Danny Blind

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Dirk Franciscus " Danny " Blind (phát âm tiếng Hà Lan: [dɪrk frɑnˈsɪskəz dɛni blɪnt];  sinh ngày 1 tháng 8 năm 1961) là cựu cầu thủ bóng đá quốc tế người Hà Lan. Anh chơi ở vị trí hậu vệ cho Sparta Rotterdam, Ajax và đội tuyển quốc gia Hà Lan. Ông là một trong hai cầu thủ người Hà Lan, cùng với Arnold Mühren, đã giành chiến thắng trong tất cả các cuộc thi của câu lạc bộ UEFA và Cúp Liên lục địa.

Chơi sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Câu lạc bộ sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Ông ra mắt bóng đá chuyên nghiệp vào ngày 29 tháng 8 năm 1979 với Sparta Rotterdam. Ông ở lại theo hợp đồng với Sparta trong bảy mùa khi vào tháng 7 năm 1986, anh chuyển đến Ajax, được quản lý bởi Johan Cruyff. Tuy nhiên, bản hợp đồng của Blind đã khiến cho siêu sao Ajax Marco van Basten buồn bã, người rất buồn vì người quản lý của mình đã mang về một cầu thủ phòng ngự tương đối lạ, từ một câu lạc bộ khá nhỏ như Sparta, thay vì vung tiền lớn, chuyển nhượng tên tuổi lớn. Với Ajax, ông tích lũy được một danh sách cúp ấn tượng, chiến thắng cả ba danh hiệu châu Âu (Cúp UEFA Cup Winners' trong năm 1987, các UEFA Cup trong1992 và UEFA Champions League trong năm 1995). Ông cũng bảo đảm Cup Liên lục địa năm 1995 trước Grêmio của Brazil bằng cách ghi bàn thắng trong loạt sút luân lưu.

Blind là một lần nữa một anh hùng phạt khi ông chuyển đổi gấp đôi so với Real Zaragoza trong châu Âu Siêu cúp cuối cùng của năm 1995, mà Ajax thắng 5-1 trong hai chân. Hai hình phạt mà Blind chuyển đổi là ở phút thứ 65 và 69 của trận lượt về.

Ở trong nước, với Ajax, ông đã giành được năm Giải vô địch Eredivisie của Hà Lan và bốn cúp quốc gia. Ông nghỉ hưu vào ngày 16 tháng 5 năm 1999.

Blind được biết đến là một hậu vệ chắc chắn, đáng tin cậy và là một nhà lãnh đạo trên sân. Tuy nhiên, anh cũng là một cầu thủ có năng khiếu và văn hóa kỹ thuật, có thể chuyền và tấn công bóng tốt cho một cầu thủ không tấn công. Trong khi nổi tiếng là một trung vệ, Blind bắt đầu sự nghiệp của mình như một hậu vệ cánh phải.

Sự nghiệp quốc tế[sửa | sửa mã nguồn]

Blind đã giành được 42 mũ cho Hà Lan trong khoảng thời gian mười năm, ghi bàn một lần trước Hy Lạp trong vòng loại UEFA Euro 1992. Ông đã ra mắt vào năm 1986 trước Scotland nhưng không bị giới hạn vào năm 1987 hoặc 1988, sự vắng mặt có nghĩa là ông đã bỏ lỡ là một phần của đội bóng chiến thắng UEFA Euro 1988. Tuy nhiên, ông xuất hiện ở năm 1990 và World Cup 1994 và 1992 và giải vô địch châu Âu năm 1996, nghỉ hưu sau khi sau này.

Nghề quản lý[sửa | sửa mã nguồn]

Blind là huấn luyện viên trưởng tại Ajax từ ngày 14 tháng 3 năm 2005 (được bổ nhiệm làm người kế nhiệm Ronald Koeman) cho đến ngày 10 tháng 5 năm 2006, chỉ sau 422 ngày phụ trách. Ông đã dẫn dắt Ajax đến chiến thắng tại KNVB Cup và Johan Cruyff Shield.

Trong 2007 2007,08, Blind trở thành giám đốc bóng đá tại câu lạc bộ cũ của ông, Sparta Rotterdam. Vào ngày 15 tháng 5 năm 2008, ông trở lại Ajax để trở thành giám đốc bóng đá mới ở Amsterdam nhưng đã chuyển đổi vai trò khi Martin Jol gia nhập câu lạc bộ để làm trợ lý huấn luyện viên. Chuyển sang vị trí giám đốc kỹ thuật cho Ajax vào đầu mùa 2011 - 2012, vào ngày 9 tháng 2 năm 2012, Blind đã tuyên bố từ bỏ nhiệm vụ giám đốc kỹ thuật tại Ajax, kết luận một cuộc tranh cãi gay gắt xung quanh ban giám đốc của câu lạc bộ.

