phá Giao Châu phối hợp cùng dư đảng của Lý Tốn là Lý Thoát, sau bị Đỗ Tuệ Độ đánh tan nên đâm đầu xuống nước mà chết, Độ cho vớt xác lên chém đầu thị chúng
  313. ^ Tấn thư, An Đế bản kỷ
  314. ^ Tống thư, Vũ Đế bản kỷ
  315. ^ Tư trị thông giám, quyển 112-116
  316. ^ Lý Thoát vốn là bộ tướng của Lý Tốn, khi Lý Tốn bị Đỗ Viện đánh tan đã rút về nơi sơn dã ẩn cư. Lúc Lư Tuần chạy sang Giao Châu làm loạn, Thoát tập hợp được hơn 5000 người hưởng ứng. Sau cùng, anh em Đỗ Tuệ Độ dẹp yên Lư Tuần thì Thoát cũng thất bại, bị đem ra chém đầu
  317. ^ Chân Tri là con vua Lâm Ấp Phạm Hồ Đạt, dẫn quân sang cướp phá quận Cửu Chân của Giao Châu, bị Đỗ Tuệ Độ chém chết
  318. ^ Phạm Kiện là võ tướng của Lâm Ấp, cùng Chân Tri đem binh tấn công Cửu Chân và cũng tử chiến nơi sa trường
  319. ^ Na Năng là con của Phạm Kiện nước Lâm Ấp, theo cha đánh sang Giao Châu, bị Đỗ Tuệ Độ bắt sống, không rõ kết cục thế nào
  320. ^ Giang Du giữ chức Trưởng sử, sau khi Đỗ Tuệ Độ đánh bại được Lâm Ấp đã cử ông này đi kinh đô Kiến Khang báo tin thắng trận, không rõ kết cục thế nào
  321. ^ Đỗ Hoằng Văn là con Đỗ Tuệ Độ, trước giữ chức Ưng dương tướng quân, Lưu dân đốc hộ tham gia bắc phạt diệt Hậu Tần. Khi Hoằng Văn tới Quảng Châu thì nhà Tấn đã diệt được Hậu Tần bèn quay về, được Tuệ Độ cho làm Thái thú Cửu Chân. Năm 423, nhà Tống lấy Hoằng Văn làm Chấn Uy tướng quân thay thế cha làm Thứ sử Giao Châu, tập tước Long Biên hầu. Đến năm 427, nhà Tống cử Vương Huy Chi sang thay thế, triệu Hoằng Văn về triều làm Đình uý đúng lúc ông đang ốm nặng. Có người khuyên để khỏi bệnh hãy đi nhưng Văn không nghe, kết quả chết ở Quảng Châu
  322. ^ Tống thư, Lương lại truyện - Đỗ Hoằng Văn
  323. ^ Nam sử, Đỗ Hoằng Văn truyện
  324. ^ Bách Việt tiên hiền chí, Đỗ Hoằng Văn truyện
  325. ^ Tống thư, quyển 38: châu quận 4
  326. ^ Nam Tề thư, quyển 14: Châu quận thượng
  327. ^ Tống thư, Vũ nhị vương truyện: Bành Thành vương Nghĩa Khang
  328. ^ Nam sử, Tống tông thất cập chư vương truyện thượng: Lưu Nghĩa Khang
  329. ^ Tấn thư, Di man truyện
  330. ^ a b c d e Tống thư, Nam di truyện
  331. ^ Nam Tề thư, Lâm Ấp truyện
  332. ^ Nam sử, Di mạch truyện
  333. ^ Tư trị thông giám, các quyển: 124, 125 và 127
  334. ^ Tống thư, Tông Xác truyện
  335. ^ Nam sử, Tông Xác truyện
  336. ^ Tống thư, Ngô Hỷ truyện
  337. ^ Nam sử, Ngô Hỷ truyện
  338. ^ a b Lịch sử quân sự Việt Nam, Bắc thuộc lần 2: kỷ thuộc Tống
  339. ^ Tống thư, Tông Phụng Bá truyện
  340. ^ Nam sử, Tông Phụng Bá truyện
  341. ^ Nam Tề thư, quyển 2
  342. ^ Nam sử, Hoàn Hộ truyện
  343. ^ a b Nam Tề thư, Đông Nam di truyện
  344. ^ Lương thư, Tiêu Tư truyện
  345. ^ a b c d e f g h i j k Đại Việt sử ký toàn thư, kỷ nhà Tiền Lý
  346. ^ a b c d e f g h i j k l m n Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, quyển 4
  347. ^ a b c d e f g Việt Nam sử lược, chương 4: nhà Tiền Lý
  348. ^ a b c d Nam sử, Trần bản kỷ thượng: Vũ Đế
  349. ^ a b c Trần thư, Cao Tổ bản kỷ
  350. ^ a b Tư trị thông giám, quyển 167: Trần kỷ nhất
  351. ^ Nam sử, quyển 64
  352. ^ a b c d e Trần thư, Âu Dương Ngỗi truyện
  353. ^ Nam sử, Lan Khâm truyện
