Dar al Kuti

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Vương quốc Hồi giáo Dar al Kuti
1830–1911
Vị trí gần đúng của Dar al-Kuti với đường biên giới hiện đại.
Vị trí gần đúng của Dar al-Kuti với đường biên giới hiện đại.
Thủ đô
Ngôn ngữ thông dụngTiếng Ả Rập, các ngôn ngữ Nin-Sahara khác
Tôn giáo chính
Hồi giáo (chính thức), Tôn giáo bản địa châu Phi
Chính trị
Chính phủQuân chủ
Sheikh, emir 
• 1830–1870
Djougoultoum
• 1870–1890
Kobur
• 1890-1911
Muhammad al-Sanussi
Lịch sử
Thời kỳCuối thời kỳ cận đại
• Thành lập
1830
• Rabih az-Zubayr hạ bệ Kobur để ủng hộ al-Sanussi
1890
• Giải thể
1911
• Sự đầu hàng của Kamun, con trai Senussi
1912
Tiền thân
Kế tục
Dar Runga
Châu Phi Xích Đạo thuộc Pháp
Hiện nay là một phần củaCộng hòa Trung Phi
Tchad

Dar al Kuti (một số nguồn ghi là "Dar al-Kuri") là một nhà nước Hồi giáo ở khu vực ngày nay là trung tâm và phía tây bắc của Cộng hòa Trung Phi, tồn tại từ khoảng năm 1830 đến ngày 17 tháng 12 năm 1912.[1] Từ khoảng năm 1800, tên Dar al-Kuti đã được đặt cho một khu vực biên giới ở phía tây nam của Wadai, một vương quốc ở vùng hồ Tchad. Thuật ngữ "dar" có nghĩa là "nơi ở" trong tiếng Ả Rập, trong khi thuật ngữ "kuti" trong ngôn ngữ địa phương có nghĩa là một khu rừng hoặc khu vực có nhiều cây cối rậm rạp.[2]

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Một khu dân cư ở Dar al Kuti.

Nguồn gốc và sự cai trị của Djougoultoum (k.1830-1870)[sửa | sửa mã nguồn]

Cả Wadai và nước láng giềng phía tây của nó là Vương quốc Hồi giáo Baguirmi (1522-1897) đều truy bắt nô lệ ở vùng đất của người Sara, một dân tộc Nin ở phía nam của Tchad. Vào đầu thế kỷ XIX, những cuộc truy bắt này đã đến khu vực nay là Cộng hòa Trung Phi. Vào thời điểm này, nhà lãnh đạo Baguirmi là Mbang Bourgomanda có hai con trai là Abd el-Kader và Djougoultoum. Khi Abd el-Kader trở thành quốc vương vào năm 1826, ông tìm cách đẩy em trai mình khỏi quyền lực, khiến Djougoultoum chạy trốn đến Wadai.[3]:65

Kalak (quốc vương) của Wadai đã đưa Djougoultoum đến vương quốc Dar Runga, được cai quản bởi một quốc vương là chư hầu của ông. Dar Runga là vùng biên phòng biên phòng giữa sông Azoum và Aouk. Djougoultoum kết hôn với Fatme, con gái của quốc vương Dar Runga Boker, và vào năm 1830, ông đã định cư ở một khu vực biên giới xa hơn về phía nam, Bilad al-Kuti, một khu vực dành cho việc truy bắt nô lệ ở phía nam sông Aouk. Bilad al-Kuti hay Dar al-Kuti đã trở thành một chư hầu của Dar Runga.[3]:65[4]

Chá, trên sông Diangara, một nhánh của sông Aouk, đã trở thành thủ phủ của quốc gia mới này và Djougoultoum được Wadai bổ nhiệm làm thống đốc của Dar al-Kuti, nơi có mức độ độc lập cao. Niên đại trị vì của ông (1830-1870) có lẽ không chính xác, nhưng ông là thống đốc đầu tiên của Dar al-Kuti. Lãnh thổ của nó bao gồm mười bốn ngôi làng (có lẽ chỉ là những khu định cư quan trọng nhất của nó) và có thể đi hết hai ngày từ đông sang tây, cho thấy rằng nó có diện tích nhỏ.[5]

