Bước tới nội dung

Danh sách quân chủ Sardegna

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Huy hiệu của Vương quốc Sardegna từ thế kỷ 14

Sardegna ban đầu được cai trị bởi nền văn minh Nuragic, theo sau đó là cuộc xâm lược của Hy Lạp, bị người Carthage chinh phục và bị người La Mã chiếm đóng trong khoảng một nghìn năm, bao gồm cả thời kỳ cai trị của người Vandal vào thế kỷ thứ 5 và thế kỷ thứ 6 SCN. Trước khi Vương quốc Sardegna được thành lập, Sardegna được các judices (pháp quan) cai trị, và một số nhà cai trị được Hoàng đế La Mã Thần thánh phong tước hiệu Vua của Sardegna dù không có thực quyền.

Tước hiệu Rex Sardiniae et Corsicae (Vua của Sardegna và Corse) được thiết lập lần đầu tiên vào năm 1297, khi Giáo hoàng Bônifaciô VIII trao quyền thừa kế cho Chaime II của Aragón. Vương quyền Aragón bắt đầu cai trị Sardegna vào năm 1323. Cho đến năm 1479, khi Ferrando II của Aragón công nhận Corse là một phần của Cộng hòa Genova, những nhà cai trị Sardegna vẫn sử dụng tước hiệu Rex Corsicae (Vua của Corse). Corse trên thực tế nằm dưới sự cai trị của Genova kể từ năm 1284 và Vương quốc Sardegna và Corse được rút gọn tên thành Vương quốc Sardegna vào năm 1460, khi được hợp nhất thành một dạng liên bang các quốc gia, mỗi quốc gia có các thể chế riêng, được gọi là Vương quyền Aragón và chỉ thống nhất dưới quyền của nhà vua.

Các quốc vương của Vương quốc Sardegna và Corse từ năm 1323 và sau đó là Vương quốc Sardegna từ năm 1479 đến năm 1861 bao gồm Nhà Barcelona (1323–1410) và Nhà Trastámara (1412–1516), nhánh Tây Ban Nha của Nhà Habsburg (1516–1700) và Nhà Borbón (1700–1708), và nhánh Áo của Nhà Habsburg (1708–1720). Năm 1720, Vương quốc Sardegna được nhượng lại cho Nhà Savoia, cai trị Sardegna–Piedmont cho đến năm 1861 khi được đổi tên thành Vương quốc Ý (1861–1946). Trong suốt thời gian tồn tại từ năm 1297 đến năm 1861, có 24 vị vua từ bảy triều đại khác nhau đã trị vì vương quốc.

Lịch sử ban đầu

[sửa | sửa mã nguồn]

Do không có nguồn tài liệu nên rất ít thông tin về lịch sử của nền văn minh Nuraghic được biết đến, nền văn minh đã xây dựng nên những công trình đá lớn ấn tượng từ thế kỷ 18 đến thế kỷ 12 TCN. Những ghi chép đầu tiên về Sardegna có nguồn gốc từ Hy Lạp nhưng liên quan nhiều đến thần thoại hơn là lịch sử thực tế. Một anh hùng người Châu Phi hoặc Iberia tên là Norax đã đặt tên cho thành phố là Nora. Sardo, con trai của Hercules, đã đặt tên cho hòn đảo, và một trong những người cháu trai là Iolaus đã lập nên thành phố Olbia.[1] Việc người Hy Lạp xâm chiếm thành phố Olbia đã được xác nhận bằng các cuộc khai quật khảo cổ học gần đây.[2] Vào cuối thế kỷ thứ 6 TCN, Sardegna bị người Carthage chinh phạt, và vào năm 238 TCN, nơi đây đã bị người La Mã chiếm đóng trong khoảng 1000 năm, với một thời gian nằm dưới sự thống trị của người Vandal vào thế kỷ thứ 5 và thế kỷ thứ 6 SCN.

