Daniel Ricciardo

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Daniel Ricciardo
Ricciardo vào năm 2019
SinhDaniel Joseph Ricciardo
1 tháng 7, 1989 (33 tuổi)
Perth, Western Australia
Sự nghiệp Công thức 1
Quốc tịchÚc Úc
Số xe đua3
Số chặng tham gia231
Số chức vô địch0
Tổng số lần chiến thắng8
Tổng số lần lên bục trao giải32
Tổng số điểm trong sự nghiệp1311
Tổng số vị trí pole3
Tổng số vòng đua nhanh nhất16
Chặng đua đầu tiênGiải đua ô tô Công thức 1 Anh 2011
Chiến thắng đầu tiênGiải đua ô tô Công thức 1 Canada 2014
Chiến thắng gần nhất/cuối cùngChặng đua GP Ý 2021
Chặng đua gần nhất/cuối cùngGiải đua ô tô Công thức 1 Abu Dhabi 2022
Kết quả vào năm 2022Hạng 11 (37 điểm)
Trang webTrang web chính thức

Daniel Joseph Ricciardo (sinh ngày 1 tháng 7 năm 1989) là tay đua Công thức 1 người Australia. Ricciardo đã tám chiến thắng chặng đua công thức 1 với 32 podiums. Mùa giải 2023, Ricciardo quay trở về đội đua Red Bull Racing.

Sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Trước công thức 1 (2000-2011)[sửa | sửa mã nguồn]

Bắt đầu trong lĩnh vực đua xe thể thao (2000–2009)[sửa | sửa mã nguồn]

Ricciardo bắt đầu sự nghiệp đua xe thể thao của mình khi mới 9 tuổi ở môn đua xe kart. Năm 2005, anh chuyển sang giải Ford Formula của Úc và có những trải nghiệm đầu tiên trong cuộc đua với xe đua một chỗ. Năm 2006, Ricciardo tham gia giải BMW Công thức Châu Á và về thứ ba chung cuộc với hai chiến thắng. Anh đã về thứ 5 trong Vòng chung kết Công thức BMW Thế giới mà anh ấy đã vượt qua vòng loại. Anh ấy cũng đã tham gia hai cuộc đua Công thức BMW nước Anh. Năm 2007, Ricciardo chuyển đến Châu Âu trong giải đua Công thức Ý Renault, nơi anh đứng thứ sáu chung cuộc. Sau khi anh đã hoàn thành một số cuộc đua trong giải đua Formula Renault 2.0 Eurocup với tư cách là tân binh vào năm 2007, anh ấy đã trở thành người về nhì trong giải đua này vào năm 2008 sau Valtteri Bottas. Mọi thứ thậm chí còn tốt hơn cho Ricciardo trong Công thức Tây Âu Renault, nơi anh đã giành được danh hiệu vô địch trước Roberto Merhi.

Ricciardo đã tự giới thiệu bản thân với thành tích lái buồng lái tại Giải vô địch Công thức 3 nước Anh mà anh đã giành được vào năm 2009 tại đội đua Carlin Motorsport. Với ba chiến thắng trong bốn cuộc đua đầu tiên, Ricciardo đã sớm giành được vị trí dẫn đầu trong chức vô địch. Ricciardo là người Úc đầu tiên kể từ David Brabham giành được danh hiệu vô địch danh giá trong loạt trận này. Cũng giống như Brabham, Ricciardo đã giành được danh hiệu với động cơ Volkswagen. Sau đó, Ricciardo được thăng chức bởi Red Bull.

Công thức Renault 3.5 và Công thức 1 ra mắt với HRT (2010–2011)[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 2010, Ricciardo chuyển sang giải đua Tech 1 Racing ở giải đua Formula Renault 3.5 nơi anh trở thành đồng đội của Brendon Hartley. Sau khi giành được vị trí pole và cán đích trên bục podium trong cuộc đua đầu tiên của mình, anh đã giành được chiến thắng đầu tiên ở giải Công thức Renault 3.5 trong cuộc đua thứ năm tại trường đua Monaco. Với tổng cộng bốn chiến thắng, anh thua trong trận tranh đai trước Mikhail Alyoshin với tỷ số 138-136 và trở thành á quân.

