Eaglexpress

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Eaglexpress
IATA
9A
ICAO
EZX
Tên hiệu
EAGLEXPRESS AIR
Lịch sử hoạt động
Thành lập8 tháng 8 năm 2011 (2011-08-08)
Hoạt động19 tháng 9 năm 2012 (2012-09-19)
Sân bay chính
Trụ sởSân bay Quốc tế Kuala Lumpur [1]
Thông tin chung
Số máy bay5
Trụ sở chínhSelangor, Malaysia
Nhân vật
then chốt
Azlan Zainal Abidin (CEO)[2]
Trang webwww.eaglexpressair.com

Eaglexpress Air Charter Sdn Bhd (có tên thương mạiEaglexpress) là một hãng hàng không hợp đồng có văn phòng chính ở Selangor, Malaysia [3] và đặt trụ sở tại sân bay Quốc tế Kuala Lumpur. Hãng hàng không này là một liên doanh giữa những nhà đầu tư ở Malaysia và Hàn Quốc.[3] với tỉ lệ nắm cổ phần tương ứng là 60%-40%[3][4][5] hãng này chuyên về hợp đồng máy bay cho Hành hương, nghỉ dưỡng, thương mại và hoạt động bảo trì máy bay.[6]

Công ty được thành lập vào tháng 1 năm 2012 và bay chuyến bay hợp đồng đầu tiên vào tháng 2 cho một nhóm nghỉ dưỡng từ Hàn Quốc đến Malaysia. Tiếp sau đó là một hợp đồng sáu tháng với Vụ Du lịch Malaysia bao gồm các chuyến bay hành hương Umra đến Jeddah xuất phát từ Malaysia, miền Nam Thái Lan và Indonesia, bắt đầu từ tháng ba cho đến giữa tháng chín.[7]

Hãng hi vọng sẽ có được tổng cộng 8 máy bay cho đến cuối năm 2012, bao gồm Boeing 737-400/Boeing 737-800,[8] và tăng lên 20 máy bay trong năm năm kế tiếp.[9][10] chuyến bay hành hương Hajj đến Jeddah đầu tiên diễn ra vào ngày 21 tháng 9 năm 2012.[11] Eaglexpress có 3 máy bay boeing 747-400 hoạt động tuyến Saudia và cho Fly Nas thuê.

Eaglexpress đồng thời cũng mở rộng trong lĩnh vực chuyên chở hàng hóa và ACMI, sử dụng 3 máy bay Boeing 747-400F tập trung vào tuyến Hàn Quốc và Hồng Kong.[6][12]

Ngày 20 tháng 12, bản báo cáo của The Edge ghi nhận rằng giấy phép bay (Air Service Permit (ASP)) của hãng đã bị thu hồi và sẽ không có hiệu lực từ ngày 21 tháng 12 năm 2016, theo thông báo của Ủy ban Hàng không Malaysia.[13]

Đội bay[sửa | sửa mã nguồn]

Đội bay của Eaglexpress bao gồm các máy bay sau (tính đến tháng 10 năm 2016):[14]

Đội bay Eaglexpress
Máy bay Đang
hoạt động
Hợp đồng Hành khách Ghi chú
Boeing 747-400 4 2 thuê bởi Saudia, 1 thuê bởi Flynas, 1 đang còn trống
Boeing 747-400M 1 đang trống
Tổng cộng 5

Đội bay trước kia[sửa | sửa mã nguồn]

  • 1 máy bay Airbus A330-200 (cho hãng flynas thuê).[15] Máy bay này sau đó được hoàn trả cho chủ, Guggenheim Aviation Partners sau khi hết hợp đồng vào ngày 7 tháng 6 năm 2016.[16]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Eaglexpress Air Charter - ch-aviation.ch
  2. ^ “Eaglexpress clinches RM35m charter deal | theSundaily”. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2017.
  3. ^ a b c NEW AIRLINE: The Eagle Has Landed in Malaysia:: Routesonline
  4. ^ Eaglexpress fleet plan
  5. ^ “PMB sells 3 747-400s to new charter airline | theSundaily”. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2017.
  6. ^ a b “Eaglexpress information”. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2017.
  7. ^ Eaglexpress striles first business deal
  8. ^ “Eaglexpress to expand fleet to 8 aircraft, expects RM315m revenue”. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2017.
  9. ^ ntv7 - AVIATION INDUSTRY: EAGLEXPRESS AIR CHARTER EYES US$100 MLN REVENUE BY END-2012
  10. ^ Eaglexpress Air Charter hopes for US$100mil revenue by year-end
  11. ^ “Eaglexpress Air 1st Commercial Flight - Eaglexpress Air Charter Sdn Bhd”. www.eaglexpressair.com. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2012.
  12. ^ “New players prepare to take the field in the long-haul cargo game - CargoFacts.net”. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2017.
  13. ^ “MAVCOM revokes Eaglexpress air service permit”. The Edge. ngày 20 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2016.
  14. ^ “Eaglexpress Fleet Details and History”. Planespotters.net. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2016.
  15. ^ “Former Monarch Airlines A330-200 finds a new home”. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2015.
  16. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2017.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]