Nhà cai trị đầu thời trung cổ

[sửa | sửa mã nguồn]

Theo Procopius,[3] Godas là một thống đốc người Vandal của Sardegna đã nổi loạn chống lại nhà vua là Gelimer, người cai trị miền bắc châu Phi, Sardegna và Corse. Procopius viết rằng Godas đã cai trị như một vị vua nhưng đó là một vương quốc tồn tại trong thời gian ngắn.[4] Godas bị đánh bại và giết chết sau hai năm bởi một đoàn viễn chinh từ Carthage do anh trai của vua GelimerTzazo chỉ huy. Không lâu sau đó, quân đội La Mã do Hoàng đế Justinianus phái đến và tướng Belisarius chỉ huy đã tiêu diệt hoàn toàn vương quốc Vandal và Sardegna quay trở lại dưới sự quản lý của Đế quốc La Mã.

Pháp quan

[sửa | sửa mã nguồn]

Trước khi Vương quốc Sardegna được thành lập, những người cai trị hòn đảo được gọi là archon (ἄρχοντες trong tiếng Hy Lạp) hoặc "pháp quan" (iudices trong tiếng Latinh, judices trong tiếng Sardegna, giudici trong tiếng Ý).[5][6] Hòn đảo được tổ chức thành một "judicatus" từ thế kỷ thứ 9. Sau khi người Hồi giáo chinh phục Sicilia vào thế kỷ thứ 9, người Byzantine (cai trị Sardegna) không còn bảo vệ được tỉnh xa xôi hẻo lánh ở phía tây. Rất có thể một gia đình quý tộc địa phương đã lên nắm quyền, vẫn tự coi là chư hầu của người Byzantine nhưng trên thực tế là cai trị độc lập vì việc giao tiếp với Constantinople rất khó khăn. Trong số những nhà cai trị, chỉ có hai cái tên được biết đến là Salusios (Σαλούσιος) và protospatharios Turcoturios (Tουρκοτούριος),[7][8][9] người có lẽ đã trị vì vào một thời điểm trong thế kỷ 10 và thế kỷ 11. Họ vẫn có mối liên hệ chặt chẽ với Byzantine, cả về hiệp ước chư hầu cổ đại [10] và về mặt văn hóa, với việc sử dụng tiếng Hy Lạp (ở một quốc gia có ngôn ngữ Rôman) và nghệ thuật Byzantine. Vào đầu thế kỷ 11, người Hồi giáo tại Tây Ban Nha cố gắng chinh phục hòn đảo.[11] Những ghi chép duy nhất về cuộc chiến là từ biên niên sử Pisa và Genova.[12] Phe Thiên chúa giáo giành được chiến thắng, nhưng sau đó vương quốc Sardegna bị chia thành bốn judicati nhỏ: Cagliari (Calari), Arborea (Arbaree), Gallura, Torres hoặc Logudoro. Một số nhà cai trị đã lấy danh hiệu vua (rex):

Vua trên danh nghĩa

[sửa | sửa mã nguồn]

Một số nhà cai trị được nhận danh hiệu Vua của Sardegna (Rex Sardiniae) nhờ sự ban tặng của Hoàng đế La Mã Thần thánh, mặc dù hoàng đế không có bất kỳ quyền lực nào đối với vương quốc, khiến đây chỉ là tước vị không có thực quyền đối với Sardegna:[13]

Tên Chân dung Sinh Hôn nhân Mất

Barisone II
1164–1165
Oristano Pellegrina xứ Lacon
4 con
Agalbursa xứ Cervera
1186
Oristano hoặc Pisa

Enzo
1238–1249
k. 1218
Cremona
Con trai ngoài giá thú của Friedrich II của Thánh chế La Mã
Adelasia xứ Torres 14 tháng 3 năm 1272
Bologna

Filippo
1269–1277
1255/56
Con trai của Charles I xứ AnjouBéatrice xứ Provence
Isabella I xứ Villehardouin 1277
Bari
Thọ 21 tuổi