Sau khi có được trải nghiệm đầu tiên khi thử nghiệm Công thức 1 cho Red Bull Racing vào tháng 12 năm 2009, anh và đồng đội Hartley đã được các đội Red Bull và Toro Rosso ký hợp đồng với tư cách là tay đua thử nghiệm và dự bị cho mùa giải 2010. Hai tay đua ban đầu thay phiên nhau đảm nhận vị trí này. Từ Grand Prix Đức, Ricciardo đã chiếm lấy vị trí này ở mọi chặng đua. Sau mùa giải, Ricciardo đã hoàn thành hai ngày chạy thử Công thức 1 cho đội đua Red Bull Racing. Anh ấy lập thời gian tốt nhất trong cả hai ngày. Anh đã vượt qua thời gian nhanh nhất của cuộc đua cuối tuần trước, mà đồng đội của anh ấy, Sebastian Vettel, đã thiết lập ở vòng loại. Vào năm 2011, Ricciardo đã hoàn thành mùa giải thứ hai trong Giải đua Công thức Renault 3.5 cho ISR. Do mâu thuẫn về ngày tháng, Ricciardo đã được đại diện bởi Lewis Williamson tại phần mở đầu mùa giải và phần cuối của Formula Renault 3.5. Ricciardo đã thắng cuộc đua ở Monte Carlo và đứng trên bục tổng cộng sáu lần. Anh ấy đã kết thúc mùa giải ở vị trí thứ năm trong giải vô địch. Ngoài ra, Ricciardo ban đầu đã đảm nhận lại vị trí lái thử vào năm 2011 với Red Bull và Toro Rosso. Tại Toro Rosso, anh đã xuất hiện trong tám chặng đua đầu tiên ở chức năng này tại buổi thực hành miễn phí đầu tiên.

Công thức 1 (từ năm 2011)[sửa | sửa mã nguồn]

HRT (2011)[sửa | sửa mã nguồn]

Từ Grand Prix Anh, anh ấy đã tiếp quản buồng lái HRT từ Narain Karthikeyan và xuất hiện lần đầu trong Công thức 1. Vào cuối mùa giải, anh đứng ở vị trí thứ 27 trong giải vô địch. Đối đầu với đồng đội người Ý Vitantonio Liuzzi, anh ấy đã giành chiến thắng trong cuộc đấu nội bộ với tỷ số 6:3. Do Hispania chỉ là một đội yếu nên Ricciardo không ghi được điểm nào.

Scuderia Toro Rosso (2012-2013)[sửa | sửa mã nguồn]

Ricciardo trở về Toro Rosso. Đồng đội của anh trong suốt thời gian với đội này là tay đua người Pháp Jean-Éric-Vergne.

2012[sửa | sửa mã nguồn]

Ricciardo đua cho đội Toro Rosso với Vergne. Anh lấy ngay được điểm đầu tiên bằng cách đứng thứ 9 tại cuộc đua ở Úc, quê hương anh. Anh cũng lấy thêm được vài điểm nữa, nhưng nói chung là ít hơn so với đồng đội của mình. Anh kết thúc ở vị trí thứ 18 với 10 điểm.

2013[sửa | sửa mã nguồn]

Ricciardo tiếp tục đua cho đội Toro Rosso với Vergne, nhưng anh lấy được nhiều điểm hơn so với đồng đội của mình. Ở Trung QuốcÝ, anh lấy được kết quả tốt nhất trong mùa giải này với tư cách đứng thứ 7. Anh kết thúc ở vị trí 14 với 20 điểm, đánh bại được đồng đội Vergne.

Thời gian đua tại Red Bull Racing (2014-2018)[sửa | sửa mã nguồn]

2014[sửa | sửa mã nguồn]

Ricciardo được Red Bull chọn để thay thế đồng hương Mark Webber giải nghệ[1]. Anh có một mùa giải đua cặp với Sebastian Vettel và hoàn toàn áp đảo anh ta với 238 điểm so với 189 trong khi Vettel là nhà đương kim vô địch.