Vào ngày 1 tháng 7 năm 2015, Blind được đặt tên là người kế nhiệm của Guus Hiddink với tư cách là người quản lý của đội tuyển quốc gia Hà Lan. Ông đã thất bại trong việc dẫn họ đến Euro 2016, và anh ấy đã đặt chiến dịch vòng loại World Cup 2018 sau khi kết quả ít ỏi hơn. Ông đã bị FA Hà Lan sa thải vào ngày 26 tháng 3 năm 2017, một ngày sau khi thua 2-0 trên sân Bulgaria, điều này khiến cơ hội vượt qua vòng loại của họ bị nghi ngờ nghiêm trọng.

Cuộc sống cá nhân[sửa | sửa mã nguồn]

Blind là cha đẻ của cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp Daley Blind, người gần đây đã trở lại Ajax sau 4 năm gắn bó với Manchester United.

Thống kê nghề nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Hiệu suất câu lạc bộ liên đoàn Cốc Cúp liên đoàn Lục địa Toàn bộ
Mùa Câu lạc bộ liên đoàn Ứng dụng Những mục tiêu Ứng dụng Những mục tiêu Ứng dụng Những mục tiêu Ứng dụng Những mục tiêu Ứng dụng Những mục tiêu
nước Hà Lan liên đoàn Cúp KNVB Cúp liên đoàn Châu Âu Toàn bộ
1979 lồng80 Sparta Rotterdam Eredivisie 13 0 2 0 - - - - 15 0
198018181 10 0 0 0 - - - - 10 0
1981 10 2 2 0 - - - - 12 2
1982 34 3 1 0 - - - - 35 3
1983 34 5 3 0 - - 6 0 43 5
1984 30 3 4 0 - - - - 34 3
1985 34 5 1 0 - - 4 0 39 5
1986 Ajax 29 4 5 0 - - 7 0 41 4
19878888 31 0 1 0 - - số 8 1 40 1
1988 30 2 3 0 - - - - 33 2
19899090 34 0 4 0 - - - - 38 0
1990 34 2 3 0 - - - - 37 2
1991 Gian92 30 2 3 1 - - 12 1 45 4
1992 28 4 5 0 - - số 8 0 41 4
1993 30 1 4 3 - - 6 0 40 4
1994 34 5 3 0 - - 10 0 49 5
1995 31 3 1 0 - - số 8 0 40 3
1996 1996 16 0 0 0 - - 5 0 21 0
1997 26 1 4 1 - - 7 0 37 2
1998 1998 19 3 2 0 - - 3 0 24 3
Toàn bộ Ajax 372 27 38 5 - - 84 2 494 34
Tổng số nghề nghiệp 537 45 51 5 - - 94 2 682 54

Danh dự[sửa | sửa mã nguồn]

AFC Ajax[sửa | sửa mã nguồn]

Là người chơi
  • 5 Eredivisie: 1989 189090, 1993 Từ94, 1994, 95, 1995, 96
  •  " Cúp 4 KNVB: 1987, 1993, 1998, 1999
  • 2 Khiên bảo vệ Johan Cruyff: 1993, 1994
  • 1 UEFA Champions League: 1995
  • 1 Cúp vô địch UEFA Cup: 1987
  • 1 Cúp UEFA: 1992
  • 1 Siêu cúp UEFA: 1995
  • 1 Cúp Liên lục địa: 1995

Quản lý[sửa | sửa mã nguồn]

  • Cúp KNVB: 2006
  • Khiên Johan Cruyff: 2005

Cá nhân l[sửa | sửa mã nguồn]

  • Giày vàng Hà Lan: 1995, 1996
  • Đội ESM của năm: 1994 Hàng 95, 1995 Từ 96
  • [1] Giải thưởng cầu thủ xuất sắc nhất giải đấu liên lục địa: 1995

Thống kê quản lý[sửa | sửa mã nguồn]

Kể từ trận đấu diễn ra vào ngày 26 tháng 3 năm 2017
Đội Từ Đến Ghi lại
G W D L Thắng lợi %
nước Hà Lan Tháng 7 năm 2015 Tháng 3 năm 2017 17 7 3 7 41,18
Toàn bộ 17 7 3 7 41,18

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]