Vua Sardegna và Corse

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1297, Chaime II của Aragón được Giáo hoàng Bônifaciô VIII phong làm vua và được phong tước hiệu Vua của Sardegna và Corse (Rex Sardiniae et Corsicae). Tuy nhiên, Aragón không chiếm được hòn đảo Sardegna cho đến năm 1323, sau một chiến dịch quân sự thắng lợi chống lại người Pisa. Tước hiệu hoàng gia Sardegna không có dòng kế vị cụ thể và tất cả các vị vua đều sử dụng tước hiệu chính của riêng mình. Vương quốc ban đầu được gọi là Regnum Sardiniae et Corsicae (Vương quốc Sardegna và Corse) và được đổi tên thành Regnum Sardiniae (Vương quốc Sardegna) vào năm 1460, vì cái tên ban đầu đã bao gồm cả đảo Corse, nơi thực sự được cai trị bởi Genova kể từ năm 1284 cho đến khi được Ferrando II của Aragón công nhận là phần lãnh thổ của Genova. Ferrando II đã bỏ đi phần tên Corse vào năm 1479. Kể từ đó, tiền xu được đúc kể từ khi thành lập vương quốc cũng chỉ ghi chú về Sardegna.[14] Từ năm 1297 đến năm 1861, có 24 vị vua qua bảy triều đại đã cai trị vương quốc.

Vương tộc Barcelona (Aragón), 1323–1410

[sửa | sửa mã nguồn]
Tên Chân dung Sinh Hôn nhân Mất

Giacomo I
1323–1327
10 tháng 8 năm 1267
Valencia
Con trai của Pedro ICustanza II của Sicilia
Isabel của Castilla
1 tháng 12 năm 1291
Không có con cái
Bianca xứ Anjou
29 tháng 10 năm 1295
10 con
Marie de Lusignan
15 tháng 6 năm 1315
Không có con cái
Elisenda de Montcada
25 tháng 12 năm 1322
Không có con cái
5 tháng 11 năm 1327
Barcelona
Thọ 60 tuổi

Alfonso I
1327–1336
Alifonso I 1299
Napoli
Con trai của Chaime II của AragónBianca xứ Anjou
Teresa d'Entença
1314
7 con
Leonor của Castilla
2 con
27 tháng 1 năm 1336
Barcelona
Thọ 37 tuổi

Pietro I
1336–1387
Pedro IV của Aragón 5 tháng 10 năm 1319
Balaguer
Con trai của Alifonso IV của AragónTeresa d'Entença
María của Navarra
1338
2 con
Leonor của Bồ Đào Nha
1347
Không có con cái
Eleonora của Sicilia
27 tháng 8 năm 1349
4 con
5 tháng 1 năm 1387
Barcelona
Thọ 68 tuổi

Giovanni I
1387–1396
Chuan I của Aragón 27 tháng 12 năm 1350
Perpignan
Con trai của Pedro IV của AragónEleonora của Sicilia
Marthe xứ Armagnac
27 tháng 3 năm 1373
1 con
Yolande xứ Bar
1380
3 con
19 tháng 5 năm 1396
Foixà
Thọ 46 tuổi

Martino I
1396–1410
Martín I của Aragón 1356
Girona
Con trai của Pedro IV của Aragón và Eleonora của Sicilia
Maria de Luna
13 tháng 6 năm 1372
4 con
Margalida xứ Prades
17 tháng 9 năm 1409
Không có con cái
31 tháng 5 năm 1410
Barcelona
Thọ 54 tuổi

Vương tộc Trastámara, 1412–1516

[sửa | sửa mã nguồn]
Tên Chân dung Sinh Hôn nhân Mất

Ferdinando I
1412–1416
Ferrando I của Aragón 27 tháng 11 năm 1380
Medina del Campo
Con trai của Juan I của CastillaAlionor của Aragón
Leonor xứ Alburquerque
1394
8 con
2 tháng 4 năm 1416
Igualada
Thọ 36 tuổi

Alfonso II
1416–1458
Alifonso V 1396
Medina del Campo
Con trai của Ferrando I của AragónLeonor xứ Alburquerque
María của Castilla
1415
Không có con cái
27 tháng 6 năm 1458
Napoli
Thọ 52 tuổi

Vua Sardegna

[sửa | sửa mã nguồn]