Ngay ở chặng đua đầu tiên cho đội đua Red Bull, cũng là chặng đua trên sân nhà GP Úc, mặc dù cán đích ở vị trí thứ 2 nhưng anh đã bị hủy kết quả do chiếc xe vi phạm luật sử dụng nhiên liệu[2]. Tại Malaysia, anh phải bỏ cuộc. Anh lấy điểm đầu tiên tại Bahrain từ vị trí 13 sau khi bị phạt vì pitstop không an toàn. Anh tiếp tục lấy điểm ở Trung Quốc. Podium đầu tiên trong sự nghiệp của anh là ở Tây Ban Nha với vị trí thứ 3. Sau đó, Ricciardo thắng ở Canada[3]. Đó chính là chiến thắng đầu tiên của anh trong sự nghiệp công thức 1. Anh có được thêm 2 chiến thắng ở mùa giải này tại Hungary[4] và Bỉ[5]. Anh cũng lấy thêm được vài điểm và tám podium tiếp theo.

Ricciardo kết thúc mùa giải này ở vị trí thứ 3 với 238 điểm.

2015[sửa | sửa mã nguồn]

Daniel Ricciardo ở mùa giải 2015

Đội đua Red Bull chia tay Vettel nên Ricciardo có người đồng đội mới là Daniil Kvyat từ đội cũ của anh là Toro Rosso. Mùa giải này thì Ricciardo có 2 lần lên podium ở GP Hungary và GP Singapore. Ở mùa giải này thì anh cũng không làm được gì nhiều vì đội Red Bull kém cỏi, cho nên anh chỉ có thể lấy được 92 điểm mà thôi.

Hai người có kết quả khá ngang ngửa, chỉ hơn kém nhau có 3 điểm. Anh đứng vị trí thứ 8 với 92 điểm, thấp hơn 3 điểm so với đồng đội của mình.

2016[sửa | sửa mã nguồn]

Từ chặng đua thứ 1 cho đến 4, đồng đội của Ricciardo vẫn là tay đua người Nga Daniil Kvyat. Trong giai đoạn này, anh lấy điểm bằng cách đứng trong Top 5 ba lần liên tiếp ngoại trừ ở GP Nga.

Ricciardo tại FP2 Malaysia

Từ chặng đua thứ 5 thì Ricciardo lại có người đồng đội mới là Max Verstappen. Tay đua người Úc có lần đầu tiên giành được pole ở chặng 6-GP Monaco [6]. nhưng chỉ về nhì sau Lewis Hamilton vì lỗi trong pitstop của đội Red Bull. Đây là lần hiếm hoi mà Ricciardo lên podium với tâm trạng buồn rầu, trái với cá tính vui vẻ thường ngày của anh vì anh bị tuột mất chiến thắng của mình. Nửa sau của mùa giải, tay đua Red Bull liên tục lên podium để xếp thứ 3 chung cuộc. Ở GP Hungary, anh lại lấy podium với tư cách đứng thứ 3. Anh đạt thêm đựoc các podium tiếp theo ở GP Đức, GP Bỉ, GP Singapore và GP Hoa Kỳ. Đặc biệt anh có thêm một chiến thắng ở GP Malaysia sau khi Lewis Hamilton bị cháy động cơ khi đang dẫn đầu[7]. Ở Mexico, anh đạt được vị trí thứ 3 sau khi Sebastian VettelMax Verstappen bị phạt.

Mùa giải 2016 Ricciardo không bỏ cuộc một lần nào. Anh kết thúc mùa giải này tại vị trí thứ 3 như năm 2014, nhưng có nhiều điểm hơn.

2017[sửa | sửa mã nguồn]

Nửa đầu mùa giải Ricciardo có chuỗi 5 chặng đua liên tiếp lên podium từ chặng 5 (GP Tây Ban Nha) đến chặng 9 (GP Áo), trong đó có 4 lần về ba và một lần chiến thắng ở chặng đua vô cùng hỗn loạn GP Azerbaijan[8]. Ở GP Hungary, anh phải bỏ cuộc vì đâm với Max Verstappen, đồng đội của anh. Tiếp theo, anh lại lấy thêm podium ở Bỉ, Singapore, Malaysia và Nhật Bản. Tuy nhiên ở 4 chặng đua cuối cùng, Ricciardo phải bỏ cuộc 3 lần.