  354. ^ Nam sử, liệt truyện quyển 62 - Văn học truyện
  355. ^ a b c Trần thư, quyển 34 - Nguyễn Trác truyện
  356. ^ Viện Sử học (2001), sách đã dẫn, trang 351
  357. ^ Nguyễn Khắc Thuần, sách đã dẫn, trang 22 - dẫn theo Tân Đường thư của Âu Dương TuTống Kỳ
  358. ^ a b c d e f g h Tùy thư quyển 53, liệt truyện 18 – Lưu Phương truyện
  359. ^ a b c d e f g h Bắc sử quyển 73, liệt truyện 61 – Lưu Phương truyện
  360. ^ a b c d e f g h i j Đại Việt sử ký toàn thư, kỷ thuộc Tuỳ Đường
  361. ^ Cựu Đường thư, quyển 81 - liệt truyện 27
  362. ^ a b Tân Đường thư, quyển 90 - liệt truyện 15
  363. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x y z aa ab ac ad ae af An Nam chí lược, quyển 9
  364. ^ Cựu Đường thư, Thái Tông bản kỷ
  365. ^ Tân Đường thư, Thái Tông bản kỷ
  366. ^ Cựu Đường thư, liệt truyện quyển 30 - Chử Toại Lương truyện
  367. ^ Tân Đường thư, liệt truyện quyển 30 - Chử Toại Lương truyện
  368. ^ Tân Đường thu, liệt truyện quyển 32: Hoạn giả thượng - Dương Tư Húc truyện
  369. ^ Cựu Đường thư, liệt truyện quyển 34 - Dương Tư Húc truyện
  370. ^ a b c Việt sử tiêu án, quyển 5 - kỷ ngoại thuộc Tuỳ Đường
  371. ^ Tục Nhật Bản kỷ, quyển 13
  372. ^ Cựu Đường thư, Triều Hoành truyện
  373. ^ Tân Đường thư, Triều Haàn truyện
  374. ^ Cựu Ngũ Đại sử, Nam Hán thế gia
  375. ^ Tân Ngũ Đại sử, Nam Hán thế gia
  376. ^ Đại Việt sử kỷ ngoại kỷ toàn thư, kỷ nam bắc phân tranh
  377. ^ Thập quốc xuân thu, quyển 58
  378. ^ Lịch sử Việt Nam từ cội nguồn đến thế kỷ X
  379. ^ Minh sử, Liễu Thăng truyện
  380. ^ a b c d Khâm đinh Việt sử Thông giám Cương mục, quyển 13
  381. ^ Minh sử, Phùng Quý truyện
  382. ^ Minh sử, Trần Hiệp truyện
  383. ^ Minh sử, Trần Trung truyện
  384. ^ Minh sử, Ngũ Vân truyện
  385. ^ Minh sử, Thái Phúc truyện
  386. ^ Minh sử, Thôi Tụ truyện
  387. ^ Minh sử, Lý Nhiệm truyện
  388. ^ Cầm Bành là người Giao Châu, hồi giữa niên hiệu Vĩnh Lạc (1403-1424), do tri phủ Nghệ An, quyền giữ công việc châu Trà Long. Lê Lợi cướp châu Trà Long, trải qua bảy tháng, trong thành cạn lương, châu Trà Long bèn bị hạ; tri châu Cầm Bành chết theo thành
  389. ^ Đại Việt thông sử, quyển 1 - đế kỷ 1
  390. ^ Minh sử, An Nam truyện
  391. ^ Đại Việt sử ký toàn thư, quyển 10
  392. ^ Lam Sơn thực lục, quyển 1
  393. ^ Cầm Quý người bản xứ huyện Ngọc Ma, tổ tiên nối đời làm thổ tù, khi nhà Minh sang phong chức tri phủ, sau theo về với quân Lam Sơn
  394. ^ Mãn Sát là tù trưởng Ai Lao, đem 3 vạn quân tới đánh úp quân Lam Sơn. Tuy nhiên Bình Định Vương Lê Lợi rất bình tĩnh đã chống phá được cuộc tấn công này, tiêu diệt hơn 1 vạn tên địch
  395. ^ Tống sử, quyển 488 liệt truyện 247 - Ngoại quốc 4: Giao Chỉ
  396. ^ Tống sử, quyển 254 liệt truyện 13 - Hầu Ích
  397. ^ a b c d e f Tống sử, Tô Giam truyện
  398. ^ Tục tư trị thống giám, quyển 71
  399. ^ a b c d Đại Việt sử ký toàn thư, bản kỷ quyển 3
  400. ^ Tống sử, Quách Quỳ truyện
  401. ^ Tống sử, Triệu Tiết truyện
  402. ^ Tục tư trị thông giám, quyển 67-79

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

Thư tịch Trung Quốc[sửa | sửa mã nguồn]

Thư tịch Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]