Vương tộc Trastámara, 1412–1516

[sửa | sửa mã nguồn]
Tên Chân dung Sinh Hôn nhân Mất

Giovanni II
1458–1479
Chuan II của Aragón 29 tháng 6 năm 1398
Medina del Campo
Con trai của Ferrando I của AragónLeonor xứ Alburquerque
Blanca I của Navarra
6 tháng 11 năm 1419
4 con
Juana Enríquez
tháng 4 năm 1444
2 con
20 tháng 1 năm 1479
Barcelona
Thọ 80 tuổi

Ferdinando II
1479–1516
Ferrando II của Aragón 10 tháng 3 năm 1452
Con trai của Chuan II của AragónJuana Enríquez
Isabel I của Castilla
19 tháng 10 năm 1469
5 con
Germaine xứ Foix
1505
Không có con cái
23 tháng 1 năm 1516
Madrigalejo
Thọ 63 tuổi

Giovanna I
1516–1555
Juana I của Castilla 6 tháng 11 năm 1479
Con gái của Ferrando II của AragónIsabel I của Castilla
Philipp IV xứ Bourgogne
1496
6 con
12 tháng 4 năm 1555
Madrigalejo
Thọ 75 tuổi

Dù trên danh nghĩa là đồng trị vị với con trai Karl, tuy nhiên Juana đã bị giam cầm trong suốt thời gian trị vì.

Vương tộc Habsburgo, 1516–1700

[sửa | sửa mã nguồn]
Tên Chân dung Sinh Hôn nhân Mất

Carlo I
Đồng trị vì với Giovanna I
1516–1556
Karl V của Thánh chế La Mã 24 tháng 2 năm 1500
Ghent
Con trai của Felipe I của CastillaJuana I của Castilla
Isabel của Bồ Đào Nha
10 tháng 3 năm 1526
3 con
21 tháng 9 năm 1558
Yuste
Thọ 58 tuổi

Filippo I
1556–1598
Felipe II của Tây Ban Nha 21 tháng 5 năm 1527
Valladolid
Con trai của Carlo IVIsabel của Bồ Đào Nha
Maria Manuela của Bồ Đào Nha
1543
1 con
Mary I của Anh
1554
Không có con cái
Élisabeth của Valois
1559
2 con
Anna của Áo
4 tháng 5 năm 1570
5 con
13 tháng 9 năm 1598
Madrid
Thọ 71 tuổi

Filippo II
1598–1621
Felipe III của Tây Ban Nha 14 tháng 4 năm 1578
Madrid
Con trai của Filippo IAnna của Áo
Margarete của Áo
18 tháng 4 năm 1599
5 con
31 tháng 3 năm 1621
Madrid
Thọ 42 tuổi

Filippo III
1621–1665
Philip III 8 tháng 4 năm 1605
Valladolid
Con trai của Filippo IIMargarete của Áo
Élisabeth của Pháp
1615
7 con
Mariana của Áo
1649
5 con
17 tháng 9 năm 1665
Madrid
Thọ 60 tuổi

Carlo II
1665–1700
Carlos II của Tây Ban Nha 6 tháng 11 năm 1661
Madrid
Con trai của Filippo IIIMariana của Áo
Marie Louise của Orléans
19 tháng 11 năm 1679
Không có con cái
Maria Anna xứ Neuburg
14 tháng 5 năm 1690
Không có con cái
1 tháng 11 năm 1700
Madrid
Thọ 38 tuổi

Vương tộc Borbón 1700–1708

[sửa | sửa mã nguồn]
Tên Chân dung Sinh Hôn nhân Mất

Filippo IV
1700–1708
Felipe V của Tây Ban Nha 19 tháng 12 năm 1683
Versailles
Con trai của Louis của PhápMaria Anna Victoria xứ Bayern
Maria Luisa Gabriella của Savoia
2 tháng 11 năm 1701
4 con
Elisabetta Farnese
24 tháng 12 năm 1714
7 con
9 tháng 7 năm 1746
Madrid
Thọ 62 tuổi

Sardegna bị quân đội Habsburg chiếm đóng vào năm 1708 trong Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha dưới danh nghĩa của người tuyên bố ngai vàng Tây Ban Nha là "Carlos III". Vào cuối cuộc chiến, Sardegna vẫn nằm trong quyền sở hữu của Karl, và theo Hiệp ước Rastatt, vương quốc đã được nhượng lại cho Hoàng đế La Mã Thần thánh.