2018[sửa | sửa mã nguồn]

Ricciardo có được chiến thắng ngay ở chặng đua thứ 3 của mùa giải-GP Trung Quốc[9]. Nhưng ở chặng đua thứ 4-GP Azerbaijan, Ricciardo lại để va chạm lớn với đồng đội Max Verstappen khiến cho cả 2 cùng phải bỏ cuộc[10]. Sau đó tay đua người Úc có lần thứ 2 giành pole GP Monaco (chặng 6) và lần này anh không bỏ lỡ thời cơ để giành chiến thắng thứ 2 trong mùa giải[11].

Đó cũng là podium cuối cùng của Ricciardo trong mùa giải 2018. Tổng kết mùa giải 2018, Ricciardo nằm trong số các tay đua phải bỏ cuộc nhiều nhất với 8 lần bỏ cuộc trong số 21 chặng đua vì thế mà anh xếp dưới đồng đội Verstappen trên BXH tổng. Anh đứng thứ 6 với 170 điểm.

Ricciardo ở lại Red Bull cho đến hết năm 2018 thì bất ngờ chuyển sang Renault từ năm 2019 dù được Red Bull thuyết phục gia hạn hợp đồng[12].

Tham gia Renault (2019-2020)[sửa | sửa mã nguồn]

2019[sửa | sửa mã nguồn]
Daniel Ricciardo ở chặng đua GP Áo 2019

Ricciardo gia nhập Renault và đồng đội mới của anh là Nico Hülkenberg.

Ricciardo không có podium nào ở mùa giải này. Sự khởi đầu của mùa giải này là không may đối với anh vì tai nạn ở chặng đua quê nhà ở Úc và động cơ bị hỏng ở chặng đua GP Bahrain. Thế nhưng, anh lấy được điểm đầu tiên ở chặng đua GP Trung Quốc với vị trí thứ 7[13]. Ở chặng đua GP Azerbaijan, anh đã đâm phải đằng sau ô tô của đồng đội cũ Daniil Kvyat sau khi anh định vượt Daniil Kvyat. Kết quả là cả anh và Daniil phải bỏ cuộc[14]. Trong 6 chặng đua cho đến chặng đua GP Đức, kết quả tốt nhất trong qualifying của anh là ở Canada với vị trí thứ 4 và vị trí thứ 6 trong cuộc đua. Ở Đức, anh đã phải bỏ cuộc vì lỗi kỹ thuật.

Tại chặng đua GP Ý, anh đã về đích ở vị trí thứ 4 và do đó anh đã giành được kết quả tốt nhất trong mùa. Cùng với vị trí thứ 5 của Hülkenberg, đội Renault đạt được kết quả tốt nhất trong mùa kể từ năm 2016. Ở chặng đua GP Nga, anh phải bỏ cuộc vì một cú đâm của đối thủ. Riêng ở chặng đua GP Nhật Bản, cả anh và đồng đội Nico Hulkenberg đều bị hủy kết quả do chiếc xe vi phạm luật mặc dù anh về đích thứ 6 và đồng đội anh thứ 8[15]. Anh lấy thêm điểm liên tiếp ở Mỹ, Mexico và Brazil[16]. Ricciardo kết thúc mùa giải ở vị trí thứ 9, cao hơn Hülkenberg 5 bậc. Nhưng nói chung là mùa giải này của anh khá thất vọng.

2020[sửa | sửa mã nguồn]

Ricciardo có đồng đội mới trong mùa giải này. Đó chính là Esteban Ocon, người thay thế Nico Hülkenberg ở Renault[17].

Daniel Ricciardo vào mùa giải 2020

Chặng đua duy nhất trong mùa giải mà Ricciardo phải bỏ cuộc không may lại là chặng đua trên tại Áo - chặng đua mở màn. Tại giải đua tiếp theo ở Áo, nhưng với tên gọi khác (GP Styria), Ricciardo kết thúc ở vị trí thứ 8[18]. Ở chặng đua GP Hungary, anh đứng ở vị trí thứ 11 và cán đích ở vị trí thứ 8.