Sự cai trị của Kobur (k.1870-1890)[sửa | sửa mã nguồn]

Vào cuối những năm 1860 hoặc đầu những năm 1870, một thương nhân và luật gia Hồi giáo (faqīh) được kính trọng tên là Kobur được phong làm thống đốc Dar al-Kuti (theo một số nguồn thì ông là con trai của Djougoultoum).[6] Sự giàu có và quyền lực của ông có lẽ bắt nguồn từ việc buôn bán ngà voi. Trong khi ông làm thống đốc, các nhóm kỵ sĩ Wadai thỉnh thoảng sẽ xuất hiện ở Dar al-Kuti để thu cống nạp và thu thập nô lệ từ quê hương của các dân tộc Nduka và Banda, giáp với lãnh thổ của Kobur. Kobur đã cẩn thận để duy trì mối quan hệ tốt đẹp cả với các vương quốc Hồi giáo lớn hơn ở phía bắc, cũng như với các nước láng giềng không theo đạo Hồi của mình. Dar al-Kuti tham gia vào việc buôn bán nô lệ ở một mức độ hạn chế, nhưng các cuộc truy quét quy mô lớn không diễn ra vào thời Kobur.[5]

Mối đe dọa lớn nhất đối với Dar al-Kuti được đặt ra bởi Rabih az-Zubayr, một chỉ huy người Sudan và người buôn bán nô lệ. Khi đó, ông đang hoạt động ở các khu vực trung tâm và đông bắc của Cộng hòa Trung Phi ngày nay, bắt giữ nhiều người Banda. Năm 1874, các thuộc hạ của Rabih chiếm giữ thủ đô Chá của Kobur, và năm sau đó, ông bị người Banda tấn công phía sườn kia. Năm 1880, Rabih đồng ý ngừng các cuộc tấn công vào Dar al-Kuti, đổi lại, ông được tự do đi qua lãnh thổ này để tấn công người Banda.[3]:112

Sự cai trị của Muhammad al-Sanusi (1890-1911)[sửa | sửa mã nguồn]

Muhammad al-Sanusi tập hợp quân đội của mình trong pháo đài kiên cố tại N'Délé.

Năm 1890, Kobur bị Rabih phế truất và bổ nhiệm cháu trai của Kobur là Muhammad al-Sanussi làm lãnh đạo của cả Dar al-Kuti lẫn Dar Runga.[3]:112 Al-Sanussi sinh khoảng năm 1850 tại Wadai. Con gái của ông là Khadija đã kết hôn với con trai của Rabih là Fadlallah.[6] Trong những năm sau đó, Rabih tiếp tục củng cố và mở rộng quyền lực của Sanussi. Bất cứ mối đe dọa tiềm tàng nào đối với sự cai trị của ông từ Kobur đều bị vô hiệu hóa và phạm vi ảnh hưởng của Dar al-Kuti mở rộng ra phần lớn Cộng hòa Trung Phi ngày nay.[5] Dar al-Kuti từng là chư hầu của Wadai trước năm 1890, và các lãnh chúa cũ của nó đã phản kháng việc Rabih chiếm quyền kiểm soát. Vào tháng 10 năm 1894, aguid của Wadai là Cherfeddine đã tấn công và phá hủy thủ đô Chá, buộc Sanussi phải duy trì một triều đình lưu động trong hai năm cho đến khi ông thành lập một khu định cư kiên cố mới, hay tata, tại N'Délé.