Vương tộc Habsburg (Nhánh Áo), 1708–1720

[sửa | sửa mã nguồn]
Tên Chân dung Sinh Hôn nhân Mất

Carlo III
1708–1720
Charles VI 1 tháng 10 năm 1685
Viên
Con trai của Leopold I của Thánh chế La MãEleonore Magdalene xứ Neuburg
Elisabeth Christine xứ Braunschweig-Wolfenbüttel
1 tháng 8 năm 1708
4 con
20 tháng 10 năm 1740
Viên
Thọ 55 tuổi

Lực lượng Tây Ban Nha đã xâm lược vương quốc Sardegna vào năm 1717 trong Chiến tranh Liên minh Tứ cường. Hòn đảo Sardegna nằm dưới sự chiếm đóng của quân đội Tây Ban Nha cho đến năm 1720 khi được trao trả lại cho Hoàng đế Karl VI, người sau đó nhượng lại hòn đảo cho Công tước xứ Savoia theo Hiệp ước Den Haag.

Vương tộc Savoia, 1720–1861

[sửa | sửa mã nguồn]

Các quân chủ của vương tộc Savoia cai trị vương quốc từ thủ đô Torino trên đất liền, nhưng chủ yếu tự phong với tước hiệu Vua Sardegna do vị trí cao hơn so với tước hiệu Công tước xứ Savoia. Tuy nhiên, số thứ tự của các vị quân chủ vẫn tiếp tục theo danh sách của vương tộc Savoia.

Tên Chân dung Sinh Hôn nhân Mất

Vittorio Amedeo II của Savoia
17 tháng 2 năm 1720 – 3 tháng 9 năm 1730
Vittorio Amedeo 14 tháng 5 năm 1666
Torino
Con trai của Carlo Emanuele II của SavoiaMarie Jeanne Baptiste của Savoie-Nemours
Anne Marie của Orléans
10 tháng 4 năm 1684
6 con
31 tháng 10 năm 1732
Moncalieri
Thọ 66 tuổi

Carlo Emanuele III của Savoia
3 tháng 9 năm 1730 – 20 tháng 2 năm 1773
Carlo Emanuele III 27 tháng 4 năm 1701
Torino
Con trai của Vittorio Amedeo II của SardegnaAnne Marie của Orléans
Anna Christine xứ Sulzbach
15 tháng 3 năm 1722
1 con
Polyxena xứ Hessen-Rotenburg
20 tháng 8 năm 1724
6 con
Élisabeth Thérèse xứ Lorraine
5 tháng 3 năm 1737
3 con
20 tháng 2 năm 1773
Torino
Thọ 72 tuổi

Vittorio Amedeo III của Savoia
20 tháng 2 năm 1773 – 16 tháng 10 năm 1796
Vittorio Amedeo III 26 tháng 6 năm 1726
Torino
Con trai của Carlo Emanuele III của SardegnaPolyxena xứ Hessen-Rotenburg
María Antonia Fernanda của Tây Ban Nha
31 tháng 5 năm 1750
12 con
16 tháng 10 năm 1796
Moncalieri
Thọ 70 tuổi

Carlo Emanuele IV của Savoia
16 tháng 10 năm 1796 – 4 tháng 6 năm 1802
Carlo Emanuele IV của Sardegna 24 tháng 5 năm 1751
Torino
Con trai của Vittorio Amedeo III của SardegnaMaría Antonia Fernanda của Tây Ban Nha
Marie Clotilde của Pháp
27 tháng 8 năm 1775
Không có con cái
6 tháng 10 năm 1819
Roma
Thọ 68 tuổi