Tại chặng đua GP Anh 2020, Ricciardo về đích ở vị trí thứ 4, cân bằng thành tích tốt nhất của anh cho Renault[19]. Anh đang ở vị trí thứ 6 trong khi khi xe của Carlos Sainz Jr.Valtteri Bottas nổ lốp. Điều này đã giúp anh leo lên vị trí thứ 4. Anh suýt vượt qua Charles Leclerc để giành chiếc podium đầu tiên sau 2 năm, nhưng lại thiếu mất 1,2 giây. Tại chặng đua GP kỷ niệm 70 năm, Ricciardo đã vượt qua vòng phân hạng ở vị trí thứ 5, nhưng một cú spin giữa cuộc đua đã dẫn đến việc anh về đích ở vị trí thứ 14[20]. Ricciardo vượt qua vòng phân hạng ở vị trí thứ 13 và về thứ 11 tại cuộc đua tiếp theo ở Tây Ban Nha[21]. Ricciardo tiếp tục ghi được điểm 11 lần nữa trong các chặng đua cho đến cuối mùa giải, bắt đầu từ chặng đua GP Bỉ 2020. Anh vượt qua vòng phân hạng và cán đích ở vị trí thứ 4, đồng thời lập fastest lap ở vòng cuối cùng của cuộc đua[22]. Tại chặng đua GP Italia 2020, anh xuất phát ở vị trí thứ 7 và về đích ở vị trí thứ 6[23]. Tại chặng đua GP Tuscan 2020, anh đã vượt qua vòng phân hạng ở vị trí thứ 8 và chạy ở vị trí thứ 3 trong phần lớn cuộc đua, nhưng Alexander Albon của đội Red Bull đã vượt qua Ricciardo, khiến anh kết thúc ở vị trí thứ 4[24].

Tại chặng đua GP Nga, Ricciardo là người nhanh nhất trong vòng phân hạng thứ 2 nhưng chỉ vượt qua vòng phân hạng ở vị trí thứ 5[25]. Trong cuộc đua, anh về đích ở vị trí thứ 5 mặc dù bị phạt 5 giây. Tại chặng đua GP Eifel 2020, Ricciardo vượt qua vòng phân hạng và đứng ở vị trí thứ 6 trước khi lên bục podium đầu tiên của đội kể từ giải đua ô tô Công thức 1 Malaysia 2011. Đây là bục đầu tiên của Ricciardo kể từ khi gia nhập Renault, và là lần đầu tiên anh ấy lên bục kể từ chặng đua GP Monaco 2018. Trong cuộc đua tiếp theo, chặng đua GP Bồ Đào Nha 2020, anh xuất phát ở vị trí thứ 10 sau khi va chạm ở vòng phân hạng thứ hai. Anh về thứ 9 trong cuộc đua.

Anh đã lên bục podium lần thứ hai cho Renault tại chặng đua GP Emilia Romagna. Xuất phát ở vị trí thứ 5, anh đã vượt qua Pierre Gasly ở vòng đầu tiên, trước khi bị Sergio Pérez vượt qua. Tuy nhiên, một sự cố hỏng lốp và việc đồng đội cũ Max Verstappen bỏ cuộc và một lỗi chiến lược của đội Racing Point cho Pérez đã khiến anh cán đích ở vị trí thứ 3. Tại chặng đua GP Bahrain 2020, anh xuất phát ở vị trí thứ 6 và vượt qua Valtteri Bottas ở vòng đầu tiên. Tuy nhiên, sau cờ đỏ, anh đã có một khởi đầu thứ hai tệ hại, khiến anh tụt xuống thứ 10. Cuối cùng anh ấy đã về đích ở vị trí thứ 7. Tại Chặng đua GP Sakhir 2020, anh có cơ hội lên podium sau khi Charles Leclerc, Max Verstappen và Sergio Pérez đều va chạm với nhau ở vòng đầu tiên của cuộc đua. Nhưng lần dừng pit thứ hai không đúng lúc đã khiến Ricciardo bị vượt qua, kết thúc cuộc đua ở vị trí thứ 5. Trong chặng đua cuối cùng của anh ấy cho Renault tại Chặng đua GP Abu Dhabi 2020 Abu Dhabi Grand Prix, anh ấy chỉ đứng thứ 12; tuy nhiên, anh có thể leo lên vị trí thứ 7. Anh ấy cũng đã lập fastest lap ở vòng đua cuối cùng. Ricciardo kết thúc ở vị trí thứ 5 trong bảng xếp hạng giải vô địch với 119 điểm, kém Sergio Pérez ở vị trí thứ 4 6 điểm. Chung cuộc Ricciardo tốt hơn rất nhiều người đồng đội mới Esteban Ocon (P12).