Vào những năm 1890, Pháp bắt đầu gây áp lực lên Dar al-Kuti. Nhiều nhà thám hiểm khác nhau đã mạo hiểm đến khu vực này của châu Phi, tìm kiếm các tuyến đường để kết nối các lưu vực của sông Ubangi và sông Shari. Một số người trong số họ, bao gồm cả Léon de Poumayrac và Alfred Fourneau đã đến các khu vực gần Dar al-Kuti, và vào năm 1891 Paul Crampel cùng một số người đi cùng bị Sanussi giết.[7]

Vào ngày 28 tháng 8 năm 1897, Sanussi đồng ý thành lập chính quyền bảo hộ của Pháp tại Dar al-Kuti thông qua một hiệp ước thương mại và liên minh được ký kết bởi Mohammed el-Sanussi và Émile Gentil. Hiệp ước đã được sửa đổi hai lần, vào ngày 18 tháng 2 năm 1903 và ngày 26 tháng 1 năm 1908, nhưng Dar al-Kuti vẫn giữ được nền độc lập của mình cho đến khi Sanussi qua đời vào ngày 12 tháng 1 năm 1911. Ông có ít nhất hai người con trai, Kamun, người kế vị và Kangaya. Con gái ông, Khadija, đã kết hôn với Fadlallah.

Bị Pháp xâm lược[sửa | sửa mã nguồn]

Người Pháp quyết định đã đến lúc phải kiểm soát trực tiếp phần lớn Dar al-Kuti. Kamun chạy trốn về phía đông đến Ouanda Djallé và tiếp tục kháng cự với quân đội Pháp cho đến ngày 17 tháng 12 năm 1912, khi Ouanda Djallé bị đánh bại bởi Đại úy Souclier và Kamun phải lưu vong ở Sudan.[5] Sau khi bị sáp nhập vào lãnh thổ Ubangi-Shari, một thuộc địa của Pháp, Dar al-Kuti trở thành một đơn vị hành chính (circonscription) và trong khoảng thời gian từ 1937-1946 là một vùng (département). Từ năm 1946, khu vực này được gọi là Quận tự trị N'Délé (1946-1961), Tỉnh tự trị N'Délé (1961-1964), và sau năm 1964 là Tỉnh Bamingui-Bangoran.[5]

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Cahoon, Ben. “Traditional States in the Central African Republic”. World Statesmen.org. World Statesmen.org. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2018.
  2. ^ Cordell D., Dar El Kuti and the last years of trans-saharan slave trade, The University of Wisconsin Press, pp. 7-8
  3. ^ a b c d Pierre Kalck (2005). Historical Dictionary of the Central African Republic. Scarecrow Press. ISBN 978-0-8108-4913-6.
  4. ^ Fandos-Rius, Juan. “Traditional Rulers in the Central African Republic”. Archive.today. Archive.today. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2018.
  5. ^ a b c d e Bradshaw, Richard; Fandos Rius, Juan. “The Sultanate of Dar al-Kuti”. The History Files. The History Files. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2018.
  6. ^ a b Garbou, Henri (1912). “La région du Tchad et du Oudaï; études ethnographiques, dialecte Toubou”. Bulletin de Correspondence Africaine. XLVII1.
  7. ^ “Dar-el-Kouti, cet ancien sultanat aux racines des revendications du nord de la Centrafrique”. Le Vif. Le Vif Magazine. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2018.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

  • Boucher, Edmond AJ, Monographie du Dar-Kouti-Oriental, 1934.
  • Cordell, Denis D, Dar al-Kuti and the Last Years of the Trans-Saharan Slave Trade, University of Wisconsin Press, Madison, WI, EUA, 1985.
  • Dampierre, Eric de, Un ancien royaume Bandia du Haut-Oubangui, Plon, París, 1967.
  • Kalck, Pierre, Central African Republic, Praeger Publishers Inc, New York, 1971.
  • Kalck, Pierre, Un explorateur du centre de l'Afrique, Paul Crampel (1864-1891), El Harmattan, París, 1993.