Vittorio Emanuele I của Savoia
4 tháng 6 năm 1802 – 12 tháng 3 năm 1821
Vittorio Emanuele I 24 tháng 7 năm 1759
Torino
Con trai của Vittorio Amedeo III của SardegnaMaría Antonia Fernanda của Tây Ban Nha
Maria Theresia của Áo-Este
21 tháng 4 năm 1789
7 con
10 tháng 1 năm 1824
Moncalieri
Thọ 64 tuổi

Carlo Felice của Savoia
12 tháng 3 năm 1821 – 27 tháng 4 năm 1831
Carlo Felice của Sardegna 6 tháng 4 năm 1765
Torino
Con trai của Vittorio Amedeo III của SardegnaMaría Antonia Fernanda của Tây Ban Nha
Maria Cristina của Napoli và Sicilia
7 tháng 3 năm 1807
Không có con cái
27 tháng 4 năm 1831
Torino
Thọ 66 tuổi

Carlo Alberto của Savoia
27 tháng 4 năm 1831 – 23 tháng 3 năm 1849
Carlo Alberto I của Sardegna 2 tháng 10 năm 1798
Torino
Con trai của Carlo Emanuele, Thân vương xứ CarignanoMaria Christina xứ Sachsen
Maria Theresia của Áo
30 tháng 9 năm 1817
3 con
28 tháng 7 năm 1849
Porto
Thọ 50 tuổi

Vittorio Emanuele II của Savoia
23 tháng 3 năm 1849 – 17 tháng 3 năm 1861
Vittorio Emanuele II 14 tháng 3 năm 1820
Torino
Con trai của Carlo Alberto I của SardegnaMaria Theresia của Áo
Adelheid của Áo
12 tháng 4 năm 1842
8 con
Rosa Vercellana
18 tháng 10 năm 1869
2 con
9 tháng 1 năm 1878
Roma
Thọ 57 tuổi

Năm 1861, sau khi sáp nhập các quốc gia khác trên bán đảo Ý, Quốc hội Vương quốc Sardegna đã thông qua một đạo luật (Legge n. 4671, 17 tháng 3 năm 1861) bổ sung thêm tước hiệu Vua của Ý vào danh hiệu của quốc vương, mặc dù các quốc vương vẫn giữ nguyên tước hiệu Vua của Sardegna. Do đó, Vương quốc Sardegna do nhà Savoia lãnh đạo là quốc gia tiền thân hợp pháp của Vương quốc Ý, và Vương quốc Ý lại là tiền thân của Cộng hòa Ý ngày nay.[15]

Vương tộc Savoia, 1861–1946

[sửa | sửa mã nguồn]
Tên Chân dung Sinh Hôn nhân Mất

Vittorio Emanuele II của Savoia
17 tháng 3 năm 1861 – 9 tháng 1 năm 1878
Vittorio Emanuele II của Ý 14 tháng 3 năm 1820
Torino
Con trai của Carlo Alberto I của SardegnaMaria Theresia của Áo
Adelheid của Áo
12 tháng 4 năm 1842
8 con
Rosa Vercellana
18 tháng 10 năm 1869
2 con
9 tháng 1 năm 1878
Roma
Thọ 57 tuổi

Umberto I của Ý
9 tháng 1 năm 1878 – 29 tháng 7 năm 1900
Umberto I của Ý 14 tháng 3 năm 1844
Torino
Con trai của Vittorio Emanuele II của SavoiaAdelheid của Áo
Margherita của Savoia
21 tháng 4 năm 1868
1 con
29 tháng 7 năm 1900
Monza
Thọ 56 tuổi

Vittorio Emanuele III của Ý
29 tháng 7 năm 1900 – 9 tháng 5 năm 1946
Vittorio Emanuele III của Ý 11 tháng 11 năm 1869
Napoli
Con trai của Umberto I của ÝMargherita của Savoia
Jelena của Montenegro
24 tháng 10 năm 1896
5 con
28 tháng 12 năm 1947
Alexandria
Thọ 78 tuổi