Thời gian khó khăn tại McLaren (2021-2022)[sửa | sửa mã nguồn]

2021[sửa | sửa mã nguồn]
Daniel Ricciardo tại GP Anh 2021

Ricciardo gia nhập đội đua McLaren F1 Team[26] và làm đồng đội với Lando Norris. Tại chặng đua mở màn ở Bahrain, anh xuất phát trước đồng đội của mình ở vị trí thứ 6, nhưng về đích ở vị trí thứ 7 vì xe bị hỏng[27]. Ở chặng tiếp theo tại Imola, anh lại xuất phát trước đồng đội của mình ở vị trí thứ 6. Anh lên vị trí thứ 5 nhưng anh không thể theo kịp các xe đứng đầu. Kết cục, anh về vị trí thứ 6[28]. Ở Bồ Đào Nha, Ricciardo bắt đầu từ vị trí thứ 16 sau khi bị loại trong vòng phân hạng thứ nhất[29]. Anh về đích về thứ 9 trong cuộc đua[30]. Tại chặng đua GP Tây Ban Nha, Ricciardo xuất phát từ vị trí thứ 7, nhưng đã cố gắng leo lên thứ năm trong vòng đầu tiên. Anh đứng thứ 5 trước tay đua Sergio Pérez của đội Red Bull cho đến vòng 45, nơi Pérez có thể vượt qua ở lượt 1. Anh về thứ 6, đánh dấu lần đầu tiên trong mùa giải anh về đích trước Norris.

Ricciardo đứng thứ 5 ở chặng đua tiếp theo, chặng đua GP Ý, kém đồng đội của mình 6 nghìn giây. Trong cuộc đua sprint race hôm thứ Bảy, Ricciardo giành được 2 vị trí ở vòng đua 1 để cán đích ở vị trí thứ 3, kiếm được 1 điểm. Sau khi Valtteri Bottas bị phạt, anh bắt đầu vào chủ nhật trên hàng đầu. Điều này cũng đánh dấu cuộc đua thứ ba liên tiếp mà anh ấy đã vượt qua người đồng đội của mình vượt qua vòng loại. Khi bắt đầu cuộc đua, Ricciardo có một khởi đầu tốt hơn so với Max Verstappen và dẫn đầu ở lượt 1. Anh đã cầm chân Verstappen trong 21 vòng, sau khi safety car (xe an toàn) và áp lực muộn từ Norris. Anh đồng thời chiến thắng cho McLaren và cũng lập fastest lap (vòng đua nhanh nhất). Đây cũng là chiến thắng đầu tiên của đội kể từ Chặng đua GP Brazil 2012 và kết thúc ở 2 vị trí dẫn đầu lần đầu tiên kể từ chặng đua GP Canada 2010[31].

Trong mùa giải này, Ricciardo gặp khó khăn trong quá trình hòa nhập với đội đua mới nên không có kết quả cao trong suốt mùa giải. Anh kết thúc ở vị trí thứ 8 với 105 điểm, thấp hơn rất nhiều so với đồng đội của mình.

2022[sửa | sửa mã nguồn]

Ricciardo tiếp tục thi đấu cho đội đua McLaren với đồng đội Lando Norris.

Anh tiếp tục gặp khó khăn trong suốt mùa giải mặc dù anh vẫn lấy được 37 điểm trong suốt mùa giải. Kết quả tốt nhất của anh là vị trí thứ 5 tại Chặng đua GP Singapore.

Mặc dù anh lấy được điểm cho McLaren, CEO của đội là Zak Brown đã quyết định thay thế anh với Oscar Piastri. Trong giữa mùa giải, Ricciardo được đội McLaren thông báo là hợp đồng của anh sẽ bị kết thúc trong năm nay. Kết cục là anh phải rời đội McLaren và anh đã quyết định sẽ không tham gia vào mùa giải F1 năm 2023.

Quay trở lại Red Bull Racing (từ năm 2023)[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 23/11/2022, Ricciardo quay trở về Red Bull Racing để làm tay đua dự bị.

Thống kê thành tích[sửa | sửa mã nguồn]

Sự nghiệp tiền F1[sửa | sửa mã nguồn]

2005 Western Australian Formula Ford Championship Privateer 3 0 0 ? 0 74 8th
2006 Formula BMW Asia Eurasia Motorsport 19 2 3 3 12 231 3rd
Formula BMW UK Motaworld Racing 2 0 0 0 0 3 20th
Formula BMW World Final Fortec Motorsport 1 0 0 0 0 N/A 5th
2007 Formula Renault 2.0 Italy RP Motorsport 14 0 0 0 0 196 6th
Eurocup Formula Renault 2.0 4 0 0 0 0 0 NC
2008 Formula Renault 2.0 WEC SG Formula 15 8 9 7 11 192 1st
Eurocup Formula Renault 2.0 18 6 5 5 7 136 2nd
Formula 3 Euro Series 2 0 0 0 0 N/A NC
Masters of Formula 3 1 0 0 0 0 N/A NC
2009 British Formula 3 Championship Carlin Motorsport 20 7 6 5 13 275 1st
Masters of Formula 3 1 0 0 0 0 N/A NC
Formula Renault 3.5 Series Tech 1 Racing 2 0 0 0 0 0 34th
Macau Grand Prix Carlin 1 0 0 0 0 N/A NC
2010 Formula Renault 3.5 Series Tech 1 Racing 16 4 8 5 8 136 2nd
2011 Formula Renault 3.5 Series ISR 12 1 2 3 6 144 5th

Sự nghiệp trong công thức 1 (F1)[sửa | sửa mã nguồn]

(Tính đến Chặng đua GP Abu Dhabi 2022)

Năm Thể thức Đội đua Số chặng đua Các cuộc thắng Poles Vòng đua nhanh nhất

(fastest lap)

Podiums Số điểm Kết quả
2011 Formula Renault 3.5 Series ISR 12 1 2 3 6 144 5th
Công thức 1 HRT Formula 1 Team 11 0 0 0 0 0 27th
2012 Công thức 1 Scuderia Toro Rosso 20 0 0 0 0 10 18
2013 Công thức 1 Scuderia Toro Rosso 19 0 0 0 0 20 14
2014 Công thức 1 Infiniti Red Bull Racing 19 3 0 1 8 238 3
2015 Công thức 1 Infiniti Red Bull Racing 19 0 0 3 2 92 8
2016 Công thức 1 Red Bull Racing 21 1 1 4 8 256 3
2017 Công thức 1 Red Bull Racing 20 1 0 1 9 200 5
2018 Công thức 1 Aston Martin Red Bull Racing 21 2 2 4 2 170 6
2019 Công thức 1 Renault F1 Team 21 0 0 0 0 54 9
2020 Công thức 1 Renault DP World F1 Team 17 0 0 2 2 119 5
2021 Công thức 1 McLaren F1 Team 22 1 0 0 0 105 8
2022 Công thức 1 McLaren F1 Team 20 0 0 0 0 37 11
Tổng cộng 230 8 3 16 32 1311

Đời tư[sửa | sửa mã nguồn]

Ricciardo sinh ngày 1/07/1989 ở Perth, Australia. Ricciardo là con trai của một người nhập cư từ Ý và một người mẹ là người Úc gốc Ý. Ricciardo còn có một người chị (em gái) tên là Michelle.

Ricciardo hâm mộ tay đua Dale Earnhardt nên chọn số 03 làm số xe vĩnh viễn[32].