Umberto II của Ý
9 tháng 5 năm 1946 – 12 tháng 6 năm 1946
Umberto II của Ý 15 tháng 9 năm 1904
Racconigi
Con trai của Vittorio Emanuele III của ÝJelena của Montenegro
Marie José của Bỉ
8 tháng 1 năm 1930
4 con
18 tháng 3 năm 1983
Geneva
Thọ 78 tuổi

Vương quốc Ý bị giải thể sau cuộc trưng cầu dân ý về chính thể được tổ chức vào ngày 2 tháng 6 năm 1946, và sau đó Cộng hòa Ý được tuyên bố thành lập.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Perra Mario, 1993, La Sardegna nelle fonti classiche (Sardinia in classical sources), Editrice S'Alvure, Oristano
  2. ^ "Archived copy" (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2016.{{Chú thích web}}: Quản lý CS1: bản lưu trữ là tiêu đề (liên kết)
  3. ^ De bello Gothico, IV 24.
  4. ^ De bello Wandalico.
  5. ^ C. Zedda and R. Pinna (2007), La nascita dei giudicati, proposta per lo scioglimento di un enigma storiografico, Archivio Storico Giuridico Sardo di Sassari, vol. 12. http://www.archiviogiuridico.it/Archivio_12/Zedda_Pinna.pdf Lưu trữ ngày 16 tháng 5 năm 2018 tại Wayback Machine
  6. ^ F. Pinna (2010), "Le testimonianze archeologiche relative ai rapporti tra gli arabi e la Sardegna nel medioevo", Rivista dell'Istituto di storia dell'Europa mediterranea, Consiglio Nazionale delle Ricerche, 4.
  7. ^ 1) Κύριε βοήθε τοῦ δοῦλου σου Tουρκοτουρίου ἅρχωντος Σαρδινίας καί τής δούλης σου Γετιτ 2) Tουρκοτουρίου βασιλικου πρωτοσπαθαρίου και Σαλουσίου των ευγενεστάτων αρχόντων.) R. CORONEO, Scultura mediobizantina in Sardegna, Nuoro, Poliedro, 2000
  8. ^ Antiquitas nostra primum Calarense iudicatum, quod tunc erat caput tocius Sardinie, armis subiugavit, et regem Sardinie Musaitum nomine civitati Ianue captum adduxerunt, quem per episcopum qui tunc Ianue erat, aule sacri palatii in Alamanniam mandaverunt, intimantes regnum illius nuper esse additum ditioni Romani imperii." - Oberti Cancellarii, Annales p 71, Georg Heinrich (a cura di) MGH, Scriptores, Hannoverae, 1863, XVIII, tr. 56-96
  9. ^ Crónica del califa 'Abd ar-Rahmân III an-Nâsir entre los años 912-942,(al-Muqtabis V), édicion. a cura de P. CHALMETA - F. CORRIENTE, Madrid,1979, tr. 365 Tuesday, August 24th 942 (A.D.), a messenger of the Lord of the island of Sardinia appeared at the gate of al-Nasir ... asking for a treaty of peace and friendship. With him were the merchants, people Malfat, known in al-Andalus as from Amalfi, with the whole range of their precious goods, ingots of pure silver, brocades etc. ... transactions which drew gain and great benefits
  10. ^ To the Archont of Sardinia: a bulla with two gold bisolida with this written: from the very Christian Lord to the Archont of Sardinia. (εὶς τὸν ἄρχοντα Σαρδανίας. βούλλα κρυσῆ δισολδία. "κέλευσις ὲκ τῶν φιλοχρίστων δεσποτῶν πρὸς τὸν ἄρχοντα Σαρδανίας".) Reiske, Johann Jakob: Leich, Johannes Heinrich, eds. (1829). Constantini Porphyrogeniti Imperatoris De Ceremoniis Aulae Byzantinae libri duo graece et latini e recensione Io. Iac. Reiskii cum eiusdem commentariis integris. Corpus Scriptorum Historiae Byzantinae 1 (Leipzig (1751-54) ed.). Bonn: Weber. pag. 690
  11. ^ F. CODERA, Mochéid, conquistador de Cerdeña, in Centenario della nascita di Michele Amari. Scritti di filologia e storia araba; geografia, storia, diritto della Sicilia medioevale; studi bizantini e giudaici relativi all’Italia meridionale nel medio evo; documenti sulle relazioni fra gli Stati italiani e il Levante, vol. II, Palermo 1910, tr. 115-33, tr. 124
  12. ^ B. MARAGONIS, Annales pisani a.1004-1175, ed. K. PERTZ, in MGH, Scriptores, 19,Hannoverae, 1861/1963, tr. 236-2 and Gli Annales Pisani di Bernardo Maragone, a cura di M. L.GENTILE, in Rerum Italicarum Scriptores, n.e., VI/2, Bologna 1930, tr. 4-7. 1017. Fuit Mugietus reversus in Sardineam, et cepit civitatem edificare ibi atque homines Sardos vivos in cruce murare. Et tunc Pisani et Ianuenses illuc venere, et ille propter pavorem eorum fugit in Africam. Pisani vero et Ianuenses reversi sunt Turrim, in quo insurrexerunt Ianuenses in Pisanos, et Pisani vicerunt illos et eiecerunt eos de Sardinea
  13. ^ Atzeni, Sergio (2020). I Giudicati Sardi. Storia dei quattro Regni Medievali (bằng tiếng Ý). Youcanprint. tr. 16.
  14. ^ Piras, Enrico (1996). Le monete della Sardegna, dal IV secolo a.C. al 1842 (bằng tiếng Ý). Sassari: Fondazione Banco di Sardegna.
  15. ^ Sandulli, Aldo; Vesperini, Giulio (2011). "L'organizzazione dello Stato unitario" (PDF). Rivista trimestrale di diritto pubblico (bằng tiếng Ý): 48–95. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 2 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2013. [At tr. 94] Dall'indagine sulla legislazione del quadriennio 1861-64, innanzi svolta, trova conferma quanto affermato all'inizio e, cioè, che quello italiano non fu uno Stato nuovo, ma prevalse la continuità con le istituzioni e l'apparato amministrativo sabaudo. Si navigò a vista, senza elaborare un piano di riforme volto a costruire in modo organico e duraturo, preferendo operare per adattamenti e giustapposizioni. È emerso piuttosto chiaramente che si intese assicurare in tempi brevi la costruzione di uno Stato centrale (e periferico) forte, comprimendo gradualmente, soprattutto a seguito dell'emersione della questione meridionale, l'autonomia degli enti locali e i progetti riformatori tendenti al decentramento.