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “Daniel Ricciardo will drive for Red Bull alongside Sebastian Vettel in 2014 season”. Skysports.
  2. ^ “Ricciardo excluded from Australia race results”. Trang chủ Formula1.
  3. ^ “Canadian GP: Chiến thắng bất ngờ”. 24h.
  4. ^ “Hamilton lại vượt khó, Ricciardo bất ngờ tỏa sáng tại Hungary”. Vnexpress.
  5. ^ “Belgian GP 2014: Chiến thắng giành cho Ricciardo”. VTV.
  6. ^ “Qualifying - Ricciardo storms to maiden pole in Monaco”. Trang chủ Formula1.
  7. ^ “Hamilton gặp hạn, Ricciardo về nhất tại GP Malaysia”. Vnexpress.
  8. ^ “Vettel bị phạt vì đâm Hamilton, Ricciardo về nhất GP Azerbaijan”. Vnexpress.
  9. ^ “Đua xe F1: Daniel Ricciardo về nhất chặng đua tại Trung Quốc”. VTV.
  10. ^ “Đua xe F1: Hamilton đăng quang ở chặng đua điên rồ tại Azerbaijan”. Thể thao SGGP.
  11. ^ “Daniel Ricciardo về nhất tại Grand Prix Monaco”. Vnexpress.
  12. ^ “Sốc-Daniel Ricciardo rời Redbull để gia nhập Renault”. Thể thao tốc độ.
  13. ^ 'I was able to build from FP1' – Ricciardo reflects on first points for Renault”. www.formula1.com. 15 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2022.
  14. ^ Smale, Simon (29 tháng 4 năm 2019). “Daniel Ricciardo crashes out of F1 Azerbaijan Grand Prix after reversing into Dani Kvyat”. www.abc.net.au. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2022.
  15. ^ “Renault disqualified from results of the Japanese Grand Prix”. Trang chủ Formula1.
  16. ^ “2019 Driver Standings: Daniel Ricciardo”. www.formula1.com. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2022.
  17. ^ Matthey, James (15 tháng 7 năm 2020). “F1 2020: Daniel Ricciardo addresses fight with Esteban Ocon”. https://www.news.com.au. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2022. Liên kết ngoài trong |website= (trợ giúp)
  18. ^ “Hamilton eases to Styrian Grand Prix victory over Bottas as Ferraris collide”. https://www.formula1.com/. 12 tháng 7 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2022. Liên kết ngoài trong |website= (trợ giúp)Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  19. ^ “Ricciardo equals best-ever Renault finish as Hamilton wins on three wheels in stunning last lap”. www.foxsports.com.au. 3 tháng 8 năm 2020. Truy cập 2022-18-11. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |ngày truy cập= (trợ giúp)
  20. ^ Matthey, James (10 tháng 8 năm 2020). “F1 2020: F1 2020: Daniel Ricciardo's big mistake in awful 70th Anniversary Grand Prix”. www.news.com.au. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2022.
  21. ^ “The harsh truth Daniel Ricciardo knew 'deep down' in Spanish Grand Prix shocker”. Fox Sports (bằng tiếng Anh). 17 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2022.
  22. ^ 'I've never heard that': Mercedes ace fumes at Hamilton order as Ricciardo seizes huge F1 chance”. Fox Sports (bằng tiếng Anh). 31 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2022.
  23. ^ “Red Bull reject nails 'unbelievable' redemption as 'crazy' twist ruins Ricciardo dream”. Fox Sports (bằng tiếng Anh). 7 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2022.
  24. ^ 'It certainly hurts': Ricciardo hiding 'pain' behind trademark smile”. Fox Sports (bằng tiếng Anh). 15 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2022.
  25. ^ “F1 Russian Grand Prix qualifying: Nerveless Hamilton seals clutch pole as Vettel crash sparks chaotic qualifying session”. Fox Sports (bằng tiếng Anh). 26 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2022.
  26. ^ “Chia tay Renault, Daniel Ricciardo gia nhập McLaren”. VTV.
  27. ^ “McLaren reveal floor damage from Lap 4 contact with Gasly slowed Ricciardo in Bahrain”. www.formula1.com. 30 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2022.
  28. ^ “Ricciardo on Imola team orders: 'I acknowledge that I wasn't quick enough' and will 'figure out a way to be better'. www.motorlat.com. 2021-25-04. Truy cập 2022-31-10. |tên= thiếu |tên= (trợ giúp); Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |ngày truy cập=|ngày= (trợ giúp)
  29. ^ “FORMULA 1 HEINEKEN GRANDE PRÉMIO DE PORTUGAL 2021 - QUALIFYING”. www.formula1.com. 2 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2022.
  30. ^ “FORMULA 1 HEINEKEN GRANDE PRÉMIO DE PORTUGAL 2021 - RACE RESULT”. 2 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2022.
  31. ^ Minh Phương (13 tháng 9 năm 2021). “Hamilton thoát chết khi bị xe của Verstappen đè đầu”. https://vnexpress.net. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2022. Liên kết ngoài trong |website= (trợ giúp)
  32. ^ “NASCAR fan Ricciardo offered drive in Dale Earnhardt Sr stock car – if he lands podium for McLaren”. Trang chủ Formula1.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]