Tài liệu

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Manno, Giuseppe (1999). Storia di Sardegna (bằng tiếng Ý). Quyển II. Nuoro: Ilisso Edizioni. ISBN 88-85098-47-9.
  • Casula, Francesco Cesare (1994). La storia di Sardegna: l'evo moderno e contemporaneo. La Storia di Sardegna (bằng tiếng Ý). Quyển 3. Sassari: Carlo Delfino Editore. ISBN 88-7138-063-0.
  • Pintus, Renato (2005). Sovrani, viceré di Sardegna e governatori di Sassari (bằng tiếng Ý). Sassari: Webber Editore.
  • Brigaglia, Manlio; Mastino, Attilio; Ortu, Gian Giacomo, biên tập (2006). Storia della Sardegna: dalle origini al Settecento (bằng tiếng Ý). Sassari: Editori Laterza. ISBN 88-420-7839-5.
  • Casula, Francesco Cesare (1994). Breve storia di Sardegna (bằng tiếng Ý). Sassari: Carlo Delfino Editore. ISBN 88-7138-065-7.
  • Abulafia, David (2000). "Charles of Anjou reassessed". Journal of Medieval History. 26 (1): 93–114. doi:10.1016/s0304-4181(99)00012-3. ISSN 0304-4181. S2CID 159990935.
  • Dunbabin, Jean (1998). Charles I of Anjou: Power, Kingship and State-Making in Thirteenth-Century Europe. Bloomsbury. ISBN 978-1-13816